Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN VAI TRÒ GIẢNG dạy CÁCH báo cáo THUẾ TRONG DOANH NGHIỆP đối với học SINH KHỐI TRUNG cấp CHUYÊN NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.73 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
I. Phần mở đầu
I.1 Lý do chọn đề tài
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
I.3. Đối tượng nghiên cứu.
I.4. Phạm vi nghiên cứu
I.5. Phương pháp nghiên cứu
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận
II.1.1. Sự cần thiết của đào tạo theo nhu cầu thị trường
II.1.2. Một số vấn đề về thuế và thuế giá trị gia tăng
II.1.3. Kinh nghiệm về công tác giảng dạy thuế trong cả nước
II.2. Thực trạng về công tác giảng dạy cách báo cáo thuế đối với học sinh
khối trung cấp chuyên nghiệp ngành kế toán tại trường trung cấp Kinh tế Kỹ thuật ĐăkLăk.
II.2.1. Đặc điểm tình hình nhà trường
II.2.1.1 Đặc điểm tình hình chung

2
4
4
4
4
6
6
6
7
10
13

II.2.1.2 Đặc điểm tình hình tại khoa kinh tế



13
13
14

II.2.2. Thực trạng về công tác giảng dạy cách báo cáo thuế của nhà

15

trường
II.2.3. Các giải pháp nâng cao vai trò giảng dạy cách báo cáo thuế cho

16

học sinh ngành kế toán tại trường trung cấp.
19

III. PHẦN KẾT LUẬN

VAI TRÒ GIẢNG DẠY CÁCH BÁO CÁO THUẾ TRONG DOANH
NGHIỆP ĐỐI VỚI HỌC SINH KHỐI TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
NGÀNH KẾ TOÁN
-------***------I. PHẦN MỞ ĐẦU
2


I.1. Lý do chọn đề tài
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa
vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật
do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho

đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện
tượng xã hội do chính con người định ra, nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và
pháp luật. Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập trung một
phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước. Để nền tài chính quốc gia trở nên lành mạnh phải dựa chủ yếu vào
nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân đó, vì thế thuế là một công cụ quan
trọng góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát
triển lâu dài của đất nước.
Việt Nam đang từng bước tiến tới hội nhập nền kinh tế thế giới. Để bắt
kịp tiến trình này chúng ta cần phải có những cải cách nhằm phù hợp và thích
nghi với điều kiện, hoàn cảnh của nền kinh tế thế giới. Trong đó việc thực hiện
cải cách về thuế là một vấn đề hết sức quan trọng nhằm tăng sức cạnh tranh của
Việt Nam về thương mại mậu dịch trên thương trường quốc tế. Tại kì họp lần
thứ 11 Quốc hội khoá 9, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế giá trị gia
tăng và có hiệu lực thi hành kề từ ngày 01-01-1999. Từ khi ra đời cho đến nay,
thuế giá trị gia tăng đã chiếm vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống thuế của
nước ta.
Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu, người tiêu dùng là người
chịu thuế nhưng người bán hàng lại là người nộp thuế, như vậy có nghĩa là
những người bán hàng hay những doanh nghiệp phải có nghĩa vụ nộp thuế hàng
tháng theo quy định và để thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ cục thuế đã đưa ra
biểu mẫu kê khai thuế giá trị gia tăng hàng tháng chung cho tất cả các đối tượng
nộp thuế, điều này đồng nghĩa với việc mỗi doanh nghiệp phải có một kế toán
để kê khai thuế một cách thường xuyên.

3


Nắm bắt được tình hình thực tiễn đó và nhận thức được tầm quan trọng
của thuế đối với sự phát triển của đất nước, trường trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật

Đăklăk đã mạnh dạn đào tạo chuyên nghành kế toán để hàng năm có thể cung
cấp cho xã hội một đội ngũ nhân lực có chất lượng, phát triển toàn diện, có
phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, có kiến thức văn hoá và kiến thức nghề
nghiệp vững vàng để cùng tiến bước với sự phát triển ngày càng cao của xã hội.
Bản thân tôi là một cử nhân kinh tế chuyên ngành kế toán, trước khi gia
nhập vào đội ngũ giáo viên của trường tôi đã từng là kế toán của một doanh
nghiệp với nhiệm vụ báo cáo thuế giá trị gia tăng hàng tháng. Do đó hơn ai hết
tôi nhận thức được tầm quan trọng của báo cáo thuế giá trị gia tăng đối với
doanh nghiệp cũng như đối với một kế toán.
Thiết nghĩ, kỹ năng báo cáo thuế không phải tự dưng mà một kế toán khi
mới ra trường là tự biết mà nó cần phải được chỉ dẫn, dạy dỗ, thực hành một
cách nghiêm túc của người chỉ dẫn lẫn người học. Chính vì vậy với mong muốn
nâng cao chất lượng học sinh sau khi tốt nghiệp tôi đã chọn đề tài ‘Vai trò giảng
dạy cách báo cáo thuế trong doanh nghiệp đối với học sinh khối trung cấp
chuyên nghiệp chuyên ngành kế toán’ để làm sáng kiến kinh nghiệm cho mình.
Việc phân tích thực trạng và đề ra các giải pháp trong đề tài nhằm giúp
nhà trường phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, có kiến thức, có đạo đức lối
sống lành mạnh đáp ứng được nhu cầu của xã hội, đồng thời tạo uy tín và ngày
càng nâng cao uy tín của mình trong công cuộc trồng người. Đồng thời giúp học
sinh có những kiến thức, những kỹ năng nghề nghiệp căn bản để có thể tự tin
hơn khi bước vào cuộc sống. Việc tăng cường vai trò giảng dạy nghiệp vụ báo
cáo thuế trong doanh nghiệp sẽ giúp học sinh có thể tự mình thực hiện trọn vẹn
các Báo cáo thuế hàng tháng, Báo cáo thuế thu nhập doanh nghiệp hàng quý,
Báo cáo tài chính và Quyết toán thuế cuối năm, theo đúng các chuẩn mực và quy
định hiện hành.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:

4



- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về việc giảng dạy báo cáo thuế
trong doanh nghiệp
- Đánh giá thực trạng về công tác giảng dạy cách báo cáo thuế đối với học
sinh khối trung cấp chuyên nghiệp ngành kế toán tại trường trung cấp Kinh tế Kỹ thuật ĐăkLăk
- Đề xuất một số giải pháp để tăng cường và nâng cao công tác giảng dạy
cách báo cáo thuế đối với học sinh khối trung cấp chuyên nghiệp ngành kế toán
tại trường trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật ĐăkLăk
I.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là công tác giảng dạy cách báo cáo thuế đối với học
sinh khối trung cấp chuyên nghiệp ngành kế toán tại trường trung cấp Kinh tế Kỹ thuật ĐăkLăk
I.4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: nội dung giảng dạy cách báo cáo thuế GTGT trong
doanh nghiệp, bao gồm: Pháp luật về thuế, các thông tư ban hành về thuế giá trị
gia tăng; Biên bản hướng dẫn kê khai thuế giá trị gia tăng; Các biểu mẫu kê khai
thuế giá trị gia tăng.
- Phạm vi không gian: Học sinh khối trung cấp chuyên nghiệp chuyên
ngành kế toán tại trường trung cấp Kinh tế - Kỹ Thuật Đăklăk.
- Phạm vi thời gian: Số liệu thu thập trong năm học 2011-2012.
I.5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu
+ Nghiên cứu tài liệu: Sách, báo, báo điện tử có liên quan.
+ Điều tra, phỏng vấn học sinh sau khi ra trường về nhu cầu đào tạo
cách báo cáo thuế và học sinh đang học tại trường chuyên ngành kế toán về chất
lượng thực hành nghiệp vụ báo cáo, kê khai thuế.

5


+ Phỏng vấn bán cấu trúc đối với cán bộ, giáo viên về thực trạng
đào tạo cách báo cáo thuế đối với học sinh khối trung cấp chuyên nghiệp ngành

kế toán tại trường trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật ĐăkLăk
- Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng phương pháp xử lý số liệu trên phần
mềm Excel
- Phương pháp phân tích: Phân tích số liệu định tính và định lượng

6


II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận
II.1.1. Sự cần thiết của đào tạo theo nhu cầu thị trường
Khi Việt Nam gia nhập WTO, tuy không có cam kết về mở cửa thị trường
lao động nhưng chắc chắn sẽ có một dòng chảy lao động nước ngoài vào thị
trường trong nước từ các gói dịch vụ do nước ngoài cung cấp. Chất lượng lao
động thấp là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều vị trí chủ chốt trong doanh
nghiệp phải sử dụng người nước ngoài. Để hạn chế dòng chảy này, tức không để
thua ngay trên “sân nhà”, cách tốt nhất là nâng cao chất lượng lao động tại chỗ
để có thể đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư. Đây không phải là chuyện của riêng
doanh nghiệp, cơ sở đào tạo hay người lao động mà đòi hỏi một chiến lược ở
tầm quốc gia.
Hiện nay, chất lượng lao động trẻ, sinh viên mới ra trường chưa đáp ứng
được nhu cầu của doanh nghiệp, trong đó nhiều “kỹ năng mềm” không được
trang bị. Theo số liệu của Vụ Công tác học sinh, sinh viên, 90% sinh viên qua
khảo sát không thể áp dụng kiến thức vào công việc thực tế sau khi ra trường.
Hệ quả của tình trạng này, theo nhiều nhà tuyển dụng là do sinh viên định hướng
sai nghề nghiệp, các trường chưa chú trọng hợp tác đào tạo với doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Lương Hùng, Giám đốc Nhân sự Công ty Colgate-Palmolive, kể:
Nhiều lần công ty liên hệ với các Trường ĐH Quy Nhơn, ĐH Đà Nẵng thực
hiện những chương trình hợp tác đào tạo cho sinh viên. Sau khi được giới thiệu
qua nhiều phòng ban khác nhau, cuối cùng công ty nhận được câu trả lời “không

đồng ý hợp tác”. Rồi ông nhấn mạnh: Như thế làm sao các trường nắm được
thông tin cũng như nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp để có hướng đào
tạo cho phù hợp.
Thiếu thông tin lẫn nhau giữa đơn vị đào tạo và các doanh nghiệp sử dụng
lao động, nên chất lượng đào tạo không đáp ứng nhu cầu thị trường. Bên cạnh
đó, chất lượng giáo viên cũng là vấn đề được nhiều doanh nghiệp đề cập đến.
7


Suy cho cùng, sức lao động là một loại hàng hóa (hàng hóa đặc biệt). Khi là
hàng hóa thì sản phẩm làm ra phải bán được, phải đáp ứng nhu cầu thị trường.
Thế nhưng, chất lượng đào tạo về nghiệp vụ tại các trường Trung cấp chuyên
nghiệp hiện nay vẫn chưa đáp ứng yêu cầu này.
Chính sự thiếu định hướng thông tin thị trường cùng chất lượng đào tạo
chưa bảo đảm khiến cho khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng ngày càng xa
nhau. Chính vì vậy, làm thế nào để sinh viên khi tốt nghiệp phải là sản phẩm
“được mua” hơn là những sản phẩm được đem đi bán. Việc tăng cường đầu tư
công tác giảng dạy nghiệp vụ báo cáo thuế đối với học sinh ngành kế toán là rất
cần thiết giúp học sinh sau khi ra trường nhanh chóng tiếp cận với công việc
thực tiễn tại doanh nghiệp.
II.1.2. Một số vấn đề về thuế và thuế giá trị gia tăng
Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng
hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Được gọi là thuế GTGT vì thuế chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm qua
mỗi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, và tổng số thuế thu được ở mỗi
khâu bằng chính số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Về bản chất, thuế GTGT do các nhà sản xuất kinh doanh nộp hộ người
tiêu dùng thông qua việc tính gộp thuế này vào giá bán mà người tiêu dùng phải
thanh toán. Do vậy, thuế GTGT là một loại thuế gián thu. Người tiêu dùng hàng
hóa là người chịu thuế.

Thuế GTGT ra đời từ năm 1936 ở Pháp nhằm thay thế cho thuế doanh thu
cũ, nhưng mãi đến năm 1999 thuế GTGT mới được áp dụng ở nước ta cũng như
ở nước pháp thuế GTGT ra đời nhằm khắc phục và sửa đổi cho thuế doanh thu
cũ.
Các doanh nghiệp kinh doanh chịu thuế GTGT phải kê khai thuế giá trị
gia tăng từng tháng và nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế trong mười ngày đầu
của tháng tiếp theo. Trong trường hợp không phát sinh thuế đầu vào, thuế đầu
8


ra, cơ sở kinh doanh vẫn phải kê khai và nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế. Cơ
sở kinh doanh phải kê khai đầy đủ, đúng mẫu tờ khai thuế và chịu trách nhiệm
về tính chính xác của việc kê khai.
Các doanh nghiệp kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng đầy đủ, đúng hạn
vào ngân sách Nhà nước theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế. Thời hạn
nộp thuế của tháng được ghi trong thông báo chậm nhất không quá ngày 25 của
tháng tiếp theo.
Các doanh nghiệp kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế hàng năm
với cơ quan thuế. Năm quyết toán thuế được tính theo năm dương lịch. Trong
thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày kết thúc năm, các doanh nghiệp kinh doanh
phải nộp báo cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế và phải nộp đủ số thuế còn
thiếu vào ngân sách Nhà nước trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nộp báo cáo
quyết toán, nếu nộp thừa thì được trừ vào số thuế phải nộp kỳ tiếp theo.
* Tác động của thuế GTGT
- Thuế GTGT góp phần khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu,
thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh
Việc hoàn thuế GTGT đầu vào đối với các dự án đầu tư đã tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp phát triển công nghệ, đầu tư đổi mới tài sản cố định, góp phần
thúc đẩy vốn đầu tư xã hội tăng trưởng. Thông qua áp dụng thuế suất 0% đối với
hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu đã tạo điều kiện để doanh nghiệp hạ giá hàng hóa,

dịch vụ xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, từ đó
khuyến khích xuất khẩu tăng trưởng mạnh qua các năm, cụ thể là:
- Việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu phù hợp với thông lệ
quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các cam kết trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế

9


Theo cam kết khi hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta phải cắt giảm thuế
nhập khẩu, đồng thời phải bãi bỏ các khoản trợ cấp trực tiếp từ ngân sách cho
doanh nghiệp, việc thu thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu, hoàn thuế cho
hàng hoá xuất khẩu đã góp phần điều chỉnh cơ chế kinh tế phù hợp với thông lệ
quốc tế nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu hàng
hoá, dịch vụ, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước và bù đắp cho Ngân sách phần
thiếu hụt do cắt giảm thuế nhập khẩu.
- Thuế GTGT là nguồn thu quan trọng và ổn định của NSNN, tăng cường
tài chính quốc gia, đảm bảo nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói,
giảm nghèo và củng cố an ninh, quốc phòng
Năm 1999 số thu từ thuế GTGT là 17.113 tỷ đồng, chiếm 23% trong tổng
thu NSNN tổng thu từ thuế, phí và lệ phí, đến năm 2007, các con số này là
72.022 tỷ đồng tương ứng là 30,6%. Số thu thuế GTGT năm sau so với năm
trước tăng bình quân là 19,13%. Dự báo trong những năm tới, số thu từ thuế
GTGT vẫn giữ vai trò quan trọng cho ngân sách quốc gia.
- Thuế GTGT đã góp phần thúc đẩy việc thực hiện pháp luật về kế toán,
thuế của doanh nghiệp, từ đó, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, hiện
đại hoá và đổi mới phương thức quản lý thuế
Áp dụng thuế GTGT vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo điều kiện để cơ quan
thuế hiện đại hoá, đổi mới phương thức quản lý thuế (chuyển từ cơ chế cơ quan
thuế trực tiếp tính thuế và ra thông báo nộp thuế sang cơ chế đối tượng nộp thuế

tự tính, tự kê khai, nộp thuế theo thủ tục đơn giản, công khai, minh bạch; thực
hiện phương pháp quản lý rủi ro: phân loại đối tượng nộp thuế trên cơ sở đó tập
trung quản lý thanh tra, kiểm tra những đối tượng có hành vi gian lận về thuế).
Theo cơ chế quản lý mới này, cơ quan thuế có điều kiện tổ chức lại bộ máy theo
chức năng, tập trung vào việc thực hiện các chức năng chính như tuyên truyền,
cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho đối tượng nộp thuế, quản lý nợ và thanh tra, kiểm
tra, đồng thời tạo điều kiện cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các
10


khâu trong quá trính quản lý thuế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý
thuế.
II.1.3. Kinh nghiệm về công tác giảng dạy thuế trong cả nước
Chương trình cải cách và hiện đại hoá hệ thống thuế, từng bước đưa công
tác giáo dục, phổ biến pháp luật thuế vào hệ thống giáo dục giai đoạn 2005-2010
đã được Chính phủ phê duyệt, Tổng cục Thuế vừa ban hành quyết định số
246/QĐ-TCT ngày 04/02/2010 về việc phê duyệt đề án "Phổ biến, giáo dục
pháp luật thuế trong các cấp học đường" nhằm giúp học sinh, sinh viên - những
chủ nhân tương lai của đất nước - có được những hiểu biết về thuế một cách cơ
bản có hệ thống, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng
pháp luật thuế từ khi còn nhỏ.
Việc giảng dạy thuế trong các trường học đã có những bước tiến đáng kể
trong các tỉnh thành trên cả nước, những kinh nghiệm quý báu được rút ra là
điều kiện để phát triển công tác giảng dạy thuế trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói
chung và công tác giảng dạy báo cáo thuế trong các doanh nghiệp đối với học
sinh khối trung cấp chuyên nghiệp ngành kế toán tại trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Đắk Lắk nói riêng.
* Kinh nghiệm của tỉnh Hòa Bình
Tại Hòa Bình, trong những năm qua, ngành Thuế đã phát triển phong phú,
đa dạng các hình thức tuyên truyền, hướng dẫn, tư vấn cho cộng đồng xã hội,
đặc biệt cho người nộp thuế thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như

báo, đài; đối thoại trực tiếp; trang thông tin điện tử của ngành; thi tìm hiểu pháp
luật... Tuy vậy, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thuế hiện nay vẫn chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, do nhiều nguyên nhân. Ở các cấp
học phổ thông, giáo dục về thuế chưa trở thành một môn học chính thức, chưa
có chương trình giảng dạy và sách học chính thống giáo dục về thuế. Ở cấp đại
học, thuế mới chỉ được giảng dạy tại một số khoa ở các trường kinh tế. Ngoài
11


khoa giảng dạy chuyên về thuế thì nội dung giảng dạy ở các khoa khác mới chỉ
đề cập tới những vấn đề cơ bản nhất của thuế như khái niệm về thuế, chức năng
của thuế, bản chất của thuế, phân loại thuế, hệ thống thuế... Xuất phát từ thực
tế đó, đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
thuế cho người dân ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, nhằm trang bị
những kiến thức cơ bản về thuế để khi trở thành chủ thể kê khai, nộp thuế thì tự
giác chấp hành tốt chính sách thuế của Đảng và Nhà nước.
Nội dung giảng dạy đối với từng cấp học được định hướng rõ ràng. Đối
với cấp Tiểu học chỉ đưa nội dung về mối quan hệ giữa thuế và cuộc sống của
con người: tác dụng của thuế với các hoạt động hàng ngày của con người; công
trình, dịch vụ công cộng sử dụng tiền thuế; thuế là gì, tại sao cần tiền thuế? tại
sao cần phải nộp thuế?... Đối với cấp Trung học cơ sở cần nâng cao hơn một
bước: tìm hiểu về Tài chính quốc gia như thu-chi ngân sách nhà nước; khái niệm
và ý nghĩa của thuế; những phúc lợi xã hội mang lại từ thuế; tìm hiểu về thuế
qua các thời kỳ; pháp luật về thuế... Đối với cấp trung học phổ thông, cần đưa
các nội dung tìm hiểu bản chất, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của thuế; khái
quát hệ thống thuế Việt Nam; phân biệt giữa thuế và phí, lệ phí...; lịch sử hình
thành thuế trên thế giới; chế tài xử lý vi phạm về thuế...
Để triển khai chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật thuế vào các cấp
học đường đạt kết quả cao, ngành Thuế Hoà Bình đang tiến hành xây dựng nội
dung, chương trình và các bước triển khai đề án và sẽ tiến hành theo ba giai

đoạn. Giai đoạn một, tổ chức, xây dựng nội dung chương trình đề án trong năm
2010 . Giai đoạn 2 từ 2011-2012 thí điểm tại 3 đến 5 trường trên địa bàn thành
phố Hoà Bình, phấn đấu giai đoạn giai đoạn 3 của Đề án từ năm 2013 triển khai
toàn diện đối với tất cả các trường thuộc 2 cấp THCS, THPT và các trường
chuyên nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh. Đảm bảo 100% các em học sinh, sinh viên
được nghiên cứu học tập chính sách pháp luật thuế một cách có hệ thống.

12


* Kinh nghiệm tại tỉnh Hải Phòng
Theo GĐ Sở GD&ĐT Hải Phòng Đỗ Thế Hùng, việc đưa pháp luật thuế
vào giảng dạy tại các trường học là điều cần thiết. Vì vậy, Hải Phòng là một
trong 5 tỉnh triển khai đề án đưa giáo dục pháp luật về thuế vào trường học (giai
đoạn II của đề án). Từ năm học 2009-2010, cuốn sách “Giáo dục pháp luật thuế
trong trường học” do Sở GD&ĐT, Cục thuế TP. Hải Phòng (dưới sự chỉ đạo của
Bộ GD&ĐT, Tổng cục thuế) đã được hoàn tất biên soạn, chính thức đưa vào
giảng dạy trong các tiết chính khóa tại các trường công lập.
Trong năm học vừa qua, tại Hải Phòng đã phát động hàng chục cuộc thi
“Chúng em tìm hiểu pháp luật thuế” và trên 600 tiết học, phổ biến kiến thức cho
hàng trăm ngàn lượt học sinh tham gia tìm hiểu. Nhiều trường đã sáng tạo đưa
các tiểu phẩm vui, xây dựng các hoạt cảnh sinh động, súc tích, có sức truyền đạt
kiến thức về luật thuế. Bước sang năm học 2010-2011, ngành thuế Hải Phòng và
Sở GD&ĐT Hải Phòng đang tiếp tục nỗ lực đẩy mạnh việc giảng dạy luật thuế
trong trường học và tiến hành nhân rộng trên các địa bàn.
* Kinh nghiệm của Yên Bái
Yên Bái là một trong những địa phương đưa luật thuế vào giảng dạy từ rất
sớm. Ngay từ năm học 2008-2009, toàn tỉnh Yên Bái đã triển khai đề án giai
đoạn I với 47/568 trường (trên 12.000 học sinh, sinh viên) giảng dạy luật thuế;
giai đoạn II đã có 454 trường đưa đề án vào giảng dạy. Các hoạt động giảng dạy

tại đây đã thu hút được đông đảo học sinh, sinh viên tham gia, được sự nhất trí,
đồng thuận cao của các cấp, các ngành. Theo Cục trưởng Cục thuế Yên Bái
Nguyễn Văn Chung, hạn chế của đề án là chưa nâng cao được toàn diện ý thức
học sinh về thuế; việc đẩy mạnh tuyên truyền để học sinh thấy rõ ý nghĩa, vai
trò, tầm quan trọng của luật thuế còn hạn chế, đôi khi còn mang tính hình thức.
Đây là thực trạng đang còn tồn tại ở nhiều tỉnh, thành. Ông Chung trăn trở: “Cần
để kiến thức giáo dục luật thuế là hành trang tương lai cho mỗi học sinh vào đời.
Điều đó rất cần sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa của các cấp, ngành địa phương”.
13


II.2. Thực trạng về công tác giảng dạy cách báo cáo thuế đối với học sinh
khối trung cấp chuyên nghiệp ngành kế toán tại trường trung cấp Kinh tế Kỹ thuật ĐăkLăk.
Dựa trên cơ sở lý luận đã trình bày, có thể nhận thấy rằng tất các các cơ
sở kinh doanh, các doanh nghiệp đều phải thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp
thuế giá trị gia tăng đối với Nhà nước. Đây cũng chính là nhiệm vụ hàng tháng
và thường niên của mỗi nhân viên kế toán trong các doanh nghiệp. Chính vì vậy,
nội dung đào tạo nghiệp vụ thuế là không thể thiếu trong chương trình đào tạo
ngành kế toán tại trường Trung cấp chuyên nghiệp.
II.2.1. Đặc điểm tình hình nhà trường:
II.2.1.1 Đặc điểm tình hình chung:
Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật ĐăkLăk được thành lập theo Quyết
định số 1549/QĐ-UBND, ngày 28/8/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk trên
cơ sở nâng cấp Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp Hướng nghiệp Buôn Ma Thuột.
Trường có 4 phòng chức năng (Phòng tổ chức hành chính; phòng tài chính
kế toán; phòng quản lý học sinh ; phòng đào tạo) và 5 khoa chuyên môn (Khoa
lao động hướng nghiệp; Khoa đao tạo lái xe; Khoa công nghệ thông tin; Khoa cơ
bản và khoa kinh tế tài chính ). Tổng số cán bộ, công chức, nhân viên của trường
là 75. Trong đó Thạc sĩ: 5; Đại học: 52 ; Cao đẳng: 06. Về chuyên môn nghiệp vụ
hầu hết cán bộ, giáo viên đã được đào tạo đáp ứng với nhiệm vụ được giao.

Trường có Chi bộ Đảng chỉ đạo trực tiếp mọi hoạt động của trường. Có tổ chức
Đoàn thanh niên hoạt động hiệu quả thu hút sự tham gia của hơn 1 ngàn đoàn
viên thanh niên trong trường và có tổ chức Công đoàn cơ sở.
Trường có 38 phòng học lý thuyết, 18 phòng thực thành, phòng mày tính
và thư viện được kết nối Internet; các phòng học khang trang, thoáng mát. Đội
ngũ giáo viên có kinh nghiệm, đủ theo định mức tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và
Đào tạo.

14


Các ngành trung cấp chuyên nghiệp đào tạo hiện nay: Kế toán, Tài chính
ngân hàng, Công nghệ thông tin, Xây dựng dân dụng và Công nghiệp, Hành
chính văn thư, Quản trị khách sạn – Nhà hàng, Du lịch.
Trường nâng cấp đã được hơn 5 năm, các hoạt động đã dần đi vào nề nếp.
Do đặc thù của trường trước đây là Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp Hướng nghiệp,
nên khi thành lập trường vẫn được giao nhiệm vụ dạy nghề phổ thông. Số lượng
học sinh dân tộc thiểu số đông (chiếm 34,6%), nhiều học sinh ở vùng sâu vùng
xa, có hoàn cảnh khó khăn ảnh hưởng đến học tập, rèn luyện.
Trong hơn 5 năm xây dựng và phát triển trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ
thuật ĐăkLăk luôn hướng vào mục tiêu Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng,
phát triển toàn diện, có phẩm chất đạo đức, có lối sống lành mạnh, có kiến thức
văn hoá và kiến thức nghề nghiệp vững vàng để phục vụ cho quê hương, Đất
nước.
Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật ĐăkLăk là một trong những trường
đào tạo ra những kế toán tương lai cho các cơ sở kinh doanh, các doanh nghiệp
trên toàn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk nói riêng.
II.2.1.2 Đặc điểm tình hình tại khoa kinh tế:
II.2.1.2.1 Thuận lợi và khó khăn của nhà trường
a. Thuận lợi.

- Trường tọa lạc ngay trung tâm thành phố, trên trục đường chính giao
nhau giữa đường Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, thuận tiện cho việc đi lại
và liên hệ với các cơ quan quản lý và doanh nghiệp.
- Cơ sở vật chất của trường đảm bảo phục vụ gần 2000 học sinh, sinh viên
học tập và sinh hoạt phong trào đoàn thể; có đủ nơi làm việc, nhà công vụ đáp
ứng được yêu cầu cho cán bộ, giáo viên nhà trường.
- Đội ngũ cán bộ nhân viên, giáo viên có trình độ, có nhiệt huyết với công
tác giáo dục.
15


- Ban lãnh đạo nhà trường luôn chú trọng đầu tư cho công tác giảng dạy
đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên,
giáo viên trong nhà trường.
- Nhà trường luôn có những chính sách ưu tiên, động viên, khuyến khích
đối với học sinh – sinh viên.
- Nhà trường luôn nêu cao chủ trương học đi đôi với hành để nâng cao kỹ
năng nghề nghiệp và kỹ năng sống cho học sinh sau khi các em tốt nghiệp ra
trường.
- Nhà trường luôn đi đầu trong việc áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến
vào công tác giảng dạy.
b. Khó khăn.
- Do chưa có bề dày lịch sử nên lực lượng giáo viên cơ hữu còn mỏng;
chưa cân đối được giữa giáo viên và nhân viên.
- Đầu vào của học sinh còn thấp, một số học sinh có ý thức học tập chưa
cao, còn ham chơi chưa xác định rõ tư tưởng học tập.
- Đội ngũ giáo viên hầu hết đều còn trẻ tuổi nên chưa có nhiều kinh
nghiệm trong công tác giảng dạy.
II.2.2.Thực trạng về kinh nghiệm giảng dạy cách báo cáo thuế của nhà trường
• Về chương trình giảng dạy.

Nhận thức rõ được tầm quan trong của việc cần thiết giảng dạy nghiệp
thuế, khung chương trình đào tạo ngành kế toán của trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật ĐăkLăk đã đưa vào môn Thuế với thời lượng 30 tiết.
Với thời lượng ngắn ngủi này, giáo viên chỉ có thể giới thiệu chung về tất
cả các loại thuế mà không thể đi sâu giảng dạy thực hành cách kê khai và báo
cáo thuế. Học sinh mới chỉ được tiếp cận những khái niệm và lí luận cơ bản về

16


thuế nên sẽ rất bỡ ngỡ và lúng túng khi nhận nhiệm vụ báo cáo thuế tại doanh
nghiệp sau khi ra trường.
• Về đội ngũ giáo viên.
Giáo viên giảng dạy chuyên ngành kế toán của trường hầu hết là giáo
viên trẻ, tâm huyết với nghề, luôn chủ động cập nhật những quy định mới về
việc báo cáo thuế tại doanh nghiệp. Đặc biệt một số giáo viên đã liên hệ với các
doanh nghiệp là đơn vị thực tập tốt nghiệp của học sinh để tìm hiểu, nắm bắt
những yêu cầu thực tế về nghiệp vụ đối với một nhân viên kế toán.
Những thông tin về kinh nghiệm giảng dạy hay kiến thức chuyên môn
đều được đưa ra thảo luận, trao đổi và góp ý cho nhau tại các buổi họp khoa và
tổ chuyên môn.
Tuy nhiên nghiệp vụ báo cáo thuế mới chỉ dừng lại ở việc tiếp cận các
khái niệm chung chứ chưa có thời gian thực hành. Chính vì thế, những học sinh
đã ra trường và đi làm tại các doanh nghiệp khi gặp khó khăn trong công việc,
đặc biệt lúng túng trong báo cáo thuế đều được giáo viên giúp đỡ và hướng dẫn
tận tình. Tuy nhiên cũng mất thời gian không nhỏ sau khi đi làm các em mới
quen và thành thạo với công việc này. Sự hỗ trợ của các giáo viên giúp học sinh
tiếp cân thực tế ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường luôn được ưu tiên và
quan tâm hàng đầu.
• Về tình hình học sinh.
Khảo sát đối với 100 học sinh chuyên ngành kế toán khóa 04 đã tốt

nghiệp ra trường chỉ có 20% số học sinh trên đã thấy qua mẫu báo cáo thuế, trên
90% học sinh chưa được thực hành về kê khai cũng như báo cáo thuế.

17


II.2.3. Các giải pháp nâng cao vai trò giảng dạy cách báo cáo thuế cho học
sinh ngành kế toán tại trường trung cấp.
- Nhà trường cần mở thêm các khóa dạy chứng chỉ về nghiệp vụ kê khai
và báo cáo thuế ngoài giờ học để học sinh có cơ hội tiếp cận với thực tiễn. Thêm
vào đó cần thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu giữa doanh nghiệp với học
sinh để tăng cường mối tương tác giữa các bên. Học sinh có thể nhận thức rõ
hơn những yêu cầu thực hành mà doanh nghiệp cần ở mình là gì. Đồng thời
doanh nghiệp cũng có quan sát và nhận định toàn diện hơn về nguồn nhân lực
tương lai của đơn vị mình để đưa ra những chiến lược đào tạo phù hợp.
- Đối với những môn học thực hành, đòi hỏi kinh nghiệm thực tiễn và kỹ
năng chuyên nghiệp trong báo cáo thuế, cần mời các kế toán có nghiệp vụ và
thời gian làm báo cáo thuế thực tế tại các đơn vị doanh nghiệp hoặc mời trực
tiếp các cán bộ thuế về trường giảng dạy để nâng cao chất lượng học sinh đồng
thời nâng cao uy tín của trường đối với xã hội nói chung và ngành giáo dục nói
riêng.
- Bản thân mỗi giáo viên chuyên ngành kế toán phải xác định được vai trò
và tầm quan trọng của nghiệp vụ báo cáo thuế, cần chủ động hơn nữa trong công
tác giảng dạy, trao đổi và đề xuất những giải pháp giúp cải thiện chất lượng dạy
bài học báo cáo thuế. Giáo viên cần sát sao hơn trong việc tiếp cận và theo dõi
quá trình học, thực hành của học sinh để kịp thời phản ánh trong các buổi họp
chuyên môn.
- Giáo viên cần tăng cường công tác tự bồi dưỡng, học tập nâng cao trình
độ của giáo viên chuyên ngành kế toán dưới sự chỉ đạo, theo dõi hướng dẫn của
Trưởng khoa Kinh tế và Ban giám hiệu nhà trường, cần chú ý đặc biệt đến bồi

dưỡng năng lực sư phạm, tư cách đạo đức, tính khiêm tốn, ham học hỏi, vươn
lên trong chuyên môn, trong rèn luyện. Mỗi giáo viên cần xác định ngoài nhiệm
vụ giảng dạy thì công tác tự bồi dưỡng phải đặt lên hàng đầu với các nội dung
như: tăng cường dự giờ thăm lớp.
18


- Tổ bộ môn bố trí cho giáo viên dự giờ thao giảng của những giáo viên
có kinh nghiệm giảng dạy, có bề dày năng lực sư phạm. Tổ bộ môn phối hợp
cùng khoa và phòng Đào tạo phân công lịch giảng dạy hợp lý, tránh tình trạng
quá tải hoặc chồng chéo để giáo viên có thời gian nghiên cứu và tự học hỏi nâng
cao chuyên môn.
- Cần tăng cường hoạt động trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy của
giáo viên trong Tổ bộ môn của trường và các trường bạn. Trường cần có những
chính sách tạo điều kiện cho giáo viên tham gia tập huấn, học hỏi giao lưu tiếp
xúc với các trường, đơn vị bên ngoài,... để giúp họ có cái nhìn đúng đắn về vị
trí, vai trò của bản thân cũng như chuyên ngành mình phụ trách.
- Hiện nay tổng cục thuế đã ban hành phần mềm hỗ trợ kê khai thuế cung
cấp miễn phí đến các doanh nghiệp và phổ biến rộng rãi trên mạng internet; Do
đó nhà trường nên cập nhật để phục vụ cho công tác dạy và học.

19


III. PHẦN KẾT LUẬN
Vai trò giảng dạy cách làm báo cáo thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong
chất lượng học sinh ngành kế toán sau khi ra trường. Việc quan tâm đầu tư để
nâng cao công tác giảng dạy cách làm báo cáo thuế là rất cần thiết, giúp xây
dựng hình ảnh và uy tín cho chất lượng của trường nói chung và ngành kế toán
nói riêng.

Muốn thực hiện tốt được điều này đòi hỏi sự phối kết hợp của không chỉ
Ban giám hiệu, các Phòng ban có liên quan mà còn cần sự hợp tác chặt chẽ của
các cán bộ giáo viên, sự ủng hộ của học sinh ngành kế toán.
Những phân tích, đánh giá và giải pháp được đề cập đến trong đề tài hi
vọng sẽ giúp cải thiện chất lượng đầu ra của chuyên ngành kế toán, để thương
hiệu giáo dục ngành kế toán tại trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật ĐăkLăk
ngày càng được khẳng định đối với các doanh nghiệp và những nhà tuyển dụng.
Do hạn chế về mặt thời gian và phạm vi thời gian nghiên cứu nên đề tài
chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đánh giá,
thẩm định của Ban lãnh đạo để có thể đưa vào thực tiễn. Tôi xin chân thành cảm
ơn!

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006;
2. Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế
3.Luật số 13/2008/QH12; Luật thuế giá trị gia tăng.
4. Hướng dẫn thực hành lập sổ sách kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo thuế.
GTGT theo phương pháp thủ công / Đặng Văn Sáng . - NXB. : Giao thông Vận
tải, 2009 .
5. Chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ : Ban hành theo Quyết định số
48/2006/QĐ-BTC ngày 14/09/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính / Bộ Tài Chính
. NXB :
Thống kê, 2007 .
6. Chế độ kế toán Việt Nam / Bộ Tài chính . - NXB : Lao động Xã hội, 2008 .
7. www.ctu.edu.vn/colleges/law/vietnamese
8. />9. />10.


21



×