Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

van dung quy luat QHSX voi LLSX vào nên KTTT o nuoc ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.85 KB, 18 trang )

A.

PHẦN MỞ ĐẦU

Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tác động của “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ pháp triển của lực lượng sản xuất” tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất
đối với sự vận động, phát triển của nền sản xuất vật chất và do đó là sự vận động, phát
triển của toàn bộ đời sống xã hội; sự vận động, pháp triển của lịch sử nhân loại từ phương
thức sản xuất thấp lên phương thức sản xuất cao hơn. Quy luật này còn là cơ sở để giải
thích về nguồn gốc sâu xa của toàn bộ các hiện tượng xã hội, sự biến đổi trong đời sống
chính trị. vì vậy việc vận dụng quy luật này trong việc xây dựng, phát triển đất nước là
điều hợp lí, tuy nhiên không phải quốc gia nào, đất nước nào cũng vận dụng nó một cách
hiệu quả, việc vận dụng quy luật này cần có sự cân nhắc kĩ lưỡng. Nước ta cũng là nước
vận dụng quy luật này để đổi mới và phát triển đất nước do đó em xin chọn câu hỏi “ Sự
vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước tra hiện nay” làm đề tài cho bài
thu hoạch của em.
B. PHẦN NỘI DUNG
I.Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
1.Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (sức khỏe, thể chất, kinh
nghiệm, kĩ năng, tri thức lao động của họ) với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao
động để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực
thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất
bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là


công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Con
người: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao
động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và


kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động để
sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng
lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không
ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của người lao động ngày càng cao. Ngày nay, với
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính
yếu.
Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.Trong tư liệu sản xuất
thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục thế giới tự nhiên.
2.Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản
xuất và tái sản xuất xã hội).Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành
một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, các mặt của quan hệ sản
xuất thống nhất với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự
vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt:


- Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người đối với tư liệu sản
xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
- Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa người với
người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá và hợp
tác hoá lao động, quan hệ giữa người quản lý với công nhân
.- Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng
một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng
không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người
lao động.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại
lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, quan hệ tổ chức

quản lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng có tác động trở lại quan hệ sở hữu.
3.Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
a.Lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với sự hình thành, biến đổi và
phát triển của quan hệ sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, ở trình
độ kĩ năng, kinh nghiệm của người lao động, trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật và sản
xuất…ứng với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Trình độ của lực lượng
sản xuất quyết định quan hệ sản xuất cụ thể:
Tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có một
quan hệ sản xuất phù hợp ở cả ba mặt của nó.Xu hướng của sản xuất vật chất là không
ngừng biến đổi và phát triển, do yêu cầu phát triển của sản xuất vật chất khi lực lượng sản


xuất không ngừng phát triển lên một trình độ cao hơn, đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải
biến đổi theo cho phù hợp tạo động lực cho sự phát triển của lực lượng sản xuất
Tuy nhiên cần nhận thấy, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất,
nó luôn vận động và biến đổi trong quá trình lịch sử, hay nói cách khác lực lượng sản
xuất thường phát triển nhanh hơn trong khi quan hệ sản xuất thì chậm thay đổi hơn.
Chính vì vậy, khi sự phát triển của lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định thì
sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện yêu cầu phải xóa bỏ quan
hệ sản xuất lỗi thời thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
b.Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Mặc dù bị quyết định bởi lực lượng sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất có tính độc
lập tương đối so với lực lượng sản xuất, vì vậy quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại
lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất phân phối do đó nó
có ảnh hưởng trực tiếp tới thái độ của người lao động, tới năng suất, chất lượng, hiệu quả
của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động, từ đó tác động tới lực lượng sản xuất
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai xu

hướng:
- Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuát thì sẽ thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển.
- Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất .


Sự phù hợp “ được quan niệm là sự phù hợp biện chứng chứa đựng mâu thuẫn”,
tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn, bao hàm mâu thuẫn.Sự kìm hãm của quan hệ sản xuất
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất có thể là do quan hệ sản xuất lạc hậu hơn
hoặc do quan hệ sản xuất vượt trước trình độ của lực lượng sản xuất hiện có.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là
quan hệ chung nhất chi phối toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất kéo theo sự phat triển của quan hệ sản xuất, phá bỏ quan hệ sản xuất lỗi
thời, quá trình này lặp đi lặp lại làm cho xã hội loài người trải qua những phương thức
sản xuất từ thấp tới cao dẫn tới sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội.
II. Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.
1.Trước đổi mới.
Trước đây, nước ta là một nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản
xuất thấp kém, trình độ quản lí thấp với nền sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp, tự túc. Hơn
nữa, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến trải qua hai cuộc đấu tranh, nhiều lần
bị đế quốc Mĩ bao vây nền kinh tế vì vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển.
Sau khi giành được chính quyền,nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, lực lượng
sản xuất chưa phát triển, chủ yếu với tư liệu lao động thô xơ, lực lượng lao động còn thấp
kếm, tụt hậu, không động đều… trước yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, nước ta đã vứt
bỏ hết các yếu tố tư bản chủ nghĩa với quan niệm tư bản chủ nghĩa là xấu,không áp dụng
nó chỉ cho tồn tại những quan hệ chủ nghĩa xã hội,nước ta xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu
chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể lúc đó được coi là



điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội hoá sản xuất cũng như sự thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Song trong thực tế cách làm này đã không mang lại
kết quả như mong muốn, vì nó trái quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất, trong khi lực lượng sản xuất còn yếu kém thì quan hệ
sản xuất lại quá phát triển,phát triển với mức độ cao, đã để lại hậu quả là:kinh tế kiệt
quệ,nguy cơ nghèo đói tăng cao,việc tiến hành tập thể nhanh chóng tư liệu sản xuất dưới
hình thức cá nhân bị tập trung dưới hình thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách
khỏi tư liệu sản xuất, không làm chủ được qúa trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo hợp
tác xãhọ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự dấn đến tư liệu sản xuất trở thành vô
chủ, gây thiệt hại cho tập thể, kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành.
Về pháp lý tư liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu
có quyền sở hữu chi phối, định đoạt tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì
người lao động chỉ là người làm công ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không
phản ánh đúng số lượng và chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp…dẫn tới
tình trạng đơn vị kinh tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất
kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế giàng
buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình, sinh ra tiêu
cực trong phân phối, chỉ có một số người có quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm,
đặc quyền đặc lợi.
2.Từ năm 1986 đến nay.
Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp với xu
thế của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã
hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nên phải
trải qua thời kỳ quá độ.


Đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta thực hiện chính sách từng bước đổi mới đất
nước,đưa đất nước phát triển tiến lên mục tiêu đã đề ra. Tại Đại hội lần thứ VI (năm
1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh

tế làm trọng tâm với nội dung cơ bản là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, đất nước ta đã có những bước phát triển vượt
bậc, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và luôn đạt mức tăng trưởng cao.
Những thành tựu đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới nói chung và chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng. Điểm nổi lên là kinh tế của
chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu … vì vậy khâu trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng
đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên cũng không phải đạt được kết
quả ngay tức thì,mặc dù lực lượng sản xuất của nước ta không ngừng phát triển, trình độ
của người lao động không ngừng được nâng lên công tác giáo dục và đào tạo được chú
trọng… nhưng chưa đúng yêu cầu của thời kì đổi mới, không có tính cạnh tranh.Tư liệu
sản xuất tuy phát triển song vẫn còn thấp kém, lạc hậu, không đều,sở hữu tư liệu sản xuất
dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo.Nhưng Đảng và Nhà nước nhạy bén trước thời
cuộc khắc phục tình hình,với việc đưa ra quan hệ sản uất bằng con đường đúng đắn với
cơ chế tồn tại nhiều thành phần kinh tế do đó tồn tại cùng một lúc nhiều quan hệ sản xuất
khác nhau tương ứng với trình độ phát triển cao, thấp khác nhau, với lực lượng sản xuất
thấp kém không đồng đều nước ta sử dụng quan hệ sản xuất không đồng đều, khắc phục
tình trạng lực lượng sản xuấtthấp kém lại sử dụng quy luật quanhệ sản xuất quá cao hoặc
không phù hợp diều này hợp quy luật bước đầu vận dụng đúng quy luật
Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt trọng trách này, thì phải


tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó thành phần kinh tế tư nhân là một thành
phần rất năng động, hiệu quả. Trong suốt quá trình đổi mới 30 năm qua, Ðảng ta không
ngừng tìm tòi, phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất. Ðó là một
quá trình vận động, phát triển liên tục về nhận thức thông qua lãnh đạo, chỉ đạo thực
tiễnCông cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được
những thành tựu to lớn:
Giai đoạn 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ

chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống
KTXH và giải phóng sức sản xuất.
Giai đoạn 1991 – 1995, GDP bình quân tăng 8,2%/ năm gấp đôi vo8i1 5 năm
trước đó; và giai đoạn từ năm 1996 – 2000, mặc dù cùng chịu tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực ( năm 1997 – 1999 ), GDP vẫn duy trì bình quân 7,6 %/ năm; và
giai đoạn 5 năm kế tiếp 2001 – 2005, GDP tăng bình quân 7,34%/năm.
Giai đoạn 2006-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc
dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt
77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD,
gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005. Tổng vốn
ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt
khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD, chỉ số HDI đã
liên tục tăng cao.


Giai đoạn 2011 – 2015 tăng đến 18% / năm. Xuất khẩu chuyển dịch theo hương
dần tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và giảm dần tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp, giảm
dần sản phẩm nguyên liệu thô. Đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm làm động lực
cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước. Phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp
tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn
hóa cây trồng, vật nuôi gắn liền với chế biến công nghiệp.
Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế điều có bước phát triển khá. Ngành công
nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục, tốc độ triển khai ứng dụng các
thành tựu khoa học và công nghệ được cải thiện. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày
càng đa dạng và chất lượng, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu
của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú
trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao.
Khu vực nông nghiệp phát triển khá ổn định; công nghiệp hóa; hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn có sự chuyển biến quan trọng, từ lúc cả nước còn thiếu ăn nay đã trở

thành nước xuất khẩu gạo với số lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh
lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng
lớn đều đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của
sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển theo hương tiến bộ,
hiệu quả.
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường gắn với yêu cầu
phát triển bền vững đã được quan tâm và đem lại kết quả bước đầu. Kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội phát triển, đặc biệt là hạ tầng giao thông, thông tin, viễn thông, thủy lợi, hạ


tầng đô thị, giáo dục, y tế. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao,
đã tạo ra những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức.
Đặc biệt sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất
lượng hình thức và cơ sở vật chất, chất lượng giáo dục – đào tạo từng bước chuyển biến
phát triển.
Vấn đề việc làm và đời sống của nhân dân được giải quyết có nhiều hiệu quả công
tác xóa đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, rộng khắp nhất là ở cácvùng cao, xã
nghèo, đạt được kết quả tốt. Đời sống nhân dân của người vùng cao được cải thiện rõ rệt.
Các công tác xã hội ngày càng nhiều, được mở rộng và đạt được những kết quả tốt.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ,
ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển
mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
3. Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của LLSX trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở tỉnh Đồng Nai.
a. Điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường:
Là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, kết nối với ba vùng
Đông Nam bộ, Nam Trung bộ và Tây Nguyên, gần Thành phố Hồ Chí Minh (cách
30km), Đồng Nai có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế – xã hội.
Thứ nhất, có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến đường huyết mạch

quốc gia đi qua như quốc lộ 1A, quốc lộ 20, quốc 51; tuyến đường sắt Bắc – Nam; nhiều
ttuyến đường liên tỉnh và các cảng Long Bình Tân, Gò Dầu, Phú Mỹ,… gần cảng Sài


Gòn, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế trong
vùng cũng như giao thương với cả nước và quốc tế.
Thứ hai, có nền đất lý tưởng, kết cấu có độ chịu nén tốt, thuận tiện cho đầu tư xây
dựng các KCN.
Thứ ba, có nguồn nước phong phú không chỉ cung cấp cho Đồng Nai mà còn cho
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương.
Thứ tư, có nguồn điện năng dồi dào từ các Nhà máy Thủy điện Trị An, Nhà máy
Nhiệt điện Phú Mỹ, đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế. Bên cạnh lưới điện quốc gia,
Đồng Nai còn có Công ty liên doanh Amata Power cung cấp điện cho KCN Amata và các
KCN lân cận.
Bên cạnh đó, Đồng Nai còn có nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng và
phong phú như vàng, thiếc, kẽm, nhiều mỏ đá, cao lanh, than bùn, đất sét, cát sông; rừng
và nguồn nước, … rất thuận lợi cho phát triển các ngành nghề như: sản xuất vật liệu xây
dựng, gốm sứ, mỹ nghệ…
Trên cơ sở những tiềm năng, thế mạnh sẵn có, với ý chí quyết tâm và đồng thuận
cao, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đồng Nai đã vượt qua những cản trở, khó khăn,
nỗ lực phấn đấu xây dựng Đồng Nai phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội, đồng thời
đưa Đồng Nai trở thành một trong những mắt xích quan trọng của cả nước.
b. Những kết quả đạt được trong suốt quá trình vận dụng quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá
trình nền kinh tế thị trường.
Trong những năm qua Đảng bộ tỉnh Đồng Nai vận dụng đúng đắn, sáng tạo, khoa
học về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường . Đảng bộ và nhân dân tỉnh Đồng nai đã



xây dựng và phát triển, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Đồng Nai đã vươn lên trở
thành một trong những tỉnh có GDP bình quân đầu người cao nhất cả nước, và có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, bình quân đạt khoảng 12,8%/năm. Quá trình phát triển và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh diễn ra đúng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, trong đó công nghiệp giữ vai trò chủ đạo, tạo
điều kiện thúc đẩy các nền kinh tế khác phát triển, nhất là dịch vụ và nông nghiệp.
Sản xuất công nghiệp của Đồng Nai đã có những bước chuyển mạnh về chất với
sự hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực như: công nghiệp chế biến nông sản,
thực phẩm, công nghiệp cơ khí và luyện kim, công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu
xây dựng, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng, công nghiệp điện tử và viễn
thông, … công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn và ứng dụng công nghệ sinh học vào
sản xuất từng bước được đẩy mạnh.
Tỉnh Đồng Nai là địa phương đi đầu trong cả nước về xây dựng và phát triển khu
công nghiệp. Các khu công nghiệp của Đồng Nai phát triển mạnh cả về số lượng, khả
năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài lẫn diện tích đất cho thuê. Đồng Nai cũng là một
trong số ít địa phương thu hút được nhiều dự án có qui mô vốn trên 100 triệu USD
(Formosa – Đài Loan, Vedan – Singapore & Đài Loan, Hualon – Malaysia & Đài Loan,
Fujitsu – Nhật Bản …). Vốn đầu tư nước ngoài đã thật sự trở thành nguồn lực quan trọng
để đầu tư phát triển sản xuất, tạo nguồn thu ngân sách lớn, góp phần phát triển kinh tế địa
phương, nhất là đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa –
hiện đại hóa.
Để tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài, trong
những năm gần đây, Đồng Nai luôn chú trọng và tích cực thực hiện “hai cải” – đó là cải
thiện môi trường đầu tư và cải cách thủ tục hành chính theo hướng toàn diện, công khai,
minh bạch, đơn giản, nhanh chóng, kịp thời cùng với các phương châm “chính quyền
đồng hành cùng doanh nghiệp”, “chính quyền phục vụ doanh nghiệp”.


Nhiều chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư trong và ngoài nước đã được lãnh
đạo tỉnh Đồng Nai tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao, tạo tiền đề thu hút đầu tư, nâng cao

năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, các loại
hình dịch vụ bưu chính, viễn thông, vận tải, du lịch, tài chính – tín dụng, … cũng được
đầu tư kịp thời.
Cùng với phát triển kinh tế, các vấn đề bức xúc của xã hội cũng được tỉnh Đồng
Nai giải quyết có hiệu quả. Trong đó, giải quyết việc làm cho người lao động luôn được
các cấp, các ngành ở địa phương đặc biệt quan tâm. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân ngày càng được cải thiện, an ninh xã hội được giữ vững và niềm tin của nhân dân đối
với sự nghiệp đổi mới ngày càng được nâng cao.
Trong thời gian tới, Đồng Nai sẽ tập trung thực hiện chuyển dịch kinh tế theo
chiều sâu, hình thành và phát triển các khu công nghệ cao, phát triển kinh tế tri thức, đầu
tư một số sản phẩm mũi nhọn của địa phương, tăng hàm lượng chất xám trong các sản
phẩm công nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Mở rộng các loại hình dịch vụ
phục vụ cho sản xuất và đời sống, nhất là ở các khu công nghiệp và đô thị. Riêng khu vực
kinh tế nông nghiệp, tiếp tục đẩy mạnh các chương trình công nghiệp hóa nông nghiệp,
nông thôn, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất nông nghiệp,… Ngành công nghiệp tiếp tục giữ vai trò, vị trí then chốt trong
phát triển kinh tế, trong đó công nghiệp chế biến góp phần gia tăng giá trị cho sản phẩm
nông nghiệp, thúc đẩy ngành thương mại – dịch vụ phát triển, tạo đà cho quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh và đúng hướng. Phát huy mạnh mẽ tiềm năng của các
thành phần kinh tế để phát triển ổn định, vững chắc, trong đó khuyến khích đầu tư nước
ngoài và các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao.
Đầu tư nước ngoài tiếp tục được xem là động lực giúp địa phương khơi dậy và
phát huy tốt hơn nữa các lợi thế của mình, góp phần tạo ra cho Đồng Nai sức bật mới


Những tiềm năng, lợi thế luôn được tận dụng, phát huy, sự phát triển năng động
trong thời kỳ đổi mới cùng với khát vọng vươn lên đó chính là những yếu tố quyết định
để giúp Đồng Nai vững bước xây dựng tương lai ngày càng văn minh giàu đẹp.
4. Bài học kinh nghiệm qua quá trình vận dụng quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình phát triển nền

kinh tế thị trường ở nước ta.
Đại hội XI đã khẳng định, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào
nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Môi trường đầu tư được cải thiện, đa
dạng hóa được nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát triển. Đại hội XII đã đưa ra nhận định
quan trọng: “Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, phát triển”. Tuy nhiên, kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng,
chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu; thiếu bền vững do nhiều nguyên nhân cần
được làm rõ và tiếp tục khắc phục trong quá trình đổi mới trong thời gian tới với chất
lượng cao hơn.
Đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch về mặt kinh tế nêu trên là
nhờ có nhận thức đúng đắn của Đảng và nhân dân ta về tính tất yếu của sự phát triển kinh
tế thị trường; quyết định chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kiên trì
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các quyết sách về kinh tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ và
tích cực tham gia thực hiện.
Những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế hiện tại là do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Trong đó phải kể đến là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta được xây dựng trong điều kiện chuyển đổi thể chế kinh tế với xuất phát


điểm thấp, kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, thường xuyên chịu thiên tai, dịch bệnh;
kinh tế thế giới có nhiều biến động bất thường, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã có
những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế của nước ta. Tuy nhiên, những bài học quý
giá cũng đã được rút ra sau suốt những năm đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Một là, trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, ngay từ đầu Đảng ta xác định
lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm. Việc chủ động, sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam… đã thể hiện
trước hết và trên hết ở lĩnh vực kinh tế, mà trọng điểm là xây dựng nền kinh tế thị trường

vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng đặc điểm của Việt
Nam, vừa tương thích với nền kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu hóa ngày
càng rộng hơn, sâu hơn.
Hai là, quá trình đổi mới kinh tế, việc quán triệt quan điểm “dân là gốc”, thể hiện
ở nội dung yêu cầu là phát huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo, tinh thần đoàn kết, dân chủ
hóa, nhằm phát huy mọi nguồn lực của nhân dân phải được thể hiện trên các tiêu chí hiệu
quả tổng hợp, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
thông qua đa dạng hóa các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế, loại hình sản xuất kinh
doanh, phân phối, và quản lý; dân chủ về kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, đổi mới về kinh tế cũng phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn
trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết


thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do
thực tiễn đặt ra, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi thể chế kinh tế với nhiều tác động bất
thường của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang ở giai đoạn bắt đầu phục hồi nhưng
chưa vững chắc gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta.
Bốn là, trên lĩnh vực kinh tế, cũng phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết;
kiên định độc lập, tự chủ về kinh tế, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên
cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên lĩnh vực kinh tế, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong nền kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế; xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là cán bộ điều hành vĩ mô nền kinh tế, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm
nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành nền kinh tế của Nhà nước kết hợp với sự
tham gia của cả hệ thống chính trị bảo đảm cho nền kinh tế nước nhà phát triển nhanh và
bền vững.
Nhìn chung, trong bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường;
trong nước những thời cơ, thuận lợi, khó khăn, thách thức đan xen, thế mà chúng ta đã

đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử” cả trên lĩnh vực kinh tế cũng khẳng
định đổi mới là sự lựa chọn chính xác và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng đúng đắn, khoa họcvà sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường.
C.KẾTLUẬN.


Với những thành tựu mà nước ta đã đạt được ta thấy hiệu quả của việc Đảng và
Nhà nước ta đã nhạy bén với thời cuộc, xem xét, nắm bắt tình hình nước ta một cách
chính xác để đưa ra các chính sách phù hợp, và không thể phủ nhận hiệu quả của việc vận
dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất của nước ta
trong công cuộc đổi mới đất nước.
Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất qui luật quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tế bất cứ ở
đâu và vào lúc nào cũng không thể có được sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình
thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Trong quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất nói chung cũng có sự ràng buộc xuất phát từ chúng. Tuy nhiên chính bản thân
các quan hệ sản xuất lại có mối quan hệ chặt chẽ với lực lượng sản xuất. Vấn đề đặt ra là
ta sử dụng mối quan hệ ấy như thế nào cho phù hợp. Đặc biệt quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất lại có nhiều lộn xộn trong việc nghiên cứu, sử dụng và phát triển
các phương thức sản xuất tức là quá trình "Đa dạng hoá" cụ thể hơn là quá trình "phù hợp
hoá" các loại phương thức sản xuất vào điều kiện thực tế hiện nay của nước ta. Nếu
chúng ta sử dụng đúng các qui luật trên cộng với điều hoà quan hệ lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến nhanh cùng với các nước phát triển tiến
nhanh trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã chọn. Đưa đất nước nhanh
chóng sánh vai với các nước lớn trong khu vực và trên thế giới, đem lại cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam.
Với kiến thức còn hạn chế, em mong thầy cô đóng góp ý kiến thêm để em hoàn
thành tốt bài thu hoạch, và trang bị thêm cho bản thân trong cuộc sống, công việc và góp



một phần nhỏ sức mình vào công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước giàu đẹp, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh ./.



×