Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Nâng cao hiệu quả cho vay ngắn hạn doanh nghiệp xây lắp tại BIDV chi nhánh bắc hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 96 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam (viết tắt là
BIDV) được biết đến như một Ngân hàng gắn bó với sự thăng trầm của các
doanh nghiệp xây lắp. Các sản phẩm BIDV cung cấp cho đối tượng khách
hàng này chủ yếu là tín dụng (tập trung vào cho vay ngắn hạn) và bảo lãnh.
Những năm gần đây, chủ trương của BIDV là mở rộng đối tượng phục vụ
khách hàng thuộc các ngành nghề lĩnh vực khác nhau nên cơ cấu dư nợ vay
xây lắp giảm nhưng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ thuộc lĩnh vực này vẫn đang
rất cao tại hầu hết các chi nhánh thuộc BIDV, trong đó có BIDV Bắc Hà Nội.
Việc cho vay xây lắp hiện nay đang là vấn đề được BIDV rất quan tâm không
chỉ ở khía cạnh xử lý nợ xấu mà còn cả việc đề ra phương thức cho vay cũng
như quản lý cho vay sao cho có hiệu quả khối đối tượng khách hàng này.
Chính vì vậy, với tư cách là người làm trực tiếp trong công tác tín
dụng, tôi đã lựa chọn đề tài: Nâng cao hiệu quả cho vay ngắn hạn các
doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi
nhánh Bắc Hà Nội. Để luận văn được chuyên sâu, tôi chỉ đi vào phân tích,
nghiên cứu hoạt động vay ngắn hạn với đối tượng khách hàng là các doanh
nghiệp xây lắp.
Nội dung chính của luận văn gồm các vấn đề sau:
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Hệ thống hóa lý thuyết về hiệu quả cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp
xây lắp tại Ngân hàng thương mại.
Phân tích đánh giá hiệu quả cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp xây lắp tại
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.


2


Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm năng cao hiệu quả cho vay ngắn hạn các
doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi
nhánh Bắc Hà Nội
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp
xây lắp của Ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp xây
lắp của Ngân hàng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Bắc
Hà Nội từ 2005-2009.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp
thống kê, phân tích tổng hợp, tư duy logic… để luận giải các vấn đề đề cập
trong nội dung bài viết.
4. Kết cấu luận văn:
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì
nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay ngắn hạn các doanh
nghiệp xây lắp tại Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp xây lắp
tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Bắc Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp
xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Bắc Hà Nội.


3

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ CHO VAY NGẮN HẠN
CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI

1.1 Hoạt động cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp xây lắp của Ngân hàng
thương mại
1.1.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các
ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà
chúng thực hiện trong nền kinh tế. Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ghi “Hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán”.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các NHTM hiện nay
đã mở rộng phạm vi hoạt động sang nhiều lĩnh vực kinh doanh, phần lớn hoạt
động theo mô hình ngân hàng đa năng. Tuy nhiên, các chức năng cơ bản của
NHTM vẫn là: trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán và trung gian
thanh toán. Các chức năng này này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau
và cùng đóng góp cho sự thành công của một NHTM.
 Trung gian tài chính:
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu,
tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những
người cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu,
tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch


4

vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức
trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ được chuyển từ
nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cà hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia

tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di
chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một
khoảng thời gian nhất định, thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là
quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Trung gian tài chính làm tăng thu nhập cho
người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín
dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó khuyến khích
đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy
mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp bị giới hạn do có sự
không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian….Cơ chế hoạt động của
trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật
nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
 Tạo phương tiện thanh toán
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được sổ dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể
chi trả để có được hàng hóa và các dịch vụ yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại,
đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu
thông, thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại các
ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ
hạn…Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó,
bằng việc cho vay các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở
cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng tiền vay để chi trả thì sẽ
tạo nên khoản thu (tức là làm tăng số dư tiền gửi) của khách hàng khác tại


5

một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không

một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ
thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh
toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
 Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện, và tiết kiệm
chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như
thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng
cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân
hàng Trung Ưng hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh
toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó
càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng
thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức
thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán,
không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng
trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng
hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm
thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn
cầu.
Nhìn chung, các hoạt động trung gian của NHTM thường ít xảy ra rủi ro
và đi kèm với nó là mức sinh lời không cao.


6

1.1.2 Cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng thương
mại
1.1.2.1 Khái quát về doanh nghiệp xây lắp

Doanh nghiệp xây lắp hay còn gọi là doanh nghiệp xây dựng là doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ
bản để tạo ra các công trình xây dựng. Công trình xây dựng là sản phẩm của
công nghệ lắp đặt gắn liền với đất (bao gồm cả khoảng không, mặt nước, mặt
biển, thềm lục địa) được tạo thành bởi vật liệu xây dựng, thiết bị và lao động.
Các doanh nghiệp xây lắp là loại hình sản xuất đặc thù, đặc điểm của nó
được quy định bởi đặc điểm của loại hình sản xuất trong xây dựng cơ bản và
đặc điểm của sản phẩm xây dựng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tình hình và điều kiện sản xuất trong hoạt động của các doanh
nghiệp xây lắp thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng và
giai đoạn xây dựng. Sau khi sản phẩm xây dựng hoàn thành, người xây dựng
cùng các tư liệu lao động, thiết bị và công cụ lao động được chuyển sang công
trình khác còn sản phẩm xây dựng thì hình thành và đứng yên tại chỗ do đã
được đặt hàng (theo phương thức đấu thầu) tại một địa điểm cố định. Đây là
một đặc điểm hiếm thấy ở các ngành khác. Điều này cũng gây khó khăn cho
việc tổ chức sản xuất, làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và tốn kém đặc biệt
là chi phí cho khâu di chuyển lực lượng sản xuất. Qua đây có thể thấy hiệu
quả kinh doanh của Doanh nghiệp xây lắp phụ thuộc nhiều vào trình độ tổ
chức quản lý, đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải tăng cường tính cơ động, linh
hoạt và gọn nhẹ về mặt trang bị tài sản cố định sản xuất, đội ngũ lao động
cũng như các yếu tố đầu vào khác.
Thứ hai, chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình) thường dài. Đặc
điểm này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất của doanh
nghiệp xây lắp thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang được xây dựng (thể


7

hiện ở khối lượng thi công dở dang của các doanh nghiệp xây lắp), vì thế các
doanh nghiệp xây lắp dễ gặp phải rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian, công trình

xây dựng xong dễ bị hao mòn vô hình do tiến bộ của khoa học công nghệ.
Thứ ba, hoạt động của doanh nghiệp xây lắp chịu ảnh hưởng của điều
kiện thời tiết khí hậu. Điều này làm cho các doanh nghiệp xây lắp không thể
lường hết được trước những khó khăn sinh ra bởi điều kiện thời tiết, khí hậu,
rủi ro luôn có khả năng xảy ra, làm giảm hiệu suất của người lao động, gián
đoạn sản xuất ảnh hưởng tới tiến độ thi công công trình, giá thành công trình
và chất lượng công trình. Do đó vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp xây
lắp đó là phải đảm bảo xây dựng với tiến độ thi công hợp lý, tổ chức quản lý
sản xuất chặt chẽ, tiết kiệm vốn, thi công dứt điểm công trình, thanh toán từng
phần khối lượng công tác xây lắp thực hiện và bàn giao đưa công trình vào
hoạt động theo từng hạng mục...
Thứ tư, hoạt động của các doanh nghiệp xây lắp có tính mùa vụ, thường
diễn ra tập trung vào mùa khô.
Thứ năm, việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp xây lắp đã xác
định được người mua từ lúc trước khi bắt đầu sản xuất do sản xuất xây dựng
phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường hợp cụ thể thông qua hình
thức ký kết hợp đồng sau khi thắng thầu. Việc tiêu thụ sản phẩm xây dựng
được tiến hành trực tiếp giữa người mua và người bán không qua khâu trung
gian. Đặc điểm này cho phép các doanh nghiệp xây lắp chủ động trong công
tác ký kết hợp đồng kinh tế nhưng cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải am
hiểu và năng động trong kinh doanh mới đảm bảo được yêu cầu kỹ thuật công
trình, mới đảm bảo khả năng thực hiện công trình đúng hợp đồng ký kết.
Thứ sáu, việc thanh toán sản phẩm xây dựng cơ bản của doanh nghiệp
xây lắp thường kéo dài do phụ thuộc vào nguồn thu của ngân sách (đối với
các công trình được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách).


8

Từ những đặc điểm trên có thể thấy rằng các giải pháp tổ chức kinh

doanh của Doanh nghiệp xây lắp có tính cá biệt cao, luôn biến đổi linh hoạt,
rất phức tạp và có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn về không gian và thời gian.
Bộ máy quản lý xây lắp có thể trải rộng trên lãnh thổ nhất là những công trình
trải rộng trên tuyến dài. Quá trình tổ chức quản lý kinh doanh của doanh
nghiệp xây lắp dễ bị gián đoạn do khoảng cách lớn, do thời tiết, do không
nhận được công trình nhận thầu liên tục, do chu kỳ suy thoái của nền kinh tế.
Công tác quản lý sản xuất kinh doanh phục thuộc nhiều vào chủ đầu tư, vào
khả năng thắng thầu và khó chủ động hơn so với các ngành khác. Sự vận
động của các quy luật kinh tế thị trường trong xây lắp có một số đặc điểm
khác với những ngành khác nên các chiến lược marketing về sản phẩm, về
giá, về tiêu thụ, cạnh tranh, thị trường cũng có những đặc điểm riêng biệt.
Nhìn chung, những đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp sẽ có ảnh hưởng
đến quá trình chu chuyển vốn của các doanh nghiệp, đến hiệu quả đầu tư của
nền kinh tế và ảnh hưởng tới quan hệ tín dụng, chất lượng tín dụng của ngân
hàng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi công xây dựng cơ bản.
1.1.2.2 Cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng
thương mại
a. Khái niệm
Cho vay ngắn hạn của NHTM đối với doanh nghiệp xây lắp là một trong
những hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng
sẽ chuyển giao cho bên vay (các doanh nghiệp xây lắp) một khoản vốn tiền tệ,
bên vay sẽ sử dụng khoản vốn tiền tệ đó trong một khoảng thời gian tối đa là
12 tháng, sau đó sẽ hoàn trả cho tổ chức tín dụng cả gốc và lãi theo thoả
thuận. Mục đích sử dụng vốn của các doanh nghiệp xây lắp là để thanh toán
chi phí lưu động trong quá trình thi công xây dựng các công trình (hoặc từng


9

hạng mục công trình) trước khi được chủ đầu tư thanh toán. Nguồn trả nợ

chính là tiền thanh toán của chủ đầu tư.
Ngân hàng thương mại cho các DNXL vay để bổ sung phần vốn lưu
động còn thiếu sau khi huy động hết nguồn vốn tự có và nguồn huy động
khác. Ngân hàng cho vay vốn, góp phần đảm bảo tính liên tục của sản xuất
xây dựng. Đối tượng vay vốn ngắn hạn là những chi phí trực tiếp liên quan và
phục vụ cho doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng thi công xây lắp (ngoại trừ
chi phí khấu hao tài sản cố định), cụ thể như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu phục vụ thi công xây lắp: cát, đá sỏi, thuê xe
vận chuyển, xi măng, sắt thép và các chi phí nguyên vật liệu khác.
- Chi phí nhân công: lương cán bộ nhân viên, công nhân xây dựng, nhân
công thuê ngoài và các chi phí nhân công khác.
- Chi phí thuê thiết bị máy móc thi công, chi phí sửa chữa nhỏ thiết bị,
công cụ phân bổ vào công trình.
- Chi phí ban đầu triển khai thi công công trình như: Chi phí lán trại,
chuyển máy móc thiết bị và các chi phí khác.
- Thanh toán cho nhà thầu phụ (B’) trong trường hợp khách hàng là Nhà
thầu chính.
- Các chi phí khác phục vụ thi công công trình xây lắp trong dự toán xây
lắp công trình.
b. Nguyên tắc vay vốn:
Tín dụng của NHTM đối với các doanh nghiệp nói chung và với doanh
nghiệp xây lắp nói riêng dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
- Việc cho vay phải trên cơ sở thẩm định rõ khách hàng
Nguyên tắc này là nguyên tắc quan trọng trong công tác tín dụng của
ngân hàng. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu những


10

rủi ro có thể gặp phải, nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao uy tín và vị thế

của ngân hàng trên thị trường.
- Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi
Các khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản
tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải
có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy ngân hàng luôn
yêu cầu khách hàng vay vốn phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều
kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển. Để tạo điều kiện cho khách hàng hoàn
trả nợ đúng hạn, ngân hàng phải định kỳ hạn trả nợ phù hợp với chu kỳ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích
Vốn vay ngân hàng cung cấp đầy đủ kịp thời các nhu cầu tối thiểu cần
thiết và hợp lý cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của khách hàng. Mọi nhu
cầu vay vốn phải được lượng hoá cụ thể và việc xin vay đầu tư cho nhu cầu
nào phải được sử dụng vào đúng mục đích đó. Đây là một nguyên tắc quan
trọng bởi chỉ khi khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích và đúng với
phương án sản xuất kinh doanh như đã cam kết với ngân hàng thì khoản tín
dụng ngân hàng mới đảm bảo an toàn và chất lượng. Để làm được điều này,
cán bộ tín dụng của ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra giám sát quá trình
sử dụng tiền vay.
- Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo
Đây là một nguyên tắc cần thiết bởi tài sản làm đảm bảo sẽ là ràng buộc
trách nhiệm trả nợ vay của khách hàng, đồng thời đó là nguồn thu thứ hai cho
ngân hàng khi khách hàng không thanh toán được nợ vay. Bằng cách phát mãi
tài sản cầm cố, thế chấp, ngân hàng có thể thu hồi một phần vốn cho vay khi
khách hàng không còn khả năng trả nợ ngân hàng.
c. Điều kiện vay vốn


11


NHTM xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều
kiện sau:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp: Ngân hàng cho khách hàng vay
vốn phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong phạm vi ngành nghề
được phép theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ (gốc và lãi) cho Ngân hàng trong
thời hạn cam kết.
- Có phương án sản xuất kinh doanh khả thi. có hiệu quả và phù hợp với
quy định của pháp luật.
- Thực hiện bảo đảm tiền vay theo đúng quy định của Nhà nước và của
Ngân hàng.
d. Hình thức cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp xây lắp
Đối với các DNXL, NHTM thường cho vay dưới các hình thức sau:


Cho vay thấu chi:
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép các DNXL

được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhấ
định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức
thấu chi. Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu
chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký
séc, lập ủy nhiệm chi, mua thẻ …vượt quá số dư tiền gửi đê chi trả (song
trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi
ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả:
Lãi suất thấu chi x thời gian thấu chi x số tiền thấu chi.



12

Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ
sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về
thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán vào dự đoán
ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện
thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh và kịp
thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần
lớn là không có đảm bảo. Tuy nhiên, hình thức này chỉ sử dụng đối với các
khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
 Cho vay trực tiếp từng lần:
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các
khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên. Mỗi lần vay khách hàng
phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ
phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời
hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món
vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Số lượng cho vay = Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh – Vốn chủ sở
hữu tham gia – Các nguồn vốn khác tham gia.
Trong đó:
Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh = Nhu cầu vốn đầu tư cho TSLĐ
và TSCĐ – Giá trị Tài sản và chi phí không thuộc đối tượng tài trợ của NH
Nếu cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo:
Số lượng cho vay = Giá trị tài sản đảm bảo X Tỷ lệ cho vay trên giá trị
tài sản đảm bảo.


13


Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽt hu nợ gốc và lãi.
Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục
đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng
sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả
nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm
soát từng món vay tách biệt, tiển cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
 Cho vay theo hạn mức:
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ.
Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh ,
nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Ngân hàng ước lượng hạn
mức tín dụng đối với các doanh nghiệp như sau:
Bước 1: Xác định nhu cầu dự trức hàng hóa bình quân trong kỳ
Nhu cầu dự trữ hàng hóa bình quân trong kỳ
Vòng quay được tính dựa trên doanh số bán của kỳ trước.
Vòng quay hàng hóa dự trữ kỳ trước =
Bước 2: Xác định nhu cầu tín dụng:
Nhu cầu vay ngắn hạn ngân hàng = Nhu cầu dự trữ hàng hóa bình quân trong
kỳ - Nguồn vốn chủ sở hữu, các tổ chức tín dụng khác tài trợ cho nhu cầu dự
trữ hàng hóa bình quân.
e. Quy trình cho vay ngắn hạn của Ngân hàng thương mại đối với DNXL:


14

Đối với lĩnh vực xây lắp hiện nay tại các NHTM chưa có quy trình riêng,
việc cho vay tuân thủ theo quy trình tín dụng chung áp dụng cho tất cả các

ngành nghề của Ngân hàng. Quy trình cho vay được bắt đầu từ khi cán bộ tín
dụng bộ phận quan hệ trực tiếp tiếp nhận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi tất
toán thanh lý hợp đồng tín dụng, có thể khái quát ở các bước như sau:
- Bước 1: Tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng về hồ sơ vay vốn
Cán bộ tín dụng/cán bộ quan hệ khách hàng làm đầu mối tiếp nhận,
hướng dẫn khách hàng về hồ sơ vay vốn, kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp hợp
lệ của bộ hồ sơ vay vốn. Thông thường hồ sơ vay vốn gồm: hồ sơ pháp lý, hồ
sơ khoản vay và hồ sơ bảo đảm tiền vay (nếu có).
- Bước 2: Thẩm định các điều kiện tín dụng
CBTD/ Cán bộ QHKH thực hiện thẩm định bộ hồ sơ vay vốn theo
những nội dung sau:
+ Đánh giá chung về khách hàng: đánh giá về năng lực pháp lý, mô hình
tổ chức, bố trí lao động; ngành nghề kinh doanh và năng lực quản trị điều
hành của khách hàng.
+ Đánh giá về tình hình tài chính của khách hàng: đánh giá tính chính
xác và minh bạch của báo cáo tài chính, phân tích, đánh giá các chỉ tiêu tài
chính, nhận xét về năng lực sản xuất kinh doanh và tài chính của ngân hàng.
+ Thẩm định phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư: đánh giá về
tính hiệu quả và khả năng trả nợ của phương án sản xuất kinh doanh/dự án
đầu tư
+ Đánh giá về hình thức bảo đảm tiền vay: xem xét khách hàng thuộc
diện cho vay có TSĐB hay không cần TSĐB, tỷ lệ TSĐB cần thiết phù hợp
với chính sách tín dụng của ngân hàng.


15

+ Xem xét khả năng cân đối vốn của ngân hàng, xem xét các điều kiện
thanh toán…
- Bước 3: Ra quyết định tín dụng

Tại bước này, trên cơ sở những phân tích, thẩm định của các bộ phận có
liên quan của ngân hàng, cấp có thẩm quyền của ngân hàng sẽ ra quyết định:
từ chối cấp tín dụng hay đồng ý/đồng ý có thêm điều kiện trước khi cấp tín
dụng. Trong trường hợp từ chối cấp tín dụng, ngân hàng phải có công văn từ
chối gửi khách hàng. Trong trường hợp đồng ý cấp tín dụng, CBTD/cán bộ
QHKH thực hiện thương thảo với khách hàng về các điều kiện cấp tín dụng
đã được cấp thẩm quyền phê duyệt; nếu các bên thống nhất với các điều kiện
đó, CBTD/cán bộ QHKH có trách nhiệm soạn thảo các Hợp đồng để các bên
cùng ký kết.
- Bước 4: Giải ngân, theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay
+ Giải ngân: Trên cơ sở các Hợp đồng đã ký và cam kết của khách hàng
về việc hoàn thiện các điều kiện cấp tín dụng theo Hợp đồng đã ký (trong
trường hợp tại thời điểm giải ngân khách hàng chưa hoàn thiện được tất cả
các điều kiện cấp tín dụng - chủ yếu là các điều kiện về bảo đảm tiền vay);
căn cứ các chứng từ vay vốn xuất trình của khách hàng, CBTD/cán bộ QHKH
sẽ kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ giải ngân, thực hiện trình
duyệt tại cấp có thẩm quyền, nhập dữ liệu vào hệ thống quản lý và luân
chuyển chứng từ cho các bộ phận có liên quan.
+ Theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay: sau khi giải ngân, CBTD/cán
bộ QHKH thực hiện việc theo dõi, quản lý khoản vay theo các nội dung chính
sau: theo dõi nợ vay: số tiền vay, kỳ hạn trả nợ gốc, nợ lãi, nợ phí (nếu có);
kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay: kiểm tra vật tư bảo đảm tiền vay, kiểm
tra tại hiện trường; theo dõi tình hình biến động về sản xuất kinh doanh, tài
chính của khách hàng…


16

- Bước 5: Thu nợ gốc, nợ lãi, phí và xử lý các phát sinh
CBTD/cán bộ QHKH theo dõi thông qua HĐTD, chứng từ kế toán, sổ

sách… và phần mềm quản lý để thông báo kỳ hạn trả nợ gốc, lãi, phí (nếu có)
cho khách hàng, xử lý các tình huống nợ quá hạn, nợ gia hạn, nợ phí theo
kỳ…, xử lý các khiếu nại và tranh chấp phát sinh.
- Bước 6: Thanh lý Hợp đồng tín dụng
Khi khách hàng trả hết nợ, CBTD/cán bộ QHKH phối hợp với các bộ
phận liên quan thực hiện thu tất toán khoản vay, giải toả TSĐB (nếu có) và
làm thủ tục thanh lý Hợp đồng.
1.2 Hiệu quả cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng
thương mại
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp xây lắp
Xuất phát từ bản chất của cho vay là mối quan hệ giữa người vay và
người cho vay, nó liên quan đến nhiều chủ thể kinh tế và có vai trò cực kỳ to
lớn trong nền kinh tế, do vậy hiệu quả cho vay ngắn hạn đòi hỏi cần được
xem xét dưới ba giác độ chính như sau:
• Xét trên góc độ hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì hiệu quả
tín dụng là khoản tín dụng được bảo đảm an toàn, sử dụng đúng mục đích,
phù hợp với chính sách tín dụng của ngân hàng, hoàn trả gốc và lãi đúng thời
hạn, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả
năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường, làm lành mạnh các quan hệ
kinh tế, phục vụ tăng trưởng và phát triển.
• Xét trên góc độ lợi ích của khách hàng thì hiệu quả tín dụng được
thể hiện là sự phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất và
kỳ hạn hợp lý, thủ tục tín dụng đơn giản, thuận tiện, thu hút được nhiều khách
hàng nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc tín dụng.


17

• Đối với nền kinh tế, khoản tín dụng có chất lượng phải hỗ trợ cho
hoạt động kinh doanh, tiêu dùng hợp pháp, góp phần phục vụ sản xuất, lưu

thông hàng hoá, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh
tế xã hội, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình
tích tụ và tập trung vốn cho sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng
trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Trên cơ sở đó ta có thể định nghĩa: “Hiệu quả cho vay ngắn hạn các
doanh nghiệp xây lắp là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của doanh nghiệp
xây lắp trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn vốn, tăng lợi nhuận của Ngân
hàng, phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội”.
Tóm lại, hiệu quả cho vay ngắn hạn là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản
ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài,
nó thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ xem xét, đánh giá hiệu quả cho
vay ngắn hạn xét trên góc độ hoạt động kinh doanh của ngân hàng; tức là,
hiệu quả cho vay biểu hiện và được đánh giá trên phương diện bảo đảm tính
an toàn và sinh lợi của đồng vốn bỏ ra. Theo định nghĩa này, hiệu quả cho vay
của NHTM được đánh giá thông qua 2 yếu tố cơ bản sau:
- Mức độ an toàn: Khi thực hiện ra quyết định cho vay đối với khách
hàng, một vấn đề mà ngân hàng luôn quan tâm là khả năng trả nợ (bao gồm
nợ gốc, lãi, phí phát sinh) của khách hàng. Bởi vì, nguồn vốn của một NHTM
thông thường chủ yếu là nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh
tế, nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ. Do đó, nếu NHTM có nhiều khoản
vay kém chất lượng dẫn đến tình trạng mất vốn sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến
khả năng thanh toán của ngân hàng, gây mất khả năng thanh toán, thậm chí
phá sản ngân hàng. Chính vì vậy, an toàn đối với đồng vốn bỏ ra là một yêu
cầu đặt ra hàng đầu trong công tác tín dụng của ngân hàng.


18

- Khả năng sinh lợi: một khoản vay sẽ không được đánh giá là có chất

lượng, có hiệu quả nếu như nó không tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi vì,
một trong những đặc trưng của tín dụng ngân hàng là giá trị tiền tệ lúc hoàn
trả phải lớn hơn giá trị tiền cho vay, tức là người đi vay phải hoàn trả đầy đủ
cả gốc và lãi cho ngân hàng. Ngoài ra, hiệu quả cho vay thể hiện qua khả
năng sinh lợi cũng phải được hiểu rộng ra: ngoài phần sinh lợi trực tiếp từ
khoản tín dụng là lãi và phí (nếu có), khoản tín dụng đó có góp phần tạo ra
các nguồn lợi nhuận phi lãi cho ngân hàng hay không, tức là tạo ra các khoản
thu khác từ dịch vụ ngân hàng như: thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ, phát
hành thẻ…
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cho vay ngắn hạn của NHTM đối
với DNXL
1.2.2.1 Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô cho vay
a .Chỉ tiêu thứ nhất : Tỷ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn xây lắp
Dư nợ CV ngắn hạn DNXL
+ Tỷ trọng dư nợ CVNH đ/v DNXL = ----------------------------

x 100%

Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô tín dụng ngắn hạn đối với DNXL
b.Chỉ tiêu thứ hai :
Tốc độ tăng trưởng tín dụng ngắn hạn
Dư nợ tín dụng ngắn hạn DNXL năm nay
=

-----------------------------------------------

x 100% - 100%

Dư nợ tín dụng ngắn hạn DNXL năm trước

Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng ngắn hạn đối
với DNXL qua các năm.


19

1.2.2.2 Nhóm chỉ tiêu phản ánh độ an toàn
a. Chỉ tiêu thứ nhất : Tỷ lệ nợ ngắn hạn xây lắp quá hạn
Dư nợ quá ngắn hạn DNXL
+ Tỷ lệ nợ quá hạn

= -------------------------------

x 100%

Tổng dư nợ ngắn hạn DNXL
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi
đã quá hạn, do đến kỳ trả nợ nếu bên vay không trả được nợ mà không được
ngân hàng cơ cấu nợ (bao gồm điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và/hoặc gia hạn nợ)
thì số nợ đó sẽ bị chuyển thành nợ quá hạn. Nợ quá hạn là điều không mong
muốn của ngân hàng. Các ngân hàng luôn cố gắng giảm tỷ lệ nợ quá hạn
xuống
b. Chỉ tiêu thứ hai : Tỷ lệ nợ xấu ngắn hạn DNXL
Dư nợ xấu ngắn hạn DNXL
+ Tỷ lệ nợ xấu

= -------------------------------

x 100%


Tổng dư nợ ngắn hạn DNXL
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước (và quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày
25/04/2007 sửa đổi bổ sung quyết định 493), các khoản nợ của khách hàng tại
tổ chức tín dụng được phân loại và xếp theo các nhóm nợ từ Nhóm 1 →
Nhóm 5 với mức độ rủi ro tăng dần. Theo đó, các khoản nợ từ Nhóm 3 →
Nhóm 5 được gọi là Nợ xấu, tiềm ẩn nhiều rủi ro mất vốn cho ngân hàng.
Chính vì vậy, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng càng thấp cho thấy ngân hàng có
chất lượng tín dụng càng tốt.
Các TCTD có thể lựa chọn phân loại nợ theo Điều 6 – QĐ 493: phân loại
theo phương pháp định lượng dựa trên tuổi nợ (nợ trong hạn, nợ quá hạn
(dưới 90 ngày, từ 90 – 180 ngày, từ 180 – 360 ngày, trên 360 ngày), nợ điều
chỉnh thời hạn trả nợ, nợ gia hạn (nợ trong hạn/quá hạn theo thời hạn đã được


20

cơ cấu lại, số lần cơ cấu lại). Đối với các TCTD có đủ điều kiện và khả năng
thực hiện phân loại nợ theo phương pháp định tính có thể phân loại nợ theo
Điều 7 - QĐ 493: phân loại trên cơ sở Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đã
trình và được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận áp dụng (là hệ thống định
hạng toàn diện doanh nghiệp dựa trên các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính,
có xem xét đến yếu tố ngành nghề kinh doanh).
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là TCTD duy nhất tại Việt Nam
được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt cho phép đánh giá, phân loại nợ theo
Điều 7 – QĐ 493
c. Chỉ tiêu thứ ba : Dư nợ ngắn hạn DNXL có tài sản bảo đảm
Tỷ lệ dư nợ ngắn hạn

Dư nợ ngắn hạn DNXL có TSĐB


x 100%

=

DNXL có TSĐB

Dư nợ ngắn hạn DNXL

1.2.2.3 Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ sinh lời
Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNXL

Tỷ trọng thu
nhập từ hoạt
động cho vay
ngắn hạn đ/v

Thu nhập từ hoạt động cho vay ngắn hạn của
=

DNXL

x 100%

Thu nhập từ hoạt động tín dụng

DNXL
Việc phân tích tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay ngắn hạn đối với
DNXL giúp ta đánh giá được khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay ngắn
hạn đối với DNXL trong tổng thu nhập của Ngân hàng, qua đó thấy được

tầm quan trọng của nó để từ đó có những biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động này.


21

1.2.2.4. Chỉ tiêu khác
- Tổng giá trị gia tăng tạo ra từ lượng tín dụng của ngân hàng: chỉ tiêu
này thể hiện phương án kinh doanh/dự án đầu tư có sử dụng vốn vay ngân
hàng đã tạo ra được giá trị gia tăng như thế nào cho doanh nghiệp, từ đó thể
hiện hiệu quả và chất lượng của khoản vay đối với hoạt động của doanh
nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế, rất khó phân định đâu là phần giá trị gia tăng
do khoản tín dụng của ngân hàng tạo ra và đâu là do các nguồn vốn khác tạo
ra trong một dự án sử dụng nhiều nguồn vốn. Do vậy, chỉ có thể ước lượng
một cách tương đối theo phần trăm góp vào dự án từ khoản tín dụng của ngân
hàng.
- Tổng số việc làm tạo ra từ dự án có sử dụng nguồn vốn tín dụng.
- Hoạt động tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, tăng
thu nhập cho người lao động, nâng cao năng suất lao động, trình độ chuyên
môn…
- Các chỉ tiêu định tính thể hiện hiệu quả tín dụng thông qua việc thỏa
mãn các yêu cầu của người vay như: thái độ phục vụ của nhân viên ngân
hàng, thời gian xét duyệt một khoản vay, thủ tục xét duyệt, các dịch vụ đi
kèm, các điều kiện tín dụng không quá chặt chẽ…
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng hiệu quả cho vay ngắn hạn các Doanh nghiệp
xây lắp tại Ngân hàng thương mại
1.3.1 Các nhân tố chủ quan
Đây là những nhân tố thuộc về bản thân, nội tại ngân hàng liên quan đến
sự phát triển của ngân hàng trên tất cả các mặt ảnh hưởng tới hoạt động tín
dụng, gồm: chính sách, công tác tổ chức, trình độ lao động, quy trình nghiệp

vụ, kiểm tra, kiểm soát và trang thiết bị.
- Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng là đường lối, chủ trương đảm bảo cho hoạt động tín
dụng đi đúng quỹ đạo liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, định


22

hướng tín dụng theo ngành nghề…Nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại
của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều
khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng. Bất cứ ngân
hàng nào muốn có chất lượng tín dụng cao đều phải có chính sách tín dụng phù
hợp với điều kiện của ngân hàng, của thị trường.
- Công tác tổ chức của ngân hàng:
Ngân hàng có một cơ cấu tổ chức khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp
chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cán bộ, nhân viên, các phòng ban trong ngân
hàng, giữa các ngân hàng với nhau trong toàn bộ hệ thống cũng như với các
cơ quan khác liên quan đảm bảo cho ngân hàng hoạt động nhịp nhàng, thống
nhất có hiệu quả, qua đó sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu khách
hàng, theo dõi quản lý chặt chẽ sát sao các khoản vốn huy động cũng như các
khoản cho vay, từ đó nâng cao chất lương và hiệu quả tín dụng.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng:
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín
dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung. Kinh tế càng phát
triển, các quan hệ kinh tế càng phức tạp, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi
hỏi trình độ của người lao động càng cao. Đội ngũ cán bộ ngân hàng có
chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức, có năng lực trong việc quản lý vay
vốn, thẩm định, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền vay và có các biện
pháp hữu hiệu trong việc thu hồi nợ vay của ngân hàng... giúp ngân hàng có
thể ngăn ngừa được những rủi ro xảy ra khi thực hiện một khoản tín dụng.

- Quy trình tín dụng:
Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước, công việc cần phải
thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ, bắt đầu từ
việc xét đơn xin vay của khách hàng đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn
vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc lập ra một quy trình tín


23

dụng đảm bảo tính logic khoa học và việc thực hiện tốt các bước trong quy
trình tín dụng cũng như sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa các bước.
- Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng hết sức cần thiết là cơ sở để xem xét, quyết định cho
vay hay không cho vay và theo dõi, quản lý khoản cho vay với mục đích đảm
bảo an toàn và hiệu quả đối với khoản vốn cho vay. Thông tin tín dụng có thể
được thu thập từ nhiều nguồn: hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín
dụng, thông tin về ngành mà doanh nghiệp vay vốn hoạt động ... Thông tin
càng đầy đủ, chính xác và kịp thời, toàn diện thì khả năng ngăn ngừa rủi ro
càng lớn, hiệu quả tín dụng càng cao.
- Kiểm soát nội bộ:
Thông qua kiểm soát giúp lãnh đạo ngân hàng nắm được tình hình hoạt
động kinh doanh đang diễn ra, những thuận lợi, khó khăn, việc chấp hành
những quy định pháp luật, nội quy, quy chế, chính sách kinh doanh, thủ tục
tín dụng từ đó giúp lãnh đạo ngân hàng có đường lối, chủ trương, chính sách
phù hợp giải quyết những khó khăn, vướng mắc, phát huy những nhân tố
thuận lợi, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào
việc chấp hành những quy định, thể lệ, chính sách và mức độ kịp thời phát
hiện sai sót cũng như nguyên nhân dẫn đến sai sót lệch lạc trong quá tình thực
hiện một khoản tín dụng.
- Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng:

Không thể phủ nhận tầm quan trọng của công nghệ trong hoạt động ngân
hàng hiện đại. Công nghệ ngân hàng giúp cho ngân hàng giảm bớt được rủi ro
thông qua đa dạng hoá khách hàng, đa dạng sản phẩm và thị trường. Hiện đại
hoá công nghệ giúp tăng khả năng quản lý, tăng cường thu thập và xử lý
thông tin từ đó mới có thể đưa ra những quyết định đúng đắn trong quản lý


24

điều hành. Hiệu quả tín dụng chỉ có thể được nâng cao trên cơ sở hiện đại hoá
công nghệ ngân hàng, tăng cường khả năng kiểm tra kiểm soát trong cho vay
1.3.2 Các nhân tố khách quan
1.3.2.1. Các nhân tố thuộc về khách hàng
Để đảm bảo khoản tín dụng sử dụng có hiệu quả, mang lại lợi ích cho
ngân hàng góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì khách
hàng có vai trò hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư cách đạo đức tốt, có
tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những
khoản vốn vay của ngân hàng khi đến hạn, qua đó đảm bảo an toàn và nâng
cao chất lượng tín dụng của ngân hàng
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp:
Vốn tự có là một trong những yếu tố quan trọng phản ánh khả năng tự
chủ của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp xây lắp có vốn tự có đảm bảo sẽ giữ
được chủ động trong chiến lược sản xuất kinh doanh, nắm bắt được cơ hội,
phát huy hiệu quả vốn vay ngân hàng. Ngược lại, đối với những DNXL có
vốn tự có quá nhỏ, quy mô hoạt động lớn, thi công nhiều công trình sẽ không
có khả năng tự chủ tài chính, bị động trong sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng
đến khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng đầy đủ, đúng hạn.
- Năng lực quản lý, kinh doanh của bộ máy lãnh đạo DNXL
Đây là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả cho
vay đối với DNXL. Thật vậy, những DNXL có bộ máy lãnh đạo năng động,

có nghiệp vụ chuyên môn và có phương pháp quản lý, điều hành hợp lý sẽ
biết cách sử dụng vốn vay một cách có hiệu quả, giúp doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh đem lại lợi nhuận cao, phát triển bền vững. Nhà quản lý doanh
nghiệp phải có một kiến thức về kỹ thuật sản xuất, các chính sách nhân sự
đúng đắn, sự kiểm soát hữu hiệu về giá thành và chi phí, các chính sách thu
ngân và tín dụng thoả đáng, nhạy bén với thay đổi, dự toán và hoạch định


25

đúng đắn. Nếu không làm được điều này, doanh nghiệp sẽ có nguy cơ gặp
khó khăn khi có sự biến động về môi trường kinh tế và không ổn định.
Một dự án hoặc một phương án sản xuất kinh doanh tốt, khả thi, đem
lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhưng nếu khách hàng vay vốn có khả năng tổ
chức quản lý kém sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả của dự án, phương án sản xuất
kinh doanh, gây lãng phí vốn, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng không tốt,
không có khả năng cạnh tranh trên thị trường, dẫn đến vốn vay không phát
huy được hiệu quả, khả năng hoàn vốn sẽ gặp nhiều khó khăn, không như dự
kiến ban đầu khi cho vay.
- Tư cách, đạo đức của người vay:
Tư cách đạo đức xét trên phương diện ý muốn hoàn trả khoản nợ vay,
trong nhiều trường hợp người vay có ý muốn chiếm đoạt vốn, không hoàn trả
nợ vay mặc dù có khả năng trả nợ, điều này đã gây ra những rủi ro không nhỏ
cho vốn tín dụng của ngân hàng.
1.3.2.2 Nhân tố khác
- Chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước
Đây là nhân tố cực kỳ quan trọng, sẽ ảnh hưởng tới định hướng và mục
tiêu kinh doanh của NHTM cũng như các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng.
Căn cứ vào các chỉ tiêu, cơ cấu của ngành xây dựng, từng doanh nghiệp xây
lắp sẽ xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh của mình, cân đối tài

chính để xác định nhu cầu vay vốn. Các ngân hàng thương mại cũng căn cứ
vào các chỉ tiêu, định hướng phát triển của ngành xây dựng để xác định cơ
cấu đầu tư tín dụng của mình một cách có hiệu quả nhất.
- Môi trường pháp lý
Hệ thống pháp luật đồng bộ là hành lang an toàn cho hoạt động tín dụng.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, gây khó khăn cho Ngân


×