MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chiến tranh lạnh là chính sách thù địch về mọi mặt của Mĩ và các
nước đế quốc trong quan hệ với Liên Xô nói riêng và các nước xa
hội chủ nghĩa nói chung. Trong khoảng thời gian này, Mĩ và các
nước đế quốc ráo riết chạy đua vũ trang, tăng cường ngân sách quân
sự, thành lập các khối quân sự, các căn cứ quân sự bao quanh Liên
Xô và các nước xa hội chủ nghĩa; đồng thời gây ra các cuộc chiến
tranh đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Sau hơn 40
năm ròng ra kéo dài cuối cùng chiến tranh lạnh cũng kết thúc với sự
sụp đổ của của siêu cường Liên Xô và hệ thống xa hội chủ nghĩa ơ
Đông Âu, cùng với đó là sự suy yếu tương đối của Mĩ, sự trỗi dậy
mạnh mẽ của Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và sự phân hóa của
1
các nước thế giới thứ 3. Một lần nữa diện mạo thế giới tương chừng
như đa ổn định lại có những sự thay đổi hết sức phức tạp. Hệ thống
thế giới đối đầu lưỡng cực bị phá vỡ cũng như những hậu quả nặng
nề về vật chất lẫn tinh thần mà chiến tranh lạnh gây ra đa đẩy các
quốc gia mà trước hết là các cường quốc vào tình thế buộc phải
nhìn nhận và xây dựng lại đường lối phát triển và xu thế chiến lược
của mình sao cho phù hợp với trật tự thế giới mới đang dần được
hình thành trong bối cảnh biến đổi khôn lường của thế giới. Trong
những năm đầu sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, các cường quốc
đều bắt tay vào việc điều chỉnh một cách toàn diện chiến lược quốc
gia và chính sách đối ngoại của riêng mình nhằm tìm kiếm một vị
trí mới trong cục diện thế giới đang dần được đa cực hóa. Kết thúc
chiến tranh lạnh cũng là kết thúc của sự phân chia thế giới thành
nhiều mảnh vụn và hướng tới toàn cầu hóa theo nghĩa là một tiến
trình phát triển mới về chất của nhân loại. Các quốc gia tự nhận
thấy chỉ có duy trì môi trường hòa bình thế giới, cùng nhau hợp tác
toàn diện, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế thì mới có điều kiện để phát
triển đất nước, khôi phục hậu quả chiến tranh và cùng chung tay
giải quyết các vấn đề toàn cầu. Xu thế hòa bình, hợp tác để phát
triển trên thế giới giữa các cường quốc nói riêng và các quốc gia
trên thế giới nói chung cũng từ đó mà dần hình thành. Xu thế này
không chỉ tồn tại sau thời kỳ chiến tranh lạnh mà còn kéo dài và có
ảnh hương mạnh mẽ trong nền chính trị thế giới cho đến tận ngày
hôm nay. Bài tiểu luận tập trung làm rõ tình hình và đặc biệt là đi
sâu phân tích và làm rõ nguyên nhân hình thành xu thế này kể từ
sau chiến tranh lạnh.
2
PHẦN 1. CÁC KHÁI NIỆM CHÍNH
1.
Khái niệm xu thế:
Xu thế là chiều hướng phát triển đi lên hoặc cách thức của sự
thay đổi được nhiều đối tượng (quốc gia, cá nhân hoặc tổ chức) lựa
chọn hướng đến và đang trơ thành một trào lưu mang tính thời đại
mới trong một khoảng thời gian nhất định nào đó.
2.
Khái niệm hòa bình:
Hòa bình là trạng thái xa hội không có chiến tranh, không
dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ giữa các
quốc gia, dân tộc hay giữa các nhóm chính trị xa hội khác nhau.
Hòa bình đối lập với chiến tranh. Nếu chiến tranh là tình trạng xung
đột vũ trang giữa các quốc gia thì hòa bình được hiểu một cách đơn
giản là tình trạng không xảy ra xung đột vũ trang nào cả, các đối
tượng, chủ thể trong quan hệ quốc tế sẵn sàng dàn xếp và giải quyết
các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng, đàm phán thay vì dùng
bạo lực. Trong các quốc gia có nhiều chính đảng (đa đảng) thì hòa
bình cũng được hiểu là mối quan hệ hòa hảo, tôn trọng nhau và theo
công lý giữa các đảng phái. Nhìn chung hình thái hòa bình thường
không liên tục và luôn bị gián đoạn bơi các cuộc chiến tranh.
Trước đây quan niệm về hòa bình là xa hội không có chiến
tranh. Tuy nhiên ngày nay hòa bình còn được hiểu không chỉ là sự
vắng mặt của đấu tranh vũ trang mà còn là một trật tự tích cực mà
trong đó ý chí muốn dàn xếp tranh chấp một cách hòa bình chiếm
được ưu thê.
3
3.
Khái niệm hợp tác:
Hợp tác là sự cộng tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa hai hay nhiều
chủ thể (cá nhân, tổ chức hoặc quốc gia) trên nhiều phương diện,
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế hoặc các vấn đề mang tính mang tính
toàn cầu nhằm giải quyết một mục tiêu chung nào đó mà cả hai đều
hướng tới. Hợp tác để phát triển với mục tiêu hòa bình và dựa trên
các nguyên tắc: tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lanh thổ
của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác
bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các vấn đề mâu thuẫn, bất đồng
hoặc tranh chấp bằng biện pháp thương lượng hòa bình, không
dùng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, phản đối mọi âm mưu,
hành động gây sức ép, áp đặt và cường đối với quốc gia khác.
PHẦN 2. TÌNH HÌNH XU THÊ
1.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh:
Mặc dù chiến tranh giữa phương Đông và phương Tây hay là
những xung đột khu vực mang đậm màu sắc xung đột Đông – Tây
trong chiến tranh lạnh đa không ngừng xảy ra nhưng nhìn chung thì
trong toàn bộ quá trình của cuộc chiến tranh lạnh, trong suốt cả thời
kỳ kéo dài hơn 40 năm, kẻ khơi xướng và tham dự chủ yếu của
chiến tranh lạnh – Mỹ và Liên Xô luôn tránh việc đối kháng quân
sự trực tiếp với đối phương (việc giao chiến của máy bay hai nước
trong thời kì chiến Triều Tiên là ngoại lệ), một cuộc chiến tranh thế
giới cũng không xảy ra, nhân dân thế giới vì vậy mà được hương
một thời kì hòa bình dài gần nửa thế kỷ. Từ ý nghĩa này có thể nói,
chiến tranh lạnh không phải là chiến tranh thực sự mà là một cuộc
4
chiến tranh được tiến hành thầm lặng trong hòa bình. Từ khi bắt đầu
chiến tranh lạnh cho tới khi Liên Xô hoàn toàn tan ra, giữa hai nước
siêu cường Liên Xô đa nhiều lần xảy ra đối kháng kịch liệt và dẫn
đến khủng hoảng trầm trọng, đi tới bờ vực chiến tranh nhưng trong
mỗi cuộc khủng hoảng, Liên Xô và Mỹ đều tự giác hay bắt buộc
phải thực hiện hợp tác với nhau, áp dụng những biện pháp hữu hiệu
thiết thực để hai nước tránh khỏi chiến tranh. Việc phong tỏa
Béclin, cuộc khủng hoảng Béclin và cuộc khủng hoảng tên lửa
Cuba là những minh chứng rõ ràng nhất cho điều này. Nói tóm lại,
bắt đầu từ thời kỳ chiến tranh lạnh, hai nước Liên Xô và Mỹ đa
luôn chủ trương lấy phương thức hòa bình để xử lý các mối quan hệ
và không hề đề cập đến chiến tranh trực tiếp. Có lẽ cũng chính vì
vậy mà chiến tranh lạnh đa được đặt một tên gọi mới rất xác đáng là
“nền hoà bình lâu dài”1.
2.
Sau thời kỳ chiến tranh lạnh:
Bài học của thời kỳ chiến tranh lạnh đa chứng tỏ phương
pháp quan hệ quốc tế lấy đối đầu chính trị - quân sự làm chủ yếu
phải chịu nhiều tổn thất hoặc thất bại nặng nề mà điển hình là hai
trụ cột chính, hai siêu cường Liên Xô và Mỹ – “một mất một còn”
nay đa không còn phù hợp nữa. Trong khi đó, phương thức lấy hợp
tác và cạnh tranh kinh tế – chính trị là chính trong môi trường hòa
bình lại thu được nhiều kết quả tiến bộ và đáng mong đợi, tiêu biểu
như các nước Đức, Nhật và NIC. Sự hưng thịnh hay suy vong của
một quốc gia được quyết định bơi sức mạnh tổng hợp của quốc gia
đó mà chủ yếu là thực lực về kinh tế và khoa học kỹ thuật. Không
có một quốc gia nào có thể phát triển được trong điều kiện chiến
1 Trích lời nhà sử học và ngoại giao nổi tiếng người Mỹ John L. Gaddies.
5
tranh. Có hòa bình mới có điều kiện thu hút các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, mới huy động được sức người sức của trong nhân dân
cũng như tập hợp được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế
để phát triển đất nước. Chính vì vậy hầu hết các quốc gia lớn nhỏ
trên thế giới đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, qua đó mà phát
triển tiềm lực quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi để các nước giữ gìn
hòa bình trong nước cũng như chung tay góp phần duy trì hòa bình
thế giới.
PHẦN 3. NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH XU THÊ
1.
Hệ quả của chiến tranh:
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất và đại thảm họa toàn cầu
thế chiến thứ hai, chiến tranh lạnh cũng gây ra những tác động tiêu
cực mạnh mẽ đến thế giới, đặc biệt là hai cường quốc Mỹ và Liên
Xô. Theo ước tính, chi phí quân sự mà Mỹ sử dụng trong thời kỳ
chiến tranh lạnh là 8 nghìn tỉ đô la, chỉ tính trong hai cuộc chiến
tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam đa có hơn 100 nghìn lính
Mỹ thiệt mạng. Đối với Liên Xô thì mặc dù số binh sĩ thiệt mạng
khó có thể tính toán hết được nhưng phần trăm tổng sản lượng quốc
gia mà Liên Xô chi cho cuộc chiến này còn lớn hơn rất nhiều lần so
với Hoa Kỳ. Không những thế, số vũ khí mang tính sát thương với
quy mô và số lượng lớn mà chiến tranh lạnh đa gây ra vẫn còn đe
dọa đến an ninh của loài người. Cần phải nói rằng, vũ khí hạt nhân
thực ra không phải là sản phẩm của chiến tranh lạnh bơi vì sự xuất
hiện của nó sớm hơn so với sự bắt đầu của chiến tranh lạnh, nó là
kết quả của chiến tranh thế giới thứ hai. Thế nhưng sự bắt đầu chiến
6
tranh lạnh đa khiến cho cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân trên thế
giới ngày càng gay gắt, kho vũ khí hạt nhân ngày càng mơ rộng, số
lượng các quốc gia có vũ khí hạt nhân đa không tăng lên. Bên cạnh
đó, vũ khí hóa học và vũ khí sinh học đa được tích lũy lại trong thời
kỳ chiến tranh lạnh cũng là những vũ khí có tính sát thương cao, đe
dọa đến an ninh của loài người, do kỹ thuật chế tạo những loại vũ
khí này dễ nắm bắt được nên nguy cơ phổ biến của nó còn lớn và
khó khống chế hơn cả vũ khí hạt nhân. Sức phá hủy khủng khiếp
của vũ khí khoa học kỹ thuật cao hiện đại, bao gồm cả vũ khí hạt
nhân khiến cho cái giá phải trả của các cuộc chiến tranh hiện đại
lớn hơn rất nhiều so với những gì mà họ thu được. Tính hủy diệt,
những tổn thất to lớn cũng như hậu quả nặng nề mà các cuộc chiến
tranh hiện đại gây ra đa ảnh hương không hề nhỏ đến mọi lĩnh vực
đời sống kinh tế – chính trị – văn hóa – xa hội, khiến cho các cường
quốc hàng đầu như Liên Xô và Mỹ nói riêng cũng như các quốc gia
trên thế giới nói chung buộc phải nhìn nhận lại và đánh giá một
cách nghiêm chỉnh tầm quan trọng của hòa bình, ổn định, hợp tác
để phát triển. Thế giới đang thay đổi, hầu như tất cả những gì đặc
trưng cho cục diện chính trị thế giới được hình thành từ sau thế
chiến thứ hai cũng đa đi vào quá khứ cùng với sự tan của Liên bang
Xô viết và các nước xa hội chủ nghĩa. “ Bàn cờ quốc tế hoàn toàn
thay đổi, hình thái chính trị thế giới trước đây tựa như một bàn cờ
tướng khổng lồ với hai phía quân đỏ, quân đen có đường ranh giới
ngăn cách rạch ròi, đôi bên dàn trận thế tương chừng như đa sẵn
sàng lao vào một phen thắng bại phân minh. Vận mệnh mỗi bên đều
phó thác vào một tướng, một cực, còn lại dù là xe, pháo hay là ma
thì cũng đều là những công cụ, những đầu sai chịu sự điều khiển
7
chung của chủ soái”2. Giờ đây, sau chiến tranh lạnh, thế giới đang
khẩn trương đi vào một cuộc cờ mới, các quốc gia nhanh chóng
nhận thấy được sự xoay chuyển của cục diện thế giới mới, bàn cờ
đang dần được sắp đặt lại. Luật chơi cũng đang được xác định lại
với những chuẩn mực mới. Tất cả tuy đều chưa định hình rõ, song
điều đó có thể chắc chắn là mọi sự sẽ không còn hoàn toàn lặp lại
như trước nữa mà sẽ linh hoạt và phức tạp hơn nhiều. Bàn cờ không
còn chia thành hai mảng lớn phân tách rõ ràng bơi một đường ranh
giới mà các quân cờ sẽ ơ vào những vị trí đan xen lẫn nhau. Mỗi
quân trên bàn cờ dù là tốt đen hay là tướng đỏ tuy là đều mang linh
hồn riêng và đều có nước cờ riêng của mình nhưng tất cả đều có sự
ràng buộc khăng khít với nhau hơn trong vận mệnh chung của cả
cuộc cờ. Cờ mà tàn thì quân nào cũng phế cả. Sự tan ra của Liên Xô
- một trong hai siêu cường của trật tự thế giới hai cực đa tạo ra một
khoảng trống lớn trong không gian chính trị quốc tế, làm tan vỡ sự
cân bằng toàn cầu đa tồn tại trong gần 50 năm qua từ sau hội nghị
Y-an-ta năm 1945. Chính vì vậy các quốc gia cần phải hợp tác lại
với nhau để có thể lấp đầy một cực vừa bị phá vỡ, đó là quy luật
trong tự nhiên cũng như trong chính trị quốc tế.
2.
Quá trình các nước đổi mới tư duy đối ngoại:
Có thể thấy rõ, sau chiến tranh lạnh, quan hệ quốc tế phát
triển theo xu hướng hòa dịu nhưng năng động và phức tạp hơn.
Trước những đòi hỏi của tình hình thế giới, tất cả các quốc gia từ
lớn đến nhỏ đều phải tiến hành điều chỉnh chiến lược đối nội và đối
ngoại nhằn tìm cho mình một vị thế có lợi nhất trong quan hệ quốc
tế. Xu thế hòa bình, hợp tác trơ thành xu thế chủ đạo trong chính
2 Trần Quang Cơ, cục diện thế giới mới và vận nước, tạp chí quan hệ quốc tế tháng 3
năm 1992.
8
sách đối ngoại của các quốc gia. An ninh của mỗi quốc gia ngày
nay được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển linh hoạt,
mềm dẻo, tăng cường hợp tác, tránh đối đầu và chiến tranh, giải
quyết mọi vấn đề bằng thương lượng và hòa bình. Sau chiến tranh
lạnh, các quốc gia vừa và nhỏ tăng cường hợp tác, đa phương, đa
dạng hóa hợp tác trên nhiều mặt; các nước lớn điều chỉnh quan hệ
với nhau theo chiều hướng xây dựng quan hệ bạn bè chiến lược ổn
định, phát triển lâu dài, được coi là mối quan hệ kiểu mới, đa dạng
và toàn diện. Đây là sự điều chỉnh đúng đắn, linh hoạt, hợp thời hợp
thế, có ý nghĩa sâu sắc và to lớn xuất phát từ lợi ích chiến lược căn
bản của mình, xây dựng quan hệ mới, ổn định lâu dài, xác lập các
điều kiện quốc tế có lợi hơn, mơ rộng hệ thống an ninh quốc gia,
tao ra không khí quốc tế để xây dựng kinh tế nước mình đúng như
mục tiêu đa đề ra trong quá trình điều chỉnh chính sách. Trước tình
trạng những mâu thuẫn tranh chấp không ngừng tăng lên, các nước
lớn đều hướng tới việc tìm kiếm các biện pháp với xu hướng thông
qua đối thoại thỏa hiệp và tránh xung đột vũ trang trực tiếp. Từ sau
chiến trạnh lạnh, nhất là những năm gần đây, mối quan hệ giữa 5
nước lớn: Mỹ, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc vừa có những sự điều
chỉnh lớn lại vừa nhộn nhịp những chuyến thăm viếng lẫn nhau với
những tuyên bố, phương châm và nguyên tắc đối ngoại mới. Sự
điều chỉnh này rõ ràng là có ảnh hương to lớn đối với đời sống
chính trị thế giới nói chung và các mối quan hệ quốc tế nói riêng.
Lấy một ví dụ điển hình là Liên minh Châu Âu EU để làm rõ
điều này. Có thể thấy, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, chính sách đối
ngoại chủ yếu của EU là giữ cho Châu Âu có một nền hòa bình lâu
bền và về cơ bản hòa đồng với Mỹ. Sau chiến tranh lạnh, hội nghị
9
Masstricht3 với sự ra đời của hiệp ước Masstricht đa đánh dấu nỗ
lực thống nhất Châu Âu và những thay đổi trong chính sách đối
ngoại. Các nước trong Liên minh Châu Âu đặt ra hai mục tiêu chiến
lược cơ bản là xây dụng một Châu Âu thống nhất, không ranh giới
cùng với một nền kinh tế ổn định và phát triển cao và tăng cường an
ninh của liên minh và của các nước thành viên dưới mọi hình thức.
Một ví dụ khác chính là ngay nước Việt Nam chúng ta. Sau
khi phân tích tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta đa nêu rõ cách
tiếp cận mới trong bối cảnh lúc đó là chuyển từ đối đầu sang đối
thoại và đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình 4. Tiếp đó, Đảng ta đa
đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, nhấn mạnh tư tương “ra
sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ
vững hòa bình ơ Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình
ơ Đông Nam Á và trên thế giới”, tiếp tục xác định nhiệm vụ hàng
đầu là “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây
dưng và bảo vệ Tổ Quốc”, nhấn mạnh yêu cầu “ cần có hòa bình để
phát triển kinh tế”5. Đây là sự chuyển biến quan trọng trong nhận
thức, quan điểm về giải quyết tranh chấp, phá thế bao vây, cấm vận.
Đảng ta thực hiện đổi mới nhận thức về thế giới, an ninh và phát
triển, lợi ích dân tộc, giai cấp, tập hợp lực lượng; về bản thân đường
lối, chính sách, tư tương chủ đạo, phương châm chính sách đối
ngoại. Từ chỗ tuyên bố “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển” ( Đại hội VII), đến Đại hội IX Đảng ta đa nâng chính
sách đối ngoại lên một tầm cao mới “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
3 Hội nghị cấp cao của các nước Liên minh Châu Âu họp ơ Mastricht, Hà Lan, năm
1991.
4 Đảng Cộng Sản Việt Nam, nghị quyết 32 bộ chính trị, kí ngày 09/07/1986.
5 Đảng Cộng Sản Việt Nam, văn kiện Đại hội VI, trang 99.
10
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”, Đại hội X,
Đảng ta lại khẳng định thêm một bước “Việt Nam là bạn, là đối tác
tin cậy[...] tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực”. Đảng ta đa xác định 4 phương châm lớn là: đảm bảo lợi ích
dân tộc, kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế; Giữ vững độc
lập tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa và đa phương
hóa quan hệ đối ngoại; Trong quan hệ quốc tế nắm vững hai mặt
hợp tác và đấu tranh và đẩy mạnh hợp tác khu vực, đồng thời tăng
cường hợp tác với các nước trên thế giới. Đảng ta đa từng bước
hoàn thiện đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, tự chủ, đa phương
hóa và đa dạng hóa quan hệ, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất
cả các nước, không phân biệt chế độ xa hội.
3.
Xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế:
Sau chiến tranh lạnh, đặc biệt là sau khi các quốc gia bắt tay
vào công cuộc phát triển kinh tế để khôi phục đất nước thì cách
mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại cũng theo đó mà phát
triển hết sức mạnh mẽ với trình độ ngày càng cao, tạo ra điều kiện
thuận lợi để nâng cao năng lực sản xuất. Kinh tế và khoa học kĩ
thuật trơ thành nhân tố quyết định sự thành bại cũng như sức mạnh
tổng hợp của quốc gia và địa vị hơn kém trong bàn cờ thế giới. Quá
trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
lớn giữa các quốc gia buộc các nước phải vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh nhưng tránh đối đầu xung đột và chiến tranh, hướng tới mục
tiêu chung sống hòa bình. Trong bối cảnh sự phát triển như vũ bao
của cách mạng khoa học – công nghệ, các quốc gia đều nhận thấy
vấn đề cấp bách hàng đầu là phải ra sức tận dụng mọi nguồn lực
11
bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế. Đồng thời, sự phát
triển và ảnh hương mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia, làn
sóng tập hợp các quốc gia trong các tổ chức khu vực địa lý, từ tiểu
khu vực đến đại khu vực thành những khu vực mậu dịch tự do đang
diễn ra dồn dập ơ hầu khắp các châu lục, thậm chí là liên châu lục.
Trào lưu nhất thể hóa khu vực phát triển mạnh trong thập niên 90 sẽ
tiếp tục gia tăng cả về lượng và về chất trong những năm đầu thế kỷ
XXI, cùng với quá trình quá trình toàn cầu hóa sẽ ảnh hương sâu
sắc đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Cách đặt vấn đề
an ninh, quốc phòng và kinh tế trong thời đại “nhất siêu nhiều
cường” về cơ bản đa khác so với thời kỳ chiến tranh lạnh. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia không còn tùy thuộc vào sức mạnh
quân sự, chính trị mà sức mạnh kinh tế đa nổi lên hàng đầu và trơ
thành trọng điểm. Trong một nghiên cứu nguyên nhân quy luật
hưng thịnh và suy vong của các nước lớn trên thế giới trong 500
năm gần đây, Paul Kennedy đa nhấn mạnh: “các nguồn lực kinh tế,
sự phát triển của khoa học – kĩ thuật và sức mạnh quân sự tạo nên
sức mạnh tổng hợp của đất nước, quyết định vị trí quyền lực của đất
nước trong cục diện thế giới. Sự phát triển hay suy thoái của các
yếu tố này tạo nên sự hưng thịnh và suy vong không chỉ của các
cường quốc mà các quốc gia khác trong một thế giới phức tạp đan
xen và phụ thuộc lẫn nhau”6. Việt Nam chúng ta đến nay đa có quan
hệ ngoại giao với 172 nước, có quan hệ về kinh tế, thương mại và
đầu tư với gần 200 quốc gia và vùng lanh thổ. Chúng ta đang tham
gia ngày càng tích cực trên các diễn đàn khu vực và thế giới đồng
thời hội nhập ngày càng sâu sắc hơn vào nền kinh tế toàn cầu, góp
6Nhà sử học người Mỹ Paul Kennedy, tác phẩm “sự hưng thịnh và suy vong của các
cường quốc”, xuất bản năm 1988.
12
phần đấu tranh chung của cộng đồng thế giới vì hòa bình, hợp tác
và phát triển.
4.
Chung tay giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu:
Chiến tranh lạnh đa qua đi gần một thập kỷ nhưng di sản của
nó thì không hề dễ dàng bị xóa bỏ, nhiều căng thẳng về kinh tế và
xa hội đa bị khai thác làm lí do cho cuộc cạnh tranh thời kì chiến
tranh lạnh ơ nhiều nơi thuộc Thế giới thứ ba vẫn còn sâu sắc. Sự tan
ra quyền quản lý nhà nước ơ một số khu vực trước kia thuộc các
chính phủ cộng sản đa tạo ra các cuộc xung đột dân sự và sắc tộc
mới, đặc biệt là ơ Nam Tư cũ. Còn ơ Đông Âu, sự kết thúc của
chiến tranh lạnh đa dẫn tới một thời kỳ tăng trương mạnh mẽ về
kinh tế và các chế độ dân chủ tự do, trong khi ơ nhiều nơi khác trên
thế giới, như Afghanistan, độc lập đi liền với sự phá sản nhà nước.
Sau chiến tranh lạnh, cộng đồng thế giới phải đối mặt với nhiều vấn
đề có tính toàn cầu như: ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, xung
đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, khủng bố, chạy đua vũ trang,
biến đổi khí hậu, dịch bệnh, chiến tranh hạt nhân...mà không một
quốc gia riêng lẻ nào có thể đơn độc tự giải quyết mà không cần
đến sự hợp tác và giúp đỡ đa phương với các quốc gia khác trên thế
giới. Tuy hòa bình và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo của
tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh nhưng ơ nhiều khi vực vẫn
xảy ra nội chiến và xung đột. Nguy cơ này ngày càng trơ nên trầm
trọng hơn khi ơ nhiều nơi lại xuất hiện chủ nghĩa li khai và chủ
nghĩa khủng bố. Cuộc khủng bố ngày 11/9/2011 ơ Mỹ đa gây ra
những tác hại to lớn, báo hiệu nhiều nguy cơ mới đối với thế giới.
Không những thế, chiến tranh lạnh chấm dứt còn tạo môi trường
phát triển cho các thế lực tôn giáo, đặc biệt là đạo Hồi – một trong
13
ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Đạo Hồi đang ngày càng hoạt
động tích cực trong lĩnh vực chính trị thế giới, nhất là chủ nghĩa
Hồi giáo cực đoan – “Nó giống như một cơn sóng khổng lồ không
chỉ tung phá biên giới quốc gia và khu vực, làm rung động toàn bộ
thế giới Hồi giáo mà còn trên một chừng mực nhất định, ảnh hương
đến sự thay đổi và tình hình chung của thế giới” 7. Những mâu thuẫn
dân tộc, tôn giáo, nguy cơ khủng bố, tranh chấp lanh thổ và đặc biệt
là tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu đang là những vấn đề nhức
nhối, phức tạp và cấp bách nhất của cộng đồng thế giới sau chiến
tranh lạnh, buộc các quốc gia phải cùng nhau chung tay hợp tác để
giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu này.
7Lý Thực Cốc, “Mỹ thay đổi chiến lược toàn cầu”, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội,
năm 1996.
14
KÊT LUẬN CHUNG:
Bàn cờ quốc tế đang được sắp xếp lại với những thay đổi to lớn.
Liệu tình hình thế giới sẽ diễn biến như thế nào ? Những xu thế mới
sẽ nổi lên hay xu thế hòa bình, hợp tác để phát triển vẫn chiếm ưu
thế ? Trong công trình cuối cùng của đời mình, cố ngoại trương
Việt Nam - Nguyễn Cơ Thạch đa đưa ra dự báo: “Trong 25 năm tới
từ 1996 đến 2020, có nhiều khả năng không có chiến tranh thế giới
và cuộc chạy đua kinh tế toàn cầu sẽ thay thế cho chiến tranh lạnh
và chạy đua vũ trang. Chiến tranh cục bộ xảy ra chủ yếu là do xung
đột dân tộc và tôn giáo... Các nước lớn đa đi đến chấm dứt chiến
tranh lạnh, chấm dứt chạy đua vũ trang, mơ ra thời kỳ hòa hoan,
đấu tranh và hợp tác trong cuộc chạy đua kinh tế... Các dân tộc
chậm phát triển trên thế giới sẽ đứng trước những cơ hội thuận lợi
cũng như những thách thức to lớn...Hoặc các nước này có thể sẽ bỏ
qua giai đoạn công nghiệp hóa để đi thẳng vào thời đại thông tin và
đưa nền kinh tế phát triển rất nhanh chóng trong 20 năm hoặc là các
nước này lỡ cơ hội và bị tụt hậu rất xa”. Trong tương lai, dự đoán
thế giới sẽ vẫn phải tiếp tục đối mặt với các mối đe dọa đến an ninh
toàn cầu đặc biệt là chủ nghĩa khủng bố và các phong trào li khai
cùng với sự nóng lên của các vấn đề toàn cầu khác như biến đổi khí
hậu, ô nhiễm môi trường… Không những thế, song hành cùng với
sự phát triển thần tốc của khoa học công nghệ, quá trình toàn cầu và
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi các quốc gia phải biết
thay đổi linh hoạt chiến lược quốc gia cũng như điều chỉnh các
chính sách đối nội, đối ngoại của mình để bắt kịp với xu thế chung
của thời đại và mức phát triển chung của toàn thế giới.
15
16
1.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Paul Kennedy, “Sự hưng thịnh và suy vong của các cường
2.
quốc”, xuất bản năm 1988.
“Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới
và hội nhập” (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X), Nhà xuất bản
3.
chính trị quốc gia – Sự thật.
Trần Tiểu Minh, “Chiến tranh lạnh và di sản của nó”, nhà
4.
5.
xuất bản chính trị quốc gia.
“Lịch sử quan hệ quốc tế”, NXB Đại học Vũ Hán, năm 1983.
Trần Quang Cơ, “Trật tự thế giới và vận nước”, tạp chí quan
6.
hệ quốc tế tháng 3/1992.
Diêm Chú, “Xu thế phát triển tình hình thế giới sau khi Liên
7.
xô tan ra”, Kinh tế và chính trị thế giới”, năm 1993, kỳ 5.
Lý Thực Cốc – “Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu”, NXB
8.
Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 1996.
Nguyễn Cơ Thạch, “Thế giới trong 50 năm qua ( 1945 1995) và thế giới trong 25 năm tới (1996 – 2020)”, NXB
Chính trị Quốc gia, năm 1998.
17