MỞ ĐẦU
Việt Nam là quốc gia nằm trong vùng chí tuyến Bắc có khí hậu nhiệt đới
ẩm gió mùa, thuận lợi cho nền nông nghiệp phát triển. Bên cạnh sự phát triển
to lớn của cây lương thực thì cây công nghiệp cũng có những vị trí nhất định.
Đồng bằng sông Cửu Long có đất đai đa dạng vì vậy muốn khai thác hết
tiềm năng đất đai của vùng, cũng như để đa dạng hóa cây trồng, tăng thêm
nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu, việc phát triển một
số loại cây công nghiệp là rất cần thiết trong đó có cây tiêu.
Trong những năm gần đây, lợi nhuận từ trồng tiêu ngày một tăng cao, vì
vậy diện tích canh tác ngày càng mở rộng và nổi tiếng với địa danh tiêu Phú
Quốc, Hà Tiên. Đây là hàng nông sản xuất khẩu có giá trị kinh tế cao của Việt
Nam đã xuất khẩu trong thời gian qua.
Vì thế muốn phát triển giống tiêu này cần phải hiểu rõ đặc tính cũng như
kỹ thuật canh tác và cách khống chế nguồn bệnh, mang lại hiệu quả kinh tế
cao cho các nhà vườn. Do đó nhóm chúng tôi chọn đề tài “ Điều tra kỹ thuật
canh tác cây tiêu và xây dựng mô hình trồng tiêu quy mô 1 hecta tại
huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang” nhằm học hỏi những kinh nghiệm từ các
nhà vườn cũng như tìm ra những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất của mô
hình trồng tiêu nơi đây.
1
CHƯƠNG 1. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN HUYỆN PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG
1.1.1 Vị trí địa lý
Phú Quốc, còn được mệnh danh là Đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất
Việt Nam, thuộc tỉnh Kiên Giang. Phú Quốc nằm trong vịnh Thái Lan, phía
Tây Nam của Việt Nam, mũi Đông Bắc của đảo cách Campuchia 4 hải lý, đảo
cách thành phố Rạch Giá, thủ phủ của tỉnh Kiên Giang 62 hải lý về phía Đông
và cách thị xã Hà Tiên là 25 hải lý.
Hình 1.1 Bản đồ vị trí địa lý huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
Huyện đảo Phú Quốc gồm 2 thị trấn: Đông Dương, An Thới và 8 xã:
Dương Tơ, Cửa Cạn, Gành Dầu, Cửa Dương, Bãi Thơm, Hòn Thơm, Hàm
Ninh và Thổ Châu.
1.1.2 Địa hình và đặc tính đất
Vùng biển Phú Quốc có 22 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó đảo Phú Quốc lớn
nhất có diện tích 567 km², dài 49 km. Đảo Phú Quốc có hình tam giác, cạnh
đáy nằm ở hướng Bắc, nhỏ dần lại ở phía Nam. Địa hình thiên nhiên thoai
thoải chạy từ Bắc xuống Nam với 99 ngọn núi đồi. Tuy nhiên, cụm đảo nhỏ
của cảng An Thới bị ngăn cách hẳn với phần mũi phía Nam của đảo Phú Quốc
bởi một eo biển có độ sâu tới hơn 60 m.
2
Đảo Phú Quốc được cấu tạo từ các đá trầm tích Mesozoi và Kainozoi,
bao gồm cuội đa nguồn gốc phân lớp dày, sỏi thạch anh, silica, đá vôi, riolit và
felsit. Các đá Mesozoi thuộc hệ tầng Phú Quốc. Trầm tích Kainozoi thuộc các
hệ tầng Long Toàn (Pleistocen giữa-trên), hệ tầng Long Mỹ (Pleistocene trên),
hệ tầng Hậu Giang (Holocene dưới-giữa), các trầm tích Holocen trên và các
trầm tích Đệ tứ không phân chia (Q).
1.1.3 Khí hậu, thủy văn
Do vị trí đặc điểm của đảo Phú Quốc nằm ở vĩ độ thấp lọt sâu trong vùng
vịnh Thái Lan, xung quanh biển bao bọc nên có thời tiết mát mẻ mang tính
nhiệt đới gió mùa, khí hậu ôn hòa, mát mẻ quanh năm. Khí hậu chia hai mùa
rõ rệt: Mùa mưa và mùa khô.
Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 âm lịch năm sau, đảo chịu ảnh hưởng
của gió mùa Đông Bắc cường độ tương đối mạnh, tốc độ gió thổi trung bình từ
2,8-4 m/s, ẩm độ trung bình 78%, nhiệt độ cao nhất là 35 oC vào tháng 4 và
tháng 5, trung bình khoảng 27-28oC.
Mùa mưa Phú Quốc là cửa ngõ đón gió mùa Tây-Tây Nam, tốc độ gió
trung bình 4,5 m/s, gió mạnh thường xảy ra vào tháng 6, 7 và 8. Mùa mưa mây
nhiều, độ ẩm cao từ 85-90%, lượng mưa trung bình 414 mm/tháng.
Nhiệt độ trung bình hằng năm ở Phú Quốc đạt 25-27 oC, số giờ nắng
khoảng 1.445 giờ/năm, bình quân 6-7 giờ nắng/ngày. Lượng mưa bình quân
khá lớn, khoảng trên 3.000 mm, tuy nhiên phân bố mưa trong năm khá khắc
nghiệt: Trên 90% lượng mưa tập trung vào mùa mưa, kéo dài trong 8 tháng,
còn 4 tháng từ tháng 12 đến tháng 3 lượng mưa rất ít.
1.2 NGUỒN GỐC, GIÁ TRỊ VÀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÂY TIÊU
1.2.1 Nguồn gốc và giá trị
Cây tiêu có tên khoa học là Piper nigrum, thuộc họ Piperraceae. Cây tiêu
được mệnh danh là vua của các loại cây gia vị, có nguồn gốc từ Tây Ghats Ấn
Độ và sau đó lan sang các nước khác. Tiêu được sử dụng làm gia vị thức ăn,
trong y dược, trong công nghiệp hương liệu và làm chất trừ côn trùng.
Tiêu có chứa các chất dinh dưỡng và khoáng quan trọng như
vitamin A, C, E, K , niacin, β-carotene, các khoáng chất như sắt, canxi,
phốt pho và chứa các axit amin quan trọng. Tiêu chứa các chất chống oxy
hóa tự nhiên, có hoạt chất chống ung thư. Nó có giá trị sinh học cao như:
tác dụng kháng viêm, giảm cholesterol, tăng khả năng miễn dịch, hạ sốt,
kháng khuẩn,… (Murlidhar Meghwal và Goswami , 2012).
/>3
1.2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ tiêu trên thế giới và Việt Nam
1.2.2.1 Thế giới
Theo thống kê của FAO thì hiện nay trên thế giới có khoảng 70 nước
trồng tiêu. Năm 1954 toàn thế giới có khoảng 64.000 tấn hột tiêu. Năm 1978
là 160.000 tấn hột tiêu. Năm 1983 là 180.000 tấn hột tiêu. Sau năm 1982 sản
lượng tiêu trên thế giới giảm dần do sâu bệnh và thời tiết. Đồng thời một phần
cũng do sự ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng tới sự thụ phấn của hoa tiêu.
Đến năm 1989-1990 diện tích trồng tiêu trên toàn thế giới đã tăng vọt và sản
lượng đạt khoảng 185.000 tấn tiêu hột. Các nước sản xuất tiêu nhiều nhất trên
thế giới lúc này là Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Brazil, Madagasca và
Srilanka. Hiện nay, những nước trồng tiêu nhiều nhất là Ấn Độ, Indonesia và
Việt Nam. Trên thế giới mức tiêu thụ hạt tiêu hàng năm đạt khoảng 4-5%. Các
sản phẩm được trao đổi dưới dạng tiêu đen, tiêu trắng, tiêu xanh và dầu nhựa
tiêu. Hiện nay, nước Mỹ đang đứng đầu về nhập khẩu tiêu với khoảng 1/3
lượng tiêu của thế giới. Sau đó là các nước Nga, Đức, Pháp, Ý và thị trường
của Anh. Ngoài ra thị trường các nước Trung Đông và Bắc Phi cũng đang tiêu
thụ ngày càng nhiều.
1.2.2.2 Việt Nam
Trước năm 1975, cây tiêu miền Bắc được trồng chủ yếu ở Nghệ An,
Quảng Bình và miền Nam được trồng ở Phú Quốc, Long Khánh, Lộc Ninh.
Năm 1995 diện tích từng bước gia tăng song biến động không ổn định bởi
thiên tai, bệnh tật. Từ 1990-1995 do giá tiêu bị giảm mạnh và không có thị
trường tiêu thụ nên các vườn tiêu bị phá đi rất nhiều. Từ năm 1996 các nước
như Indonesia, Brazil,… bị ảnh hưởng của thiên tai, khu vực Đông Nam Á bị
khủng hoảng tài chính, nên giá tiêu đã gia tăng lên 4.000 USD/tấn vào năm
2000, và đó là cơ hội thuận lợi cho hồ tiêu Việt Nam vươn lên chiếm lĩnh thị
trường hạt tiêu thế giới. Năm 1997-1999 diện tích tiêu tăng từ 9.777 lên
15.461 ha. Diện tích tiêu tăng nhanh nhất ở vùng Đông Nam Bộ từ 5.893 ha
tăng lên 9.115 ha (chiếm 60,27% diện tích tiêu của cả nước). Năng suất tăng
chậm và có sự sai khác rất lớn giữa các vùng và tỉnh có trồng tiêu. Năng suất
bình quân năm 1997 là 2,08 tấn/ha đến năm 1999 cũng chỉ đạt 2,12 tấn/ha
nhưng cao nhất là ở vùng Đông Nam Bộ đạt 2,55 tấn/ha, trong khi năng suất
thấp nhất là ở vùng Bắc Trung Bộ chỉ đạt 0,75 tấn/ha (bằng 29,4% so với năng
suất của vùng Đông Nam bộ). Đặc biệt tỉnh Bình Phước với diện tích thu
hoạch 2.405 ha, năng suất đạt 3,8 tấn ha (gấp 6,9 lần năng suất tiêu ở Quảng
Bình).
4
Năng suất bình quân đầu năm 1997 đạt 18.970. Sản lượng tiêu tính trên
đơn vị diện tích cho thu hoạch theo thống kê năm 1997 là 13.007 tấn và năm
1999 tăng lên 18.970 tấn song thực tế xuất khẩu năm 1999 đạt 34.000 tấn.
Tổng lượng tiêu 3 năm 1997-1999 là 47.860 tấn trong khi đó lượng tiêu xuất
khẩu là 74.500 tấn.
1.3 ĐẶC TÍNH THỰC VẬT
1.3.1 Rễ
Có 4 loại rễ chính:
- Rễ cọc: Rễ cọc chỉ có khi trồng tiêu bằng hạt (Lê Đức Niệm, 2001).
Sau khi gieo hạt, một rễ cái mọc ra trước ăn sâu vào đất để lấy nước gọi là rễ
cọc (Nguyễn Bảo Vệ và ctv., 2005). Sau khi gieo phôi hạt phát triển đâm sâu
vào đất, có thể ăn sâu 2-2,5 m, nhiệm vụ chính là hút nước.
- Rễ cái: Khi nhân giống bằng hom, rễ mọc từ thân hom tiêu gọi là rễ cái.
Rễ cái có từ 3-5 rễ ăn sâu vào đất để lấy nước (Nguyễn Bảo Vệ và ctv., 2005).
Sau một năm trồng, rễ cái có thể ăn sâu tới 2 m (Lê Đức Niệm, 2001).
- Rễ con (rễ phụ): Rễ con mọc ra từ các rễ cái và mọc thành từng chùm
mang nhiều lông hút, tập trung nhiều ở độ sâu 15-40 cm. Đây là loại rễ quan
trọng nhất của cây tiêu trong sinh trưởng và phát triển (Lê Đức Niệm, 2001).
- Rễ bám (rễ ký sinh, rễ thằn lằn): Rễ bám là rễ mọc ra từ các đốt thân
chính hoặc cành của cây tiêu, bám vào nọc, vách đá. Nhiệm vụ giữ cây tiêu
vững chắc và việc hấp thu dưỡng chất không nhiều lắm (Nguyễn An Dương,
2004).
1.3.2 Thân
Thân tiêu thuộc loại thân bò, cọng trụ (Nguyễn Bảo Vệ và ctv., 2005).
Tốc độ tăng trưởng của thân tương đối nhanh, có thể tăng tới 5-7 cm/ngày nếu
được chăm sóc tốt (Nguyễn Đăng Nghĩa và ctv., 2010). Thân tiêu có màu đỏ
nhạt (non) đến nâu xám, nâu xanh, xanh lá cây đậm, khi cây già hóa mộc có
màu nâu sẫm. Nếu không bấm ngọn thì cây tiêu có thể dài tới 10 m.
Cấu tạo thân gồm nhiều bó mạch libe mộc có kích thước khá lớn, nên có
khả năng vận chuyển nước, muối khoáng từ đất lên thân rất mạnh. Do vậy khi
thiếu nước hoặc vấn đề gì khác thì dây tiêu héo rất nhanh.
1.3.3 Cành
Cây tiêu có ba loại cành: Cành vượt, cành quả và cành lươn.
5
- Cành vượt: Mọc ra từ các mầm nách lá ở những cây còn non dưới 1
năm tuổi và mọc thẳng gần song song với thân chính. Cành này phát triển rất
mạnh, nếu dùng làm hom để giâm cành thì cây cho ra hoa chậm nhưng tuổi
thọ cây kéo dài (20-30 năm).
- Cành quả (cành ác): Là những cành mang trái mọc ra từ các mầm của
nách lá của thân chính ở những cây tiêu lớn hơn 1 năm tuổi, gốc độ phân cành
lớn hơn 45o. Các đốt của cành quả không có rễ bám. Cành này ngắn hơn cành
vượt, lóng ngắn, khúc khuỷu và thường mọc cành cấp 2, nếu lấy cành này
nhân giống thì rất mau cho trái nhưng tuổi thọ ngắn, mau cỗi, năng suất thấp,
cây con phát triển chậm và cây không leo, không bò bám (Lê Đức Niệm,
2001). Trong sản xuất người ta thường trồng khoảng 10% cành giống loại này
để có sản phẩm bán sớm.
- Cành lươn: Là cành mọc ra từ gốc cây gần mặt đất, thường bò trên mặt
đất, đốt dài và nhỏ, cả cành dài từ 1-3 m, lá đọt có màu tím (Nguyễn An
Dương, 2004). Cành lươn phát triển làm tiêu hao chất dinh dưỡng của cây nên
thường cắt bỏ hoặc để làm hom nhân giống. Cây tiêu nhân từ cành lươn chậm
ra hoa (3-4 năm), nhưng cho năng suất cao và tuổi thọ dài (20-30 năm).
1.3.4 Lá
Lá tiêu thuộc lá đơn, hình trái tim, mọc cách. Cuống lá dài 2-3 cm, phiến
lá dài 10-15 cm, rộng 5-10 cm tùy thuộc vào giống (Lê Đức Niệm, 2001).
Theo Scot C. Nelson và K. T. Cannon-Eger (2011) lá có màu xanh đậm ở
trên và màu xanh nhạt bên dưới, lá láng bóng, hình trái tim và có chiều
dài 13-25 cm.
Lá cũng là bộ phận để nhận diện giống, trên phiến lá có 5 gân lá hình
lông chim, mặt trên bóng láng và xanh đậm hơn mặt dưới. Tùy thuộc vào
giống, điều kiện thời tiết và chế độ chăm sóc (Nguyễn An Dương, 2004).
1.3.5 Hoa và trái
1.3.5.1 Hoa
Hoa mọc thành từng gié treo lủng lẳng trên cành quả. Một gié dài khoảng
7-12 cm, trung bình có 20-60 hoa trên gié, sắp xếp theo hình xoắn ốc, dưới
mỗi hoa có một lá bắc nhỏ nhưng rụng rất sớm khó thấy. Hoa tiêu có thể
lưỡng hoặc đơn tính và có thể đồng chu, dị chu hoặc tạp hoa (Nguyễn An
Dương, 2004).
Hoa tiêu không có bao hoa, không có đài và có màu vàng hoặc xanh nhạt
gồm có 3 cánh hoa, 2-4 nhị đực, bao phấn có 2 ngăn, hạt phấn tròn và rất nhỏ,
đời sống rất ngắn khoảng 2-3 ngày.
6
1.3.5.2 Trái
Trái tiêu có dạng hình cầu, đường kính 4-8 mm, tùy theo giống và chăm
sóc. Theo Nguyễn Đăng Nghĩa (2010) trái tiêu khi chín có màu đỏ tía, trong
trái có 1 hạt chiếm phần lớn khối lượng của trái. Cấu tạo hạt gồm 2 lớp, bên
ngoài là vỏ hạt, bên trong là phôi nhũ và phôi (đây là bộ phận tiêu dùng). Thời
gian từ lúc hoa nở đến trái chín kéo dài 7-10 tháng, chia ra các giai đoạn:
- Hoa xuất hiện và thụ phấn: 1-1,5 tháng.
- Thụ phấn đến trái phát triển tối đa: 3-4,5 tháng, đây là giai đoạn cần
nhiều nước nhất.
- Trái phát triển tối đa đến chín: 2-3 tháng.
1.4 YÊU CẦU ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH
1.4.1 Khí hậu
Cây tiêu có nguồn gốc từ nhiệt đới nên yêu cầu khí hậu nóng ẩm. Giới
hạn vùng trồng tiêu trên thế giới nói chung là 15o vĩ Bắc-15o vĩ Nam. Cao độ
thích hợp là 800 m (Lê Thanh Phong, 2011).
Nhiệt độ thích hợp là 18-26oC, trên 40oC hoặc dưới 10oC ảnh hưởng xấu
đến sinh trưởng phát triển của cây tiêu, một số giống ở 15 oC đã ngừng tăng
trưởng. Hiện đang tuyển chọn giống có khả năng chịu lạnh khá hơn để trồng
tới 20o vĩ Bắc (Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn Đăng Nghĩa, 2012).
1.4.2 Vũ lượng
Lượng mưa thích hợp nhất cho tiêu phát triển là 1.250-2.500 mm. Cây
cần có một thời gian khô hạn ngắn sau thu hoạch với ẩm độ không khí khoảng
70% để có thể phân hóa hoa chuẩn bị cho vụ kế tiếp (Lê Thanh Phong, 2011).
Cây tiêu có thể chịu được mùa khô nhưng không quá 3 tháng, thời gian này
chủ yếu để tiêu chín. Ở miền Nam muốn tiêu có năng suất cao cần tưới trong
các tháng khô nắng. Tiêu cần mùa khô ngắn để ra hoa đồng loạt, nếu mưa
nhiều quanh năm cũng không thích hợp (Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn
Đăng Nghĩa, 2012).
1.4.3 Ẩm độ không khí
Ẩm độ không khí 75-90% thích hợp cho thụ phấn của hoa, có ẩm độ cao
thì nướm nhụy mới xòe và ướt để hứng được nhiều hạt phấn của hoa phía trên
rơi xuống. Sương muối làm cháy lá non và rụng hoa (Nguyễn Mạnh Chinh và
Nguyễn Đăng Nghĩa, 2012).
7
1.4.4 Ánh sáng
Cây tiêu thích ánh sáng tán xạ để có thể sinh trưởng, ra hoa kết trái và
kéo dài tuổi thọ. Trong giai đoạn ra hoa và nuôi trái cây cần nhiều ánh sáng
hơn (Lê Thanh Phong, 2011). Khi cây còn nhỏ cây cần nhiều bóng râm. Khi
lớn, ra hoa có quả cây cần nhiều ánh sáng hơn, thời gian này cần tỉa bớt cành
của cây choái để tăng lượng ánh sáng cho vườn cây (Nguyễn Mạnh Chinh và
Nguyễn Đăng Nghĩa, 2012).
1.4.5 Gió
Cây tiêu cần trồng nơi ít gió, gió khô nóng hay gió lạnh đều không thích
hợp cho cây phát triển. Gió lớn dễ làm ngã nọc, đổ cây, ảnh hưởng thụ phấn
còn làm hơi nước bốc thoát nhiều. Nơi thường có gió lớn cần xây dựng hệ
thống cây chắn gió.
1.4.6 Đất đai, địa hình và nhu cầu nước
Cây tiêu có thể trồng được trên nhiều loại đất như bazan, phù sa cổ, phù
sa mới, đất pha cát, đất phiến thạch, yêu cầu chính của đất trồng tiêu là phải
thoát nước, không bị ngập úng trong mùa mưa, tầng đất sâu trên 50 cm và
mạch nước ngầm sâu trên 70 cm, đất tơi xốp, giàu hữu cơ, độ pH từ 5,5-7
(Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn Đăng Nghĩa, 2012). Theo Lê Thanh Phong
(2011) cho rằng cây tiêu có thể trồng ở độ cao tới 1.500 m so với mực nước
biển và độ dốc <10o. Theo Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn Đăng Nghĩa
(2012) cho rằng đất dốc cũng có thể trồng được nhưng cần có biện pháp chống
xói mòn như trồng cây che phủ đất, làm ruộng bậc thang. Đất chua cần bón
thêm vôi. Đất xấu hoặc lẫn sỏi đá cần đào hố sâu, bón nhiều phân hữu cơ và
trồng cây họ đậu phủ đất. Đất thấp không có điều kiện thoát nước thì không
nên trồng tiêu.
1.4.7 Dinh dưỡng
Nghiên cứu về dinh dưỡng cho thấy các chất đạm, lân, kali là những chất
chủ yếu. Theo Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn Đăng Nghĩa (2012) thì cây
tiêu cần nhiều N và K, sau đó đến P. Các kết quả nghiên cứu trên thế giới cho
thấy với mật độ 1.750 nọc/ha thì lượng dinh dưỡng tiêu lấy đi khoảng 115 kg
N, 5 kg P2O5, 120 kg K2O, 45 kg Ca và 20 kg Mg (Lê Thanh Phong, 2011).
Ngoài ra cây tiêu cũng cần có các chất vi lượng như đồng (Cu), kẽm (Zn),
mangan (Mn),… Các chất dinh dưỡng trên đều có vai trò quan trọng trong quá
trình sinh trưởng và phát triển của cây tiêu.
Việc quản lý nước hết sức quan trọng trong hiệu suất sử dụng phân
bón. N và K là những chất hòa tan cao có thể bị rửa trôi trong môi trường
8
đất cát nếu tưới lượng nước quá nhiều so với khả năng giữ nước của
chúng, mực thủy cấp nên quản lý chặt chẽ và duy trì ở mức 18-24 inch
tương đương 46-61 cm. Sức căng bề mặt nước được đo bằng tensiometers
ở độ sâu 6-8 inch tương đương 15,3-20,3 cm giá trị đạt khoảng -8 đến -12
centibar (George Hochmuth, 2003).
1.5 GIỐNG VÀ KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG
1.5.1 Giống tiêu
1.5.1.1 Phân loại
Dựa vào kích thước lá, Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn Đăng Nghĩa
(2010) đã chia các giống tiêu thành 3 nhóm:
- Nhóm lá lớn: Lá lớn (dài khoảng từ 20-25 cm), lóng dài, bộ tán rộng,
gié hoa dài hơn 15 cm, sinh trưởng mạnh, chậm ra hoa (3-4 năm sau khi
trồng), rất kén đất, dễ nhiễm bệnh và năng suất thường không ổn định.
- Nhóm lá nhỏ: Lá nhỏ (dài 10-20 cm), màu xanh đậm, lóng ngắn, tán
hẹp và hơi rũ, gié hoa ngắn (4-6 cm), ra hoa sớm (sau 2 năm trồng), không kén
đất, ít nhiễm bệnh, năng suất tương đối cao và ổn định, thời gian thu hoạch dài
trên 30 năm.
- Nhóm lá trung: Có đặc tính trung gian giữa hai nhóm trên.
1.5.1.2 Một số giống tiêu phổ biến ở Việt Nam
Qua nghiên cứu, Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn Đăng Nghĩa (2010)
thấy rằng phần lớn các giống tiêu ở nước ta hiện nay đều thuộc nhóm lá nhỏ,
một số ít là thuộc nhóm lá trung và lớn.
- Tiêu Sẻ Đất Đỏ: Được trồng phổ biến ở miền Đông Nam Bộ, thuộc
nhóm lá nhỏ, chịu hạn tốt, năng suất khá cao (2-3 kg/gốc/năm). Tuy nhiên, cây
dễ nhiễm bệnh chết nhanh do nấm Phytophthora sp. và thối rễ tuyến trùng.
- Tiêu trâu: Một số nơi còn gọi là tiêu ta, tiêu Lộc Ninh; là giống thuộc
nhóm lá lớn, ra trái rải rác, năng suất trung bình và tương đối ổn định.
- Tiêu trung: Được trồng khá phổ biến với nhiều tên gọi như tiêu Phú
Quốc, tiêu Vĩnh Linh, Tiên Sơn, Di Linh,... Có nguồn gốc từ giống Lada
Belantoeng. Khá kén đất và kháng bệnh tốt.
- Tiêu Lada benlantoeng: Có nguồn gốc từ Indonesia, nhập vào Việt
Nam từ Madagasca (Trần Văn Hâu, 2011), trồng nhiều ở Vĩnh Linh (Quảng
Trị), Bà Rịa (Vũng Tàu). Là giống tiêu lá lớn, phát triển nhanh, mau cho trái,
9
năng suất cao (3 kg hạt khô/gốc/năm) nhưng khá kén đất và đòi hỏi yêu cầu
thâm canh cao.
- Tiêu Srée Chéa, Kep, Kanpot, Kamchay: Là những giống lá lớn, có
nguồn gốc từ Campuchia. Cây ra hoa sớm, năng suất khá cao (2-2,5
kg/gốc/năm) và chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh. Thường được trồng
nhiều ở Hà Tiên, Phú Quốc, Đông Nam Bộ và dần dần được gọi theo tên địa
phương như tiêu Lộc Ninh, tiêu Quảng Trị, tiêu Phú Quốc, tiêu Nam Vang
(Trần Văn Hâu, 2011).
- Tiêu Panniyur-1, Karimunda: Giống tiêu lai lá nhỏ có nguồn từ Ấn Độ,
cây cho năng suất khá cao, kháng tương đối tốt với bệnh chết dây và tuyến
trùng.
1.5.2 Kỹ thuật nhân giống
Sử dụng cây giống chất lượng tốt, sạch sâu bệnh là một trong những điều
kiện tiên quyết cho một vườn tiêu có tuổi thọ cao và hiệu quả. Có 2 cách nhân
giống: Vô tính và hữu tính.
1.5.2.1 Nhân giống hữu tính
Tiêu được nhân giống bằng hạt, có rễ cọc dài chịu hạn tốt nhưng cây sinh
trưởng kém và lâu ra quả (6-7 năm) (Lê Đức Niệm, 2001). Theo Li và ctv.
(2010) thực hiện một nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ, ánh sáng và
chất điều hòa sinh trưởng lên sự nảy mầm của hạt giống tiêu trong môi
trường được kiểm soát chặt chẽ. Hạt tiêu được đặt trong đĩa Petri với
giấy tờ lọc và đợi cho sự nảy mầm và phát triển triệt để trong thời gian
mười tám ngày. Kết quả thu được là không thấy sự khác biệt nảy mầm
khi trong điều kiện sáng tối, hạt tiêu nảy mầm ở nhiệt đo từ 25-35 oC, tốt
nhất là 30oC, không nảy mầm ở nhiệt độ <20oC và >40-45oC.
1.5.2.2 Nhân giống vô tính
Trong sản xuất, có 3 cách nhân giống vô tính là chiết cành, ghép cành và
giâm cành, trong đó giâm cành là phương pháp được áp dụng phổ biến nhất,
sử dụng từ nhiều loại nhánh của cây (thân chính, dây lươn, cành quả). Theo Lê
Đức Niệm (2001), tuổi cành lấy làm hom là 12-18 tháng, đường kính cành
giâm 5-10 mm.
- Thân chính: Thân mọc được 1,5-2 năm thì cắt cách mặt đất 30-40 cm,
cách ngọn 15 cm, lấy đoạn giữa cắt ra từng hom (30-50 cm).
- Dây lươn: Được áp dụng nhiều, cho năng suất đồng đều, sinh trưởng và
tuổi thọ cao (trên 30 năm).
10
- Cành quả: Mau ra quả nhưng mau tàn.
Đoạn cành được lấy làm hom đem giâm phải to khỏe, suôn sẽ, không gãy
dập, lá tươi tốt và các rễ lộ thiên ở các mắt đốt phải đầy đủ sinh trưởng trên
gốc tiêu khỏe mạnh, phát triển tốt (Việt Chương, 1999). Hom tiêu có 2 cách
trồng là trồng thẳng ra vườn nhưng hom bị chết nhiều và ươm hom tại vườn
ươm một thời gian (4-5 tháng).
Theo Nguyễn An Dương (2004), dùng dao bén cắt hom lúc trời mát.
Chặt dài quá không có lợi, nên chọn hom có 3-4 mắt và chủ yếu bằng dây
lươn. Cắm xiêng một gốc 45o trên líp đã bón 20 kg phân chuồng hoai, 2 kg
super lân hoặc apatit và 5-10 g thuốc Vibasu. Thời gian giâm khoảng 45 ngày
thì hom tiêu ra rễ dài 2-3 cm, ra được 2 lá là đem trồng được.
Cây tiêu có thể nhân giống bằng hạt, giâm cành, chiết cành và ghép
cành. Nhân giống bằng hạt thường tạo ra những biến dị di truyền, trong
khi những cách khác thì mang lại hiệu quả nhân giống chậm và tốn thời
gian. (Atal và Banga, 1962, trích dẫn bởi Altaf Hussain và ctv., 2011). Vì
vậy, cần phải có một phương pháp nhân giống nhanh và hiệu quả hơn cho
tiêu. Trong trường hợp này thì nuôi cấy mô là phương pháp hiệu quả và
đáng tin cậy, sản xuất nhanh chóng, ít tốn thời gian, không mang mầm
bệnh và cho thế hệ con có kiểu hình đồng nhất (Hu và Wang, 1983, trích
dẫn bởi Altaf Hussain và ctv., 2011). Tuy nhiên phương pháp này ít được sử
dụng ở Việt Nam.
Một nghiên cứu ở Ấn Độ do Thankamani và ctv. (2007) thực hiện
cho rằng nguyên liệu làm bầu đất để giâm hom tiêu tốt nhất là xơ dừa
trộn với bột đá granit tỉ lệ 1:1 cùng với phân bón sinh học chứa vi sinh vật
cố định đạm và phân giải lân làm nguồn dinh dưỡng chính, bên cạnh đó
môi trường xơ dừa + bột granit + phân chuồng tỉ lệ 2:1:1 chi phí thấp hơn
so với đối chứng là đất + cát + phân chuồng tỉ lệ 2:1:1.
1.6 CHỌN NỌC TIÊU (CHOÁI)
Nọc tiêu giúp tiêu leo bám trong cả quá trình sinh trưởng nên nọc tiêu rất
quan trọng đối với đời sống cây tiêu. Do đó cần chọn nọc tiêu vững chắc,
không bị mục gãy đổ.
Có 3 loại nọc tiêu là:
- Nọc sống là những cây còn sống và lớn lên cùng cây tiêu.
- Nọc chết là những cây gỗ chết, thân chắc và làm chỗ dựa cho tiêu.
- Nọc xây bằng gạch hay bằng bê tông làm chỗ dựa cho tiêu.
11
1.6.1 Nọc sống
Ưu điểm:
- Tuổi thọ cao, đáp ứng thời gian sinh trưởng cây tiêu.
- Dễ tìm, chi phí thấp.
- Che mát cây tiêu trong năm đầu tiên.
- Rễ bám cây tiêu có thể sử dụng nước và nhựa cây nọc.
Hạn chế:
- Cạnh tranh ánh sáng, dinh dưỡng (nhất là cạnh tranh ánh sáng giai đoạn
tiêu ra hoa, làm gié ít trái).
- Công xén tỉa cành lá hàng năm.
- Lây truyền một số bệnh cho tiêu.
- Hạn chế mật số tiêu.
Một số yêu cầu đối với nọc sống:
- Sinh trưởng nhanh mọc khỏe, thân đứng.
- Bộ rễ chính phải ăn sâu khỏi vùng rễ tiêu phát triển.
- Ít lá, cành hoặc tán thưa ít che sáng, có thể chịu được cắt tỉa nhiều lần
mà không chết.
- Ít sâu bệnh phá hại hoặc không cùng loại sâu bệnh hại với tiêu.
- Vỏ cây tương đối nhám và không tróc vỏ thường xuyên.
- Nên chọn cây họ đậu tăng đạm cho đất, đồng thời chọn cây dễ trồng
bằng cành để kịp cho tiêu leo bám (Mai Văn Quyền và ctv., 2007 ).
Một số loại cây có thể làm nọc sống: Anh đào giả, đại bình linh, lồng
mức,...
1.6.2 Nọc chết
Có ưu điểm là khi trồng xuống tiêu có thể leo lên ngay, không cạnh tranh
dinh dưỡng, ánh sáng với cây tiêu nên có thể đạt năng suất cao hơn, dễ dàng
xén tỉa tiêu, không tốn công tỉa lá cho cây nọc. Tuy nhiên, cần chú ý một số
yêu cầu khi chọn gỗ làm nọc tiêu:
- Cây lâu mục, chống chịu tốt với côn trùng và nấm ký sinh.
- Cao từ 3,5-4 m, đường kính từ 15 cm trở lên.
- Có thể chôn sâu vào đất khoảng 0,6-1 m mà không mục chân.
Một số loại cây rừng có thể dùng làm nọc chết như: Căm xe, làu táu, cà
chắc, cà đuối,...
12
Hình 1.2 Mô hình trồng tiêu sử dụng nọc chết
1.6.3 Nọc xây
Ngoài nọc bằng gỗ, hiện nay người ta có thể dùng gạch xây thành tháp
hay cột xi măng làm nọc tiêu.
Tháp gạch:
Có thể hình vuông hay tròn, cao 3,5-4 m, đường kính đáy 1-1,2 m,
đường kính chóp 0,5-0,8 m, khoảng cách giữa 2 mặt tháp từ 1,8-2 m. Thân
tháp rỗng, có thể đổ thêm phân chuồng và đất vào lòng tháp, cung cấp dinh
dưỡng và giữ ẩm cho cây tiêu. Cách làm này có ưu điểm là nọc chắc, một tháp
có thể trồng được nhiều hom tiêu (8-12 hom).
Cột xi măng (nọc sạn):
Hình vuông, mặt bên rộng 12-15 cm.
Tháp gạch và cột xi măng hấp thu nhiệt mạnh có thể làm tiêu không
bám được, héo chết. Do đó sau khi trồng cần che mát, tưới nước và bón phân
đầy đủ. Khi tiêu che hết nọc thì không cần che mát.
13
Hình 1.3 Mô hình trồng tiêu sử dụng nọc xây bằng xi măng
1.7 KỸ THUẬT CANH TÁC
1.7.1 Chuẩn bị cây con
Từ nhánh lươn: Là nhánh non nhất mọc từ gốc và bò trên mặt đất. Nhánh
được buộc bò lên nọc tạm 4-6 tháng để được mập và đủ già trước khi cắt thành
từng đoạn hom dài khoảng 3-4 lóng (Nguyễn Bảo Vệ và ctv., 2011). Hom lấy
từ dây lươn, cây cho trái chậm hơn 3-4 năm sau khi trồng song tiềm năng cho
năng suất cao và tuổi thọ cũng cao nhất, thích hợp cho chuyên canh. Hơn nữa,
hom từ dây lươn có giá thành rẻ, dồi dào hơn.
Từ nhánh thân: Theo Nguyễn Bảo Vệ và ctv., (2011), cây tiêu phát triển
nhanh, cho trái tương đối sớm (1-1,5 năm sau trồng).
Từ nhánh ác: Theo Nguyễn Bảo Vệ và ctv., (2011), cây tiêu cho trái sớm,
nhưng mọc dạng bụi, năng suất và tuổi thọ kém hơn. Nếu sản xuất cây non từ
nhánh ác thì cây cho trái sớm trong vòng 1 năm sau khi trồng. Cây phát triển
chậm không leo mà mọc thành bụi nên không cần nọc, tuy nhiên năng suất
thấp và tuổi thọ cũng không cao (7-8 năm) cho nên chỉ trồng để sử dụng trong
gia đình, ít phổ biến trồng đại trà cho sản xuất.
1.7.2 Chuẩn bị đất trồng
Theo Nguyễn Bảo Vệ và ctv., (2011), trồng tiêu ở vùng cao, đất được cày
xới sâu 40-50 cm, bừa kỹ, xử lý sạch cỏ dại. Đất được chia thành các lô trồng
có diện tích lớn, nhỏ tùy theo địa hình. Nếu trồng tiêu ở vùng đất đồi dốc (>8 o)
thì thiết kế hàng tiêu theo đường đồng mức để chống xói mòn. Đối với tiêu
14
trồng ở Đồng bằng sông Cửu Long được trồng trên đất liếp, liếp trồng rộng 46 m, mương sâu 1-1,2 m. Đất liếp được cày, cuốn sâu 20-30 cm. Trước khi
cày lần cuối nếu pH thấp thì phải bón vôi, nếu đất nhiều mối, kiến thì xử lý đất
bằng Basudin, Regent, đất nhiều bệnh thì xử lý bằng dung dịch Sunfat đồng
nồng độ 1% hoặc Zineb, Semesan 3-5%; 3000-5000 lít nước thuốc trên hecta
(Nguyễn An Dương, 2004).
Theo Đào Quang Hưng (2004), cứ 5 hàng tiêu trồng xen một hàng cây
chống xói mòn như: Trồng cỏ Vetiver, cây cốt khí hoặc các cây khác trong
vùng. Cứ 2 hàng tiêu ta nên đào một rãnh thoát nước vuông gốc với chiều dốc,
mục đích thoát nước ngay khi có mưa, rãnh chỉ cần nhỏ theo kích thước mặt
30x30x20 cm. Dọc theo hướng dốc chính khoảng 40-50 m thiết kế một mương
40x30x30 cm để thoát nước từ các mương nhỏ.
Theo Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn Đăng Nghĩa (2012), nếu vườn có
cây cũ cần đào hết gốc rễ. Đất chua thì rãi vôi, đất có nhiều mối thì dùng thuốc
trừ sâu. Sau đó bừa đất nhỏ, nhặt hết rễ cây và cỏ dại. Cày đất trước khi trồng
khoảng 1 tháng để phơi ải.
1.7.3 Thời vụ trồng
Theo Nguyễn Bảo Vệ và ctv., (2011) thì thời vụ trồng thay đổi theo các
vùng khác nhau:
- Miền Trung (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế) trồng vào
tháng 8-9 dl khi hết gió Lào. Thời gian thu hoạch trong năm là tháng 2-3 dl.
- Tây Nguyên trồng vào tháng 5-7 dl. Thời gian thu hoạch trong năm là
tháng 12-1 dl.
- Miền Đông Nam bộ trồng tháng 4-8 dl. Thời gian thu hoạch trong năm
là tháng 1-4 dl.
- Đồng bằng sông Cửu Long trồng tháng 6-9 dl. Thời gian thu hoạch
trong năm là tháng 1-3 dl.
1.7.4 Trồng và chăm sóc
1.7.4.1 Cách trồng
Nọc sống hay nọc chết: Đào 1 hay 2 hố ở hai bên nọc. Hố hình vuông
hay hình thang, kích thước 30-40 cm mỗi cạnh. Nọc chết miệng hố cách chân
nọc 10-15 cm, nọc sống miệng hố cách chân nọc 30-40 cm (Nguyễn Bảo Vệ
và ctv., 2011).
Nọc xây: Đào 6-8 hố, kích thước 40x40x40 cm, 1 hố trồng 1-2 dây, hoặc
đào rãnh tròn xung quanh nọc rộng 40 cm, sâu 30 cm, miệng rãnh cách nọc
15
15-20 cm. Đào hố xong để phơi đất 10-15 ngày và bón lót. Trước khi đặt dây
thì dùng cuốc xới đều đất trong hố, moi lỗ cho vừa bầu đất hoặc hom tiêu, đặt
dây tiêu xiên góc với cây nọc 1 góc 45o (Nguyễn An Dương, 2004).
Bón lót: Bón 10-15 kg phân chuồng hoai mục trộn với 50 g super lân, 0,5
kg phân tôm hay phân dơi/hốc. Lấp hố hơi cao so với mặt đất. Sau khi lấp hố
15 ngày thì có thể trồng tiêu (Nguyễn Bảo Vệ và ctv., 2011).
Cách đặt hom: Bới các hốc nhỏ giữa hố, trồng tiêu nghiên đầu dây quay
về phía nọc. Lấp đất sâu kín mặt bầu hay 1/3 hom tiêu, nén chặt đất và tưới
đẫm nước. Nên trồng hom vào buổi chiều sẽ đạt tỷ lệ sống cao (Nguyễn Bảo
Vệ và ctv., 2011).
1.7.4.2 Khoảng cách trồng
Theo Nguyễn Bảo Vệ và ctv., (2011), khoảng cách trồng tiêu trung bình
là 2x2 m (mỗi cây tiêu có diện tích đất là 4 m 2, cho 2.500 nọc/ha, trồng nọc
chết). Đất tốt có thể trồng thưa hơn với khoảng cách 2,5x2,5 m (mỗi cây tiêu
có diện tích đất là 6,25 m2, cho 1.600 nọc/ha, trồng nọc chết). Trồng tiêu trên
nọc gạch cần khoảng cách thưa hơn, khoảng 3x3,5 m hay 3,5x3,5 m/nọc (8-12
dây/nọc), cho 810-950 nọc/ha.
Nên trồng 2 cây con cho 1 cây trụ sống và cây trụ gỗ, trồng 8-10 cây con
cho 1 trụ xây bằng gạch. Cây này cách cây kia 30 cm, lấp đất, nén nhẹ, tưới
nước (Đào Quang Hưng, 2004).
Ở Đồng bằng sông Cửu Long do phải đào mương lên liếp nên mật độ chỉ
khoảng 1.500-1.700 trụ/ha. Không nên trồng dày vì trồng dày tiêu sẽ cho ít
cành quả, cành quả có lóng dài, tỷ lệ đậu quả thấp, thưa quả và quả nhỏ
(Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn Đăng Nghĩa, 2012).
1.7.4.3 Che mát và tưới tiêu
Cây tiêu không ưa sáng trực tiếp và nhiệt độ cao mặc dù tiêu có nguồn
gốc xứ nóng như Ấn Độ (Phan Hữu Trinh và ctv., 1987), vì vậy vườn tiêu cần
được che bớt nắng.
Theo Lê Thanh Phong (2011), cây tiêu con (< 2 năm) cần được che mát,
nhất là khi mới trồng bằng nọc xi măng. Nên che mát bằng trồng cây cao, hoặc
tàu lá dừa, chú ý che mát hướng Tây.
Cây tiêu cần tưới nước giữ ẩm vào mùa khô, nhất là sau khi thu hoạch.
Tốt nhất là tưới gốc và tưới phun, làm bồn đắp bờ xung quanh gốc để giữ
nước. Tiêu còn nhỏ tưới 2-3 ngày 1 lần, tiêu trưởng thành tưới 7-10 ngày 1
16
lần. Nên phun nước lên ngọn để nước chảy xuống bồn, không nên tưới trực
tiếp vào gốc dễ làm lồi rễ tiêu.
Cần thoát nước kịp thời cho cây tiêu sau mỗi trận mưa, không để nước
đọng trong gốc cây để ngăn úng và ngừa bệnh chết nhanh do nấm
Phytophthora sp.
1.7.4.4 Tủ gốc và đôn dây
Trong mùa khô khi cây tiêu còn nhỏ cần được tủ gốc bằng rơm rạ, cỏ
khô, bả mía,… để giữ ẩm cho cây.
Kỹ thuật đôn dây tiêu chỉ áp dụng khi trồng tiêu bằng dây lươn, vì dây
mọc dài mà chưa ra trái, tiến hành đôn dây sau một năm trồng, đào mương
xung quanh gốc và lấp dây xung quanh để lồi đầu ngọn 20-30 cm (Nguyễn An
Dương, 2004).
1.7.4.5 Buộc dây
Sau khi trồng từ 1-2 tháng, mỗi hom mọc được thêm 2-3 tược như vậy
mỗi bụi sẽ có 4-6 tược. Tược lên đến đâu phải buộc đến đó để rễ bám chắc vào
choái thì mới cho cành quả. Nếu không buộc dây thì dây tiêu sẽ ngã ra ngoài,
dây ốm yếu không cho cành quả.
Theo Lê Đức Niệm (2001), dây dùng để buộc tốt nhất là dùng loại dây
nylon mỏng để buộc. Không nên dùng dây chuối khô hay các loại dây giữ
nước vì sẽ làm mầm bệnh dễ phát triển ngay chổ buộc làm đứt dây tiêu. Khi
buộc không nên buộc quá chặt cũng không nên buộc quá lỏng và phải xếp đều
đặn dây tiêu lên thân choái… Trong mùa mưa 5-7 ngày buộc 1 lần, mùa nắng
10 ngày buộc 1 lần.
1.7.4.6 Xén tỉa và tạo hình
Khi dây tiêu cao 1 m cắt chừa 3-4 đốt để dây tiêu mọc ra 2 nhánh tược
mới. Nuôi 2 nhánh mới cho đến khi mọc được 10 mắt thì tiến hành cắt lần thứ
hai trên mỗi nhánh, chừa 4-5 mắt để mọc ra các nhánh tược mới, tiếp tục nuôi
và cắt tỉa lần thứ ba như lần thứ hai. Cây tiêu cần được cắt tỉa tạo hình 4-5 lần
để to khỏe có nhiều nhánh ác mang trái. Khi cây đã ra trái phải cắt bỏ nhánh
tược và nhánh lươn để nuôi nhánh ác. Ở tiêu trưởng thành, mỗi năm cần xén
tỉa trống gốc cho thông thoáng để phòng bệnh.
1.7.4.7 Cây trồng xen
Trong khoảng 1-3 năm đầu mới trồng, khoảng trống giữa các nọc tiêu
còn lớn nên có thể trồng xen những cây phủ đất chống xói mòn, rửa trôi, mặt
17
khác giữ ẩm, bổ sung lượng mùn cho đất và có sản phẩm tăng thu nhập gia
đình cải thiện đời sống (Lê Thanh Phong, 2011).
Các loại cây trồng xen có hiệu quả hiện nay gồm các loại cây như đậu
xanh, đậu nành, các loại rau, cây phân xanh,…có tác dụng cải tạo đất vừa có
sản phẩm thu hoạch. Ngoài ra, các dư thừa thực vật sau khi thu hoạch có thể
dùng làm phân hữu cơ bón cho cây tiêu. Không trồng xen những cây có thân
cao, tán lá lớn, rễ phát triển khỏe cạnh tranh dinh dưỡng với tiêu và những loại
cây là ký chủ của các loại sâu bệnh hại tiêu.
1.7.4.8 Bón phân
Theo Lê Đức Niệm (2001), tiêu là cây trồng lâu năm, do đó cần một chế
độ bón phân thích hợp ngay từ khi mới trồng để có đủ dinh dưỡng, phát triển
nhanh, khỏe mạnh, cho năng suất cao và chống chịu các loại sâu bệnh. Tùy
từng thời điểm sinh trưởng và phát triển của cây tiêu cần các loại phân bón với
tỉ lệ khác nhau, nhưng quan trọng nhất là các loại phân vô cơ.
Bảng 1.1: Lượng phân bón cho cây tiêu hằng năm theo tuổi cây (Lê Thanh
Phong, 2011)
Năm thứ 1
Phân
chuồng
(kg/gốc)
10-15
Năm thứ 2
10-15
120
50
120
Năm thứ ≥ 3 (cho trái)
15-20
190
80
360
Tuổi cây
N
(g/gốc)
P2O5
(g/gốc)
K 2O
(g/gốc)
60
30
60
Theo Yap Chin Ann (2012), liều lượng phân tối ưu nhất bón cho tiêu
trong năm 1 là 62 N-10 P2O5-62 K2O-6 MgO-18 CaO kg/ha, năm thứ 2 là
237 N-22 P2O5-246 K2O-22 MgO-65 CaO kg/ha và năm thứ 3 trở đi là 390
N-62 P2O5-352 K2O-47 MgO-100 CaO kg/ha.
Theo Heenkende và ctv. (2011), ở Sri Lanka đã sử dụng với tỉ lệ
14:11:14:2 N, P2O5, K2O, MgO và khối lượng hỗn hợp 500 g trong năm
đầu tiên, 700 g trong năm thứ hai và 1.400 g trong năm thứ ba trở đi
trong hai lần bón. Trong các thí nghiệm phân bón dài hạn tiến hành trong
trung tâm nghiên cứu quốc gia, Matale cho thấy hỗn hợp phân bón 700 g
với tỉ lệ 14:11:14:2 N, P2O5, K2O, MgO là đủ để đáp ứng yêu cầu dinh
dưỡng của cây tiêu. Mặt khác, trong canh tác tiêu hữu cơ, không sử dụng
phân hóa học, thì hiệu quả của các loại phân gia cầm, phân gia súc và
phân xanh cũng khác nhau. Đối với phân gia súc 16 kg/nọc/năm và phân
gia cầm 12 kg/nọc/năm chia ra 2 lần bón thì năng suất đạt được trong
18
khoảng 1.200-1300 kg/ha, tốt hơn hết là phân xanh, một loại phân lấy từ
cây họ đậu, bón với liều lượng 10 kg/nọc/năm chia ra 4 lần bón thì năng
suất đạt được 1.500 kg/ha.
Cách bón:
- Năm thứ 1:
+ Bón lót toàn bộ phân hữu cơ vào hố trồng cộng với 50 g super lân.
+ Bón 1/3 lượng phân hóa học NPK sau khi trồng 1 tháng.
+ Bón 1/3 lượng phân hóa học sau khi trồng 2-3 tháng.
+ Bón 1/3 lượng phân hóa học vào cuối mùa mưa (tháng 11 dl).
- Năm thứ 2:
+ Bón toàn bộ phân hữu cơ và 1/2 lượng phân hóa học vào đầu mùa
mưa (tháng 5-6 dl).
+ Bón 1/2 lượng phân hóa học còn lại cuối mùa mưa (tháng 11 dl).
- Năm thứ 3:
+ Bón lót toàn bộ phân hữa cơ và 1/4 lượng phân hóa học hóa học sau
khi hái trái.
+ Bón 1/4 lượng phân hóa học để thúc mầm hoa, lúc tiêu sắp cho gié
hoa (tháng 5-6 dl).
+ Bón 1/4 lượng phân hóa học lúc trái non hình thành trên gié để giúp
gia tăng tỉ lệ đậu trái và phát triển trái non.
+ Bón 1/4 lượng phân hóa học còn lại để nuôi trái.
Cách bón phân chuồng: Xới đất chung quanh trong bán kính 50-100 cm,
sâu 5-10 cm, rãi đều phân chuồng, lấp đất lại, tránh làm tổn thương bộ rễ khi
xới đất.
Cách bón phân hóa học: Xới đất thành rãnh sâu 5-10 cm chung quanh
gốc, cách gốc khoảng 30-60 cm, rãi phân, lấp lại và tưới.
1.7.4.9 Tạo hình cho cây nọc sống
Mục đích của việc tạo hình cho cây nọc sống là:
- Kìm hãm sự sinh trưởng của cây nọc để hạn chế cạnh tranh nước và
dinh dưỡng với cây tiêu.
- Xén tỉa bớt cành lá để tránh gãy đổ, gió lay mạnh làm tiêu bị bung
rễ, tróc gốc trong mùa mưa bão.
- Giúp tăng ánh sáng cho tiêu quang hợp trong mùa mưa.
Thông thường trong một năm có thể xén tỉa tạo hình cho cây nọc hai lần:
19
- Lần 1: Tháng 8-9 dl, trước mùa mưa bão và trước khi tiêu ra tược
non, hoa. Dùng dao, kéo bén cắt bỏ cành cây nọc, chỉ để 1/3 số cành
để duy trì sự sống. Trường hợp cây nọc cao quá 5 m thì cắt hãm ngọn,
giữ chiều cao cây nọc khoảng 5-5.5 m.
- Lần 2: Tháng 12 dl, cắt tỉa bớt cành lá những cây nọc mọc rậm rạp
để tăng độ chiếu sáng cho cây tiêu quang hợp nuôi trái.
1.8 SÂU BỆNH HẠI CHÍNH TRÊN CÂY TIÊU
1.8.1 Sâu hại
* Rầy (Elasmognatus nepalensis): Chích hút hoa và lá non, sống ẩn nấp
ở dưới mặt lá. Rầy chích hút làm lá non bị vàng, gié hoa bị héo đen và rụng.
Rầy thường xuất hiện vào đầu và cuối mùa mưa. Ngoài rầy còn là tác nhân
lan truyền virus cho tiêu. Cách phòng trị là phun các loại thuốc như Tornado
10 EC, Cazinon 50 ND, nồng độ 10-15 cc/8 lít.
* Rệp sáp (Pseudococus sp.): Còn gọi là rầy bông trắng, có hình bầu
dục, trên thân có phủ sáp trắng xám mịn trong như các sợi bông gòn. Rầy
chích hút lá tiêu non làm cây phát triển kém. Ngoài ra bệnh bồ hóng cũng
thường phát triển trên chất bài tiết của rệp, do vậy cần kết hợp phun thuốc trừ
bệnh. Cách phòng trị là phun các loại thuốc như Supracide 40 ND, Tomado 10
EC, Bi 58 40 EC, nồng độ 10-15 cc/8 lít. Có thể pha thuốc với bột giặt (3
muỗng canh/8 lít) có tác dụng giúp thuốc dễ ngấm qua lớp sáp trên thân rệp.
* Bọ cánh cứng (Apogonia ranca): Thường xuất hiện vào ban đêm cắn
phá gié hoa và lá. Cách phòng trị: Phun các loại thuốc như Cazinon 50 ND,
Tomado 10 EC, nồng độ 10-15 cc/8 lít. Nên phun thuốc vào chiều tối, có thể
dùng Cazinon 10 H rãi vào gốc, liều lượng 50 g/gốc. Làm vệ sinh vườn, dọn
sạch cỏ dại và lá rụng để tránh nơi ẩn nấp.
1.8.2 Bệnh hại
* Bệnh chết dây: Còn gọi là bệnh héo nhanh, do nấm Phytophthora sp.
gây ra bệnh làm cây chết rất nhanh và chết hàng loạt, gây thiệt hại trầm trọng
trong các vườn tiêu. Bệnh thường xảy ra trong mùa mưa lúc trời nóng ẩm.
Cách phòng trị: Sử dụng chủng vi khuẩn PN-026 đối kháng với
Phytopthora từ vùng rễ tiêu, khi chăm sóc tránh làm tổn thương bộ rễ, thoát
nước vườn tốt nhất vào mùa mưa. Có thể phun các loại thuốc gốc đồng như
Kocide 61,4 DF, nồng độ 10-15 g/8 lít, Aliette 70 WP, hay Ridomil 70 WP,
nồng độ từ 20-30 g/8 lít, phun định kỳ 1-2 tuần/lần,…
20
* Bệnh vàng héo rũ: Bệnh do tuyến trùng gây ra đôi khi kết hợp với
thiếu dinh dưỡng. Cây bệnh trở nên suy yếu, cằn cỗi, lá vàng, chóp lá bị đen
dần và rụng. Rễ có nhiều bướu, mọc ít lại và ít đâm rễ nhánh. Năng suất tiêu
giảm rõ rệt và cuối cùng cây bị chết.
Cách phòng trị: Giữ vườn tiêu không bị úng, bón phân hữu cơ hằng năm,
có thể bón thêm vôi (0,5-1 tấn/ha) sau 1-2 năm để làm đất bớt chua. Sử dụng
Mocap, Cazinon 10 H rãi chung quanh gốc tiêu, liều lượng 50 g/gốc theo định
kỳ 3 tháng/lần.
* Bệnh thối đầu lá và đen trái: Bệnh gây ra chủ yếu do nấm
Colletotrichum sp. và một loại nấm khác như Fusarium sp. Trên lá già hay lá
trưởng thành bị cháy từ chóp lá trở vào, phần bị cháy có màu xám hay xám
trắng, bên trong có vòng đồng tâm, trong đó có những đốm nhỏ màu đen. Trên
gié trái xuất hiện những đốm đen làm đen trái, gié trái rụng sớm.
Cách phòng trị: Vườn trồng phải cao ráo, thoát nước tốt. Dùng các loại
thuốc như Curzate M8, Dithan M45 với nồng độ 30-35 g/8 lít phun trên cây có
bệnh hoặc dùng Curzate M8, nồng độ 15-20 g/8 lít phun ngừa vào đầu và cuối
mùa mưa.
* Bệnh tiêu điên: Bệnh do nhiều nguyên nhân gây nên như mất cân
bằng dinh dưỡng, do rệp và nhện đỏ chích hút nhựa hoặc có thể do vius gây ra.
Bệnh thường xảy ra trên vườn tiêu 1-2 tuổi, vườn được cắt ngọn nhân giống
nhiều lần trong các vườn tiêu bị thiếu nước hay bị nhiễm mặn trong mùa nắng.
Lá hay đọt non bị biến dạng, nhăn nhúm, phiến lá có nhiều vết màu xanh,
vàng và trắng nhạt.
Hình 1.4 Bệnh tiêu điên
Cách phòng trị: Nếu xem mặt dưới lá có nhện đỏ hay rệp dính thì sử
dụng một trong các loại thuốc như Supracide 40 ND, Danitol 10 EC, Comite
21
73 EC và Nissoran 5 EC với nồng độ 5-10 cc/8 lít để phun. Bón phân đầy đủ
và cân đối cho cây, có thể sử dụng phun thêm phân bón lá.
1.9 THU HOẠCH VÀ SƠ CHẾ TIÊU
1.9.1 Thu hoạch
Theo Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn Đăng Nghĩa (2010), sau khi trồng
được 2 năm thì tiêu bắt đầu cho hoa, tuy nhiên thường đến năm thứ 3 hay thứ
4 mới để quả. Từ khi ra bông (phát hoa) cho tới trái chín mất khoảng 9 tháng.
Thời gian thu hoạch ở Nam Bộ từ tháng 1-3 dl; ở Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế
tháng 5-6 dl.
Tiêu thường được thu hoạch nhiều lần, mỗi lần cách nhau khoảng 1-2
tuần. Thu hoạch khi quả còn non sẽ giảm năng suất và chất lượng hạt tiêu, nếu
làm tiêu đen thì có thể thu hoạch khi quả đã già nhưng vỏ vẫn còn xanh, làm
tiêu trắng (tiêu sọ) thì cần hái khi trên chùm đã có một số quả chín đỏ. Vào lần
thu hoạch cuối cùng tất cả các chùm trên cây được hái hết để làm tiêu đen.
Tuy nhiên có trường hợp hái tiêu còn non trước khi chín 2-3 tháng để
ướp chung thịt cá hoặc làm gia vị. Do tiêu non ít cay nên ăn cả quả chung với
thịt cá rất thơm ngon.
1.9.2 Sơ chế
Hạt tiêu thường được chế biến thành hai loại sản phẩm là tiêu đen và tiêu
sọ (tiêu trắng). Ngoài ra khi chế biến tiêu trắng người ta lựa những quả đã chín
để có loại tiêu phẩm chất cao hơn là tiêu đỏ và tiêu xanh số lượng không nhiều
để tiêu dùng đặc biệt, các cách chế biến tiêu nói chung.
Tiêu đen: Sau khi hái, các gié trái được chất thành đống ủ trong một
đêm sau đó đem ra phơi nắng 3-4 ngày, tiêu héo mặt và trở thành màu đen.
Đem đạp hay chà lấy hạt, xong phơi lại cho thật khô (ẩm độ còn 15%), vô bao
đem tồn trữ nơi thoáng mát, cao ráo. Cách khác để phơi hạt được nhanh là sau
khi tách hạt ra khỏi gié, đựng hạt trong rổ nhúng vào nước gần sôi (80-90 oC)
trong một chảo lớn khoảng 1 phút, xong để ráo, trải hạt đều ra phơi, hạt tiêu sẽ
mau khô và có màu đen bóng đẹp. Khoảng 100 kg tiêu tươi cho 30-35 kg tiêu
khô với ẩm độ 15%.
Tiêu sọ (tiêu trắng): Là mặt hàng tiêu xuất khẩu quan trọng ở một số
nước. Muốn chế biến tiêu trắng ta phải loại bỏ vỏ hạt tiêu bằng cách ngâm
nước và chà sạch. Chế biến tiêu sọ người ta chọn những hạt tiêu đen tốt (sau
khi đã phơi 3-4 ngày) cho vào bao tải ngâm trong dòng nước chảy nhẹ hoặc bể
nước trong khoảng 10-15 ngày, trong thời gian ngâm cần thay nước thường
xuyên cho tiêu được trắng. Ngâm tiêu khoảng 10-15 ngày. Phần vỏ tiêu lúc
22
này đã nứt ra khỏi hạt, bỏ tiêu vào thùng nước chà đạp cho tróc hết vỏ, xong
đãi và rửa sạch, đem phơi khoảng 12 giờ cho tiêu khô có ẩm độ còn khoảng
11-15% rồi đóng gói. Khi đạp vỏ có thể cho thêm một ít phèn chua vào nước
để hạt được trắng thêm. Khoảng 100 kg tiêu đen cho 70 kg tiêu sọ. Có thể hái
tiêu chín đem ngâm không cần phơi khô sẽ có tiêu sọ. 100 kg tiêu chín sẽ cho
28 kg tiêu sọ.
Tiêu đỏ: Được chế biến tương tự tiêu sọ nhưng được chế biến từ những
hạt đã chín đỏ. Khi thu hoạch lựa riêng những hạt đã chín đỏ trên gié, xong
đem chà bỏ vỏ hạt trong nước, rồi đem phơi khô. Cách chế biến khác với tiêu
trắng là không ngâm nước cho tróc vỏ. Đây là loại tiêu có phẩm chất cao vì
gồm những hạt đã chín đỏ, no tròn. Loại tiêu này thường được chế biến với số
lượng ít, không phổ biến trong tiêu thụ. Khoảng 100 kg tiêu chín cho 50 kg
tiêu đỏ.
Tiêu xanh: Thế giới hiện nay xuất khẩu khoảng 2.000 tấn tiêu xanh, đây
là loại tiêu khi hái trái vẫn còn xanh, trước khi chín khoảng 2-3 tháng. Tiêu
xanh dùng làm gia vị ướp thịt, cá,… rất thơm ngon. Ngoài ra có thể ngâm
giấm để làm dưa ăn rất lâu. Tiêu xanh đóng hộp trong nước muối rất nổi tiếng
ở Brazil, Madagascar và Ấn Độ.
23
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM ĐIỀU TRA
Thời gian: Tổ chức điều tra trong ngày 15/03/2015.
Địa điểm: Xã Cửa Dương, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Đối tượng điều tra: Cây tiêu.
2.2 PHƯƠNG TIỆN ĐIỀU TRA
Phiếu điều tra kỹ thuật canh tác cây tiêu.
Máy ảnh, sổ ghi chép, …
2.3 PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA
Điều tra ngẫu nhiên bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp các nhà vườn
theo mẫu phiếu điều tra in sẵn.
Ra vườn ghi nhận hình ảnh, tham quan thực tế tình hình sản xuất cũng
như thiết kế vườn của các hộ nông dân.
24
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Vùng điều tra trồng tiêu là vùng đất đỏ bazan thoát thủy tốt, lượng mưa
lớn 3.000 mm/năm, đây là điều kiện thuận lợi cho cây tiêu sinh trưởng và phát
triển. Bên cạnh đó người dân nơi đây cũng gặp không ít khó khăn trong sản
xuất do sự phân bố mưa khá khắc nghiệt, mùa khô đòi hỏi tưới nước liên tục.
3.2 THÔNG TIN VƯỜN HỘ
3.2.1 Diện tích vườn
Diện tích trồng tiêu của các hộ tương đối nhiều, trung bình 8.000 m2 (lớn
nhất 30.000 m2, nhỏ nhất là 1.000 m2). Nông dân trồng tiêu theo kiểu độc
canh, không xen canh loại cây nào trong vườn tiêu của mình.
Hình 3.1 Biểu đồ diện tích canh tác tiêu tại xã Cửa Dương, huyện Phú Quốc,
tỉnh Kiên Giang
3.2.2 Giống và tuổi cây
Theo kết quả điều tra, 100% hộ dân ở đây trồng giống tiêu Hà Tiên. Qua
khảo sát nhóm nhận thấy, tiêu các hộ trồng thuộc nhóm tiêu lá nhỏ, chiều dài
lá 10-12 cm rộng lá 4,5-5 cm (Lê Thanh Phong, 2011). Tiêu ở các vườn hộ có
các độ tuổi khác nhau, từ 1-15 năm tuổi, có 62,5% hộ trồng tiêu từ 5 tuổi trở
lên. Mặt khác, người dân cũng có nhiều kinh nghiệm trong kỹ thuật canh tác
tiêu.
3.3 CHỌN NỌC TIÊU
Theo điều tra có đến 93,75% hộ trồng tiêu sử dụng nọc chết như làu táu,
ổi rừng, sơn trà,… Lý do quan trọng khiến cho người dân nơi đây lựa chọn sử
dụng nọc chết đó là không cạnh tranh nước, dinh dưỡng với cây tiêu và rễ tiêu
dễ bám lên nọc. Nọc chết các hộ sử dụng đều là các cây gỗ tốt với thời gian
mục lâu, tuổi thọ từ 10-15 năm, theo các nhà vườn thì có thể lên đến 20 năm.
Việc sử dụng nọc chết tốt với tuổi thọ cao giúp hạn chế thay nọc thường xuyên
nêm không gây ảnh hưởng nhiều đến bộ rễ của tiêu, làm cho cây tiêu nơi đây
sinh trưởng và phát triển tốt. Nhìn chung chiều cao nọc ở đây dao động từ 3,54,5 m với độ sâu chôn nọc khoảng 0,5-0,8 m. Việc làm này phù hợp với điều
kiện tự nhiên của địa phương và nghiên cứu của Lê Thanh Phong (2011).
Ngoài ra, có 6,25% hộ được điều tra trồng tiêu trên cột xi-măng hình
vuông với kích thước 10 cm. Việc trồng tiêu trên cột xi-măng rất tốt, bền và
vững chắc nhưng cần chú ý trong việc che mát cho tiêu vì cột xi-măng trong
25