Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TÌM HIỂU CHUNG VỀ HOA HỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 19 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
TÌM HIỂU VỀ HOA HỒNG
I.

NGUỒN GỐC, ĐẶC ĐIỂM CỦA CÂY HOA HỒNG



Người ta cho rằng hoa hồng có nguồn gốc từ cây tầm xuân- có từ kỷ Đệ Tam
cách đây 3,5 - 7 triệu năm, chủ yếu phân bố ở các vùng ôn đới Bắc Bán Cầu.



Cây hoa hồng (Rosa sp.) là cây thuộc lớp 2 lá mầm (Dicotyledoneae), lớp phụ
hoa hồng (Rosidae), bộ hoa hồng (Rosales), họ hoa hồng (Rosaceae Juss), họ
phụ hoa hồng (Rosoideae), chi hoa hồng: Rosa L. Theo Peter Beales (1990), và
Võ Văn Chi (2003), chi Rosa có 4 chi phụ là: Hulthemia; Rosa (Eurosa);
Platyrhodon và Hesperhodon Trong đó chi phụ Rosa (Eurosa) là lớn nhất và
chia ra 10 nhóm loài và loài lai.



Rễ hồng thuộc loại rễ chùm,
phân nhánh mạnh, phân bố nông
trên lớp đấtt mặt từ 5 - 30cm. Bộ
hoa hồng không chịu được ngập
úng, ưa đất ẩm, song phải thông
thoáng, thoát nước.

rễ




Hoa hồng thuộc loại thân gỗ,
dạng cây bụi hoặc cây leo, đa số
các loài hoa hồng đều có thân
rỗng ở giữa, khi thân đã hoá gỗ.
Cây hoa hồng có khả năng phân
cành rất mạnh, trên thân có gai
hoặc không có gai.



Lá hoa hồng có dạng kép lông
chim với 3, 5, 7, 9, 11, 13 lá chét
và có đính lá kèm ở gốc; lá chét có răng cưa ở mép lá và thường có những gai
nhỏ ở trên gân lá. Chiều dài lá của hầu hết các loài hoa hồng là từ 5-15cm. Tuỳ
theo giống mà lá có màu sắc xanh đậm hay xanh nhạt, răng cưa nông hay sâu



Gai hoa hồng giống như hình dáng của cái móc câu. Gai hoa hồng thường là
một gai hoặc bụi gai. Một số loài như Rosa rugosa và Rosa pimpinellifolia có
mật độ gai dầy, nhọn sắc
Page 1




Gai giúp cho cây hoa hồng có khả năng chống chịu tốt với côn trùng, đồng thời
thích nghi với điều kiện hạn

hán.



Hoa hồng thuộc loại hoa
lưỡng tính, nhị và nhụy trên
cùng một hoa. Khi phấn
chín rơi trên đầu nhụy nên
có thể tự thụ phấn. Một số
loại nhị trắng hơn nhụy hoặc
nhị bị tiêu biến (bất dục
đực), đế hoa có màu xanh



Cây hoa hồng thường có hoa
khá lớn, hoa lưỡng tính, phân hóa đài hoa rõ rệt. Nhị hoa xếp nhiều vòng, tâm
bì nhiều, rời nhau và cùng đính trên 1 đế chung. Hoa thức của họ phụ hoa hồng
Rosoideae là K4-5 C5 A4∞
G ∞..



Quả hoa hồng là quả hạch,
thường gọi là rose hip.
Quả của hầu hết các loài
hoa hồng đều có màu đỏ.
Quả hoa hồng là quả hạch,
thường gọi là rose hip.
Quả của hầu hết các loài

hoa hồng đều có màu đỏ

Page 2


Đặc điểm sinh thái


Nhiệt độ là yếu tố quan trọng quyết định đến sự sinh trưởng phát triển của cây
hoa hồng. Nhiệt độ ảnh hưởng đến sự ra hoa và nở hoa, ảnh hưởng đến quang
hợp, hô hấp, sự tạo thành các sản phẩm trao đổi chất, đặc biệt là sắc tố. Nhiệt
độ thích hợp cho cây hoa hồng 18-23,90C.



Ánh sáng là điều kiện cần thiết cho sự sinh trưởng, phát triển của cây hoa nói
chung và hoa hồng nói riêng. Ánh sáng cung cấp năng lượng cho phản ứng
quang hợp, tạo ra chất hữu cơ cho cây.



Độ ẩm của không khí và đất đều ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát triển của
cây hoa. Độ ẩm thích hợp thì cây hoa sinh trưởng, phát triển tốt ít sâu bệnh,
hoa đẹp, chất lượng hoa cao.



Đất là một yếu tố môi trường quan trọng nhất, là nơi nâng đỡ cây trồng, cung
cấp nước, dinh dưỡng cơ bản và không khí cho sự sống của cây hoa.


Page 3


II.

Tình hình sản xuất hoa hồng trên thế giới và ở Việt Nam

Trên thế giới:


Theo Hiệp hội Hoa Hà Lan: 5 nước sản xuất hoa đứng đầu thế giới năm 2004
là Mỹ, Hà Lan, Đức, Pháp và Italy. Tuy nhiên, ngoại trừ Đức các nước này
cũng nằm trong 10 nước đứng đầu về nhập khẩu hoa. Những năm gần đây, sản
xuất hoa cắt đang tăng dần ở các nước đang phát triển.



Hiệu quả kinh tế của việc sản xuất hoa hồng mang lại rất lớn nên các quốc gia
trên thế giới đang ngày càng chú ý và đầu tư vào ngành sản xuất hoa nói chung
và sản xuất hoa hồng nói riêng. Chính vì vậy, diện tích, năng suất và sản lượng
hoa hồng không ngừng được tăng lên.

Ở Việt Nam


Những năm gần đây, do nhu cầu tiêu thụ tại thị trường trong nước và xuất
khẩu tăng, nên sản xuất hoa đã mang lại thu nhập khá cao cho nhiều hộ trồng
hoa trên cả nước. Diện tích trồng hoa của một số thành phố lớn là: Hà Nội
1666 ha, Vĩnh Phúc 450 ha, Lâm Đồng 2027 ha…




Những năm gần đây, do nhu cầu tiêu thụ tại thị trường trong nước và xuất
khẩu tăng, nên sản xuất hoa đã mang lại thu nhập khá cao cho nhiều hộ trồng
hoa trên cả nước. Diện tích trồng hoa của một số thành phố lớn là: Hà Nội
1666 ha, Vĩnh Phúc 450 ha, Lâm Đồng 2027 ha…



Trong diện tích gần 136 ha trồng hoa của vùng Trung du và miền núi phía Bắc,
diện tích trồng hoa hồng chiếm tới trên 55,27 với sản lượng 26,53 triệu
bông/năm.



Page 4


III.

Những nghiên cứu trong và ngoài nước.

Nghiên cứu trên thê giới:


Nghiên cứu chọn giống hoa hồng bằng phương pháp: lai hữu tính, gây đột
biến, chuyển gen,…




Nghiên cứu về nhân giống vô tính hoa hồng bằng phương pháp: giâm cành,
chiết, ghép, nuôi cấy mô

Những nghiên cứu về hoa hồng ở Việt Nam:
Những nghiên về thu thập và bảo tồn nguồn gen hoa hồng ở miền Bắc Việt Nam của
các tác giả Nguyễn Xuân Linh và cộng sự (1988)
- Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống hoa hồng đã được thực hiện ở các viện như Viện
nghiên cứu Rau quả, Viện Di truyền Nông nghiệ. Tuy nhiên chủ yếu đi theo hướng
nhập nội nguồn gen về tuyển chọn, tạo ra những giống có khả năng thích nghi tốt với
điều kiện sinh thái Việt Nam. Công việc này không đòi hỏi nhiều công sức, nhưng
tính chủ động không cao.
- Năm 2006-2008 Viện Di truyền Nông nghiệp đã nghiên cứu chọn tạo giống hoa
hồng mới bằng kỹ thuật chiếu xạ gây đột biến trong điều kiện invitro đã xác định
được liều chiếu xạ 0,5 krad ở giai đoạn callus hoa hồng có tần số đột biến màu sắc
lớn nhất.


Dương Công Kiên khi lai hai giống hoa hồng nhung sậm và hoa hồng nhung
khói đã chọn được 1 cây hoa hồng tím, ghép mắt hồng mới vào gốc hồng dại
cây đã phát triển tốt trong khí hậu nóng tại thành phố Hồ Chí Minh và nở nhiều
bông hơn.
=> Tóm lại, công tác nghiên cứu thu thập, đánh giá và chọn tạo giống hoa hồng
ở Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cần coi tong hơn nữa công tác nghiên cứu để
tạo ra nhiều giống mới phù hợp có năng suất, chất lượng cao, làm phong phú
thêm bộ giống hoa hồng cho các vùng sinh thái khác nhau để ngành trồng hoa,
trong đó có hoa hồng đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế Quốc dân.

Page 5



IV.

Một số phương pháp nhân giống hoa hồng

1. Phương pháp nuôi cấy mô ( nuôi cấy in vitro)
Nó làm hoa hồng tăng thêm về số lượng lẫn chất lượng ( sạch bệnh). Điều quan
trọng, phương pháp này là sản xuất ra một lượng trong thời gian ngắn, cây sạch bệnh
và trồng được quanh năm.
Các giai đoạn nhân giống in vitro:
Giai đoạn 1: Khử trùng mô cấy
Giai đoạn 2: Tái sinh mô nuôi cấy
Giai đoạn 3: Nhân nhanh chồi
Giai đoạn 4: Tạo cây hoàn chỉnh
Giai đoạn 5: Đưa cây ra đất

Page 6


2. Phương pháp chiết cành:
Phương pháp chiết cành được áp dụng cách đây rất lâu, nhằm nhân giống những cây
khó giâm cành. Phương pháp này cũng giống như phương pháp giâm cành, nó không
làm hại cây mẹ mà còn thúc đẩy cây mẹ phát triển khi cắt nhánh này. Các chồi khỏe
mạnh sẽ phát triển ở dưới vị trí chiết.

Cách tiến hành:


Chọn nhánh xanh, cỡ
bằng cây bút chì. Để cho
an toàn, cắt bỏ hết gai, lá

và các nhánh con.



Khoảng 0,5cm bên dưới
đốt lá, cắt vòng quanh
thân và cắt thêm vòng
nữa nữa ở bên dưới vị trí
đó khoảng 2 cm. Sau đó
lấy đi phần vỏ ở giữa 2
vị trí đó.



Dùng dao nhọn để bóc
hết vỏ và phần mô màu
xanh nếu không nó sẽ ảnh hưởng đến sự ra rễ.



Bôi thuốc kích thích ra rễ vào vết thương



Lấy bọc nilon, gấp nếp vòng qua thân để tạo thành dạng túi. Lấy dây cột bọc
nilon lại, cách vị trí cắt bên dưới khoảng 1,2cm ( không quá chặt để cây phát
triển)




Mở rộng cái túi ra để dễ dàng đặt chất trồng ( không quá ẩm ướt) vào, cách 2
đầu vị trí cắt 1,5cm. Cột chặt túi nhưng không quá chặt để cây phát triển.



Kiểm tra túi định kỳ. Phần lớn hoa hồng cho ra rễ trắng khoảng sau 21 ngày

Page 7


3. phương pháp giâm cành


Giâm cành là lấy một đọan thân từ cây mẹ cắm xuống đất từ đó đoạn thân này
phát triển thành rễ mới và tạo thành một cây mới. Cây giâm cành có đặc tính
giống hòan toàn cây mẹ.



Có thể nhân giống ở mọi thời điểm, nhưng tốt nhất là từ tháng 2-4 và từ tháng
8 – 10, thời điểm này cành giâm mau ra rễ và tỉ lệ sống cao.



Giá thể tốt nhất để giâm cành hồng là hỗn hợp 2 tro trấu + 1 phân hữu cơ
( phân bò hoai mục hoặc phân trùn quế)

Cách cắt cành giâm
- Cành hồng dùng để nhân giống là cành bánh tẻ, không quá già hoặc quá non, tốt
nhất là lọai cành đang ở giai đoạn mang hoa.

- Trên một cành đã chọn để giâm chỉ nên lấy đọan giữa cuả cành không nên lấy đoạn
ngọn và gốc.
- Cành cắt để giâm có chiều dài từ 8-10 cm trên đọan cành có từ 1-3 mắt, tốt nhất là 2
mắt. Khi cắt cành nên cắt vát một góc khoảng 30o . Phải dùng kéo cắt không để vết
cắt bị dập nát. Trên đoạn cành nên giữ lại từ 2-3 lá chét ở cuống lá mắt trên.
Cách pha chế, nhúng thuốc và giâm cành.
Hồng là lọai cây thân gỗ, tương đối khó ra rễ, vì vậy muốn kích thích cành giâm ra rễ
nhanh ta dùng 1 trong 2 loại thuốc điều tiết sinh trưởng là IAA và NAA nồng độ từ
2.000 – 2.500 ppm. Để tiện dùng hơn ta có thể sử dụng các loại thuốc kích thích ra rễ
như Atonik, N3M, Supper Root…sau khi cắt cành xong ta đem cành giâm nhúng
nhanh vào dung dịch thuốc kích rễ rồi cắm vào gía thể. Chú ý nên cắm cành thẳng
đứng, cắm sâu từ 1-1,5cm, cần cắm cành giâm ngay ngắn không để ngã nghiêng.
Khoảng cách các cành giâm từ 4-5 cm.

Page 8


V.

Kỹ thuật trồng, chăm sóc hoa hồng

1.

Chuẩn bị đất



Vệ sinh đồng ruộng sạch, xử lý cỏ dại, nhặt các gốc cây rễ cây trên ruộng. Sau
đó cày sâu 45 – 50 cm, bừa kỹ 2 - lần, bón vôi cải tạo độ chua của đất kết hợp
bón lót phân chuồng.




Đánh luống: Mặt luống + rãnh: 1,3m (rãnh 30cm). Luống hình chóp nón, cao
từ 25-30 cm, thoát nước tốt, tránh bị ngập úng.

2.

Kỹ thuật trồng hoa hồng



Khoảng cách trồng: cây cách cây 20 – 30 cm, hàng cách hàng 50 cm. Trồng
cây giống thẳng đứng, nên trồng theo kiểu nanh sấu.



Khi trồng tay trái giữ cây, tay phải lấp đất nhẹ vào xung quanh gốc, ấn nhẹ tay
cho cây đứng, tránh làm đứt rễ cây, không để phân tiếp xúc với đất. Trồng
xong tới thật đẫm nước.

3.

Chăm sóc hoa hồng



Hoa hồng rất ưa phân hữu cơ, sau khi trồng 1 – 2 tháng là phải tưới phân cho
cây. Có thể dùng phân hữu cơ ngâm ủ với phân vi sinh




Lượng phân sử dụng cho 1000m2



Phân chuồng: 10m3, vôi 200 kg



Lân: 40 -50 kg



Ure: 26 - 30kg



KCl: 30 kg



Phân vi sinh: 280 - 300 kg



Ngoài ra còn dùng một số phân bón vi lượng phun qua lá để bổ sung thêm dinh
dưỡng cho cây hoa.

Cách bón:



Bón lót: toàn bộ phân chuồng, lân, phân vi sinh
Page 9




Bón thúc: 2 tuần bón một lần

+ Lần 1: 1/5 kg Ure + 1/5kg KCl
+ Lần 2: 1/5 kg Ure + 1/ 5 kg KCl
+ Lần 3: 1/6 kg Ure + 2/5kg KCl
+ Lần 4: lượng Ure và KCl còn lại


Ngoài ra định kỳ hàng tháng bổ sung 1 lần phun vi lượng



Với cây hoa hồng có chu kỳ sinh trưởng kéo dài nhiều năm nên hàng năm phải
bón phân chuồng, phân vi sinh, lân, vôi để bổ sung dinh dưỡng cho cây.

Kỹ thuật tưới nước
Có 2 phương pháp tưới: Tưới nước ngập rãnh tức là bơm nước vào 2/3 các rãnh để 2
tiếng đồng hồ sau đó rút hết nước hoặc tưới bằng vòi bơm vào mặt luống giữa 2 hàng
cây, tránh bắn nước nhiều lên bộ lá và nụ sẽ tạo điều kiện cho nấm bệnh lan truyền.
Nếu tưới bằng vòi bơm thì giữa 2 hàng cây ta tạo ra 1 rãnh nhỏ để khi tưới nước và
phân không chảy ra ngoài.
Kỹ thuật bấm ngọn, vít cành điều tiết sinh trưởng



Phương pháp bấm ngọn, vít cành ta có thể đạt được 3 mục đích sau:



Làm tăng năng suất từ 3 – 4 lần (có thể thu từ 7 - 9 bông/1gốc/lần thu).



Tăng chất lượng cành hoa (chiều dài cành hoa > 70 cm)



Điều khiển ra hoa theo ý muốn

Lưu ý: Vít cành chỉ áp dụng đối với cây giâm

Page
10


Kỹ thuật bao hoa trên đồng ruộng
Mục đích: Để tránh côn trùng và
các tác động của môi trường xung
quanh, đồng thời giữ hoa nhanh nở
trong vài ngày. Có 2 cách bao hoa
là bao bằng giấy báo (cắt 1 mảnh
giấy báo quấn quanh bông hoa và
buộc hoặc dán lại) và bao bằng lưới

bao có sẵn.

Kỹ thuật thu hoạch và bảo quản


Hoa hồng thu hoạch khi hoa có cánh ngoài vừa hé nở, nên thu vào buổi sáng
sớm hoặc chiều mát lúc cây còn sung nhựa, nhiều nước, thì cành hoa thu mới
bền và lâu tàn, trước khi cắt Hoa nên tưới nhiều nước. Cắt cách gốc cành chừa
lại 3 lá, phần cành hồng còn lại sẽ cho 3 chồi mới, ta chỉ chọn 1-2 chồi khỏe
cho ra hoa tiếp tục.



Sau khi cắt hoa nhúng ngay vào thùng nước có chứa chất khử Etylen khoảng
30 phút, sau đó ngâm vào thùng chứa dung dịch dinh dưỡng cho hoa no
khoảng 1 – 3 giờ, nếu có điều kiện thì bảo quản trong kho lạnh, còn không thì
phải để hoa ở chõ thoáng mát, sạch sẽ và đóng gói trước khi vận chuyển đi xa.
Có như vậy thì hoa cắm mới bền và các nụ hoa sẽ nở hết, không có hiện tượng
nụ ngủ.

Page
11


VI.

Sâu bệnh hại và các biện pháp phòng trừ

Sâu:
Trên cây hoa hồng phổ biến nhất là nhện đỏ, sâu xanh, rầy. Dùng thuốc Polytrin,

Sherpa, Karate, Actara, Supracide, Commite…
Bệnh:
a) Bệnh đốm đen (Black spot).


Là bệnh khó trị, bệnh lan rộng nhanh lúc khí hậu ẩm ướt sau các trận mưa vào
mùa thu. Lúc đầu là những chấm nâu, về sau chuyển thành đen xuất hiện trên
các bề mặt lá những chấm này
tròn hoặc không đều làm cho
lá cây rụng sớm dần, các chồi
non cũng bị lây bệnh. Giai
đoạn từ 6 đến 14 ngày sau khi
trồng rất dễ nhiễm bệnh này



Nguyên nhân: do nấm
Marssonina rosae Lib. Thuộc
nấm bất toàn, nhiệt độ thích
hợp nhất từ 22-26⁰C, ẩm độ
>85%. nấm tồn tại trong đất
và lan truyền qua các hoạt
động khác của con người.



Phòng trừ: làm vệ sinh xung quanh vườn, tránh đọng nước lại trên lá, nên tưới
vào buổi sáng nắng.




Đốt hủy lá bệnh, lá già gần mặt đất.



Trồng một số giống kháng như: David Thompson, bebe Lum, Odorata…



Phun thuốc Anvil, Benomyl, Topsin M, Folpet, Maneb… định kỳ một tuần/lần.

Page
12


b. Bệnh rỉ sắt (Rust).


Hại trên lá, ban đầu là những chấm nhỏ vàng trong hoặc màu nâu, về sau các ô
này có màu vàng cam hơi đỏ, hại mặt dưới lá, ổ bệnh che phủ toàn bộ mặt dưới
lá đôi khi là những mụn riêng lẻ.
Giai đoạn bào tử có hại có màu đỏ
cam tồn tại 10-14 ngày trong điều
kiện môi trường thuận lợi, đôi khi
hại cả hoa.



Nguyên nhân: do nấm
Phragmidium mucronatum. Bào tử

lan truyền tỏng không khí, trên tàn
dư cây bệnh còn sót lại, nhiệt độ
cho nấm phát triển là 18-21 oC.



Phòng trừ: thu dọn tàn dư lá bệnh
đem đốt. Tưới nước vừa phải. Phun thuốc Plantvax, Bavistin, Zinneb, Topsin
M….

c. Bệnh phấn trắng (Downy mildew).


Hại lá, thân, cuống hoa, đài hoa và cánh hoa, trên những phần non của cây
đang tăng trưởng, phủ một lớp nấm trắng như bột làm cho lá bị khô héo và
rụng hàng loạt.



Nguyên nhân: Peronospora
sparsa.



Nấm thích hợp ở ẩm độ 85%,
nhiệt độ 18oC, nếu nhiệt độ
27 oC nấm sẽ chết sau 24 giờ.




Phòng trừ: dùng thuốc
Kasuran, Derosal, Ridomil…
rất hiệu quả.



Cắt hủy cành lá bị bệnh, bón K tăng sức chống chịu cho cây.

d. Bệnh héo Verticillium.

Page
13


Trên các ngọn bị héo nhưng vẫn còn xanh, các lá thấp dưới bị vàng, ban đêm có thể
hồi phục nhưng sau vài ngày cả phần ngọn cũng chuyển sang màu vàng sau cùng là
màu nâu, tàn úa và chết,
thường bắt đầu chết từ ngọn đi
xuống. Trên hoa bị những vệt
đen dọc theo chiều dài của
cánh hoa
Bệnh hại nặng trong mùa hè
thời tiết bị khô hạn, hoa hồng
trồng ngoài trời ít bị bệnh này
hơn hoa hồng được trồng trong
nhà kính.

khi




Nguyên nhân: do nấm
Verticillium albo-atrum
Berth, bào tử đính là một
tế
bào trong suốt có dạng
hình cầu được đính trên
các
cành bào tử phân sinh. Nấm này truyền được qua các mô, mắt ghép trong quá
trình cấy mô.



Các giống mẫn cảm bệnh là: Rose odanata, Ragged Robin.



Các giống rất kháng bệnh là: Rose Multiflora, Rose Manetti.



Phòng trừ: do nguồn bệnh tồn tại trong đất rất lâu nên trước khi trồng cần khử
trùng bằng hóa chất như formol 3% hoặc bằng một số thuốc trừ sâu như
Basudin… Tuy nhiên bệnh này rất khó phòng trừ cho hoa hồng trồng ngoài
đồng với diện tích lớn.

Page
14



e. Bệnh chết khô.


Cây bệnh nụ không nở được, bên ngoài phủ một lớp nấm màu xám nâu làm
cho nụ hoa bị gẫy gục xuống, bên trong nụ bị rỗng., mong manh, yếu ớt. Khi
bệnh nặng các vết bệnh lan dần xuống cuống làm có màu thâm tím.



Trên hoa xuất hiện những
nhỏ có màu nâu, mọc
lẻ hay liên kết lại với
thành đám phồng lên, các
giống hoa có màu trắng
dễ bị hại (hoa bị khô
cháy).

đốm
riêng
nhau

Bệnh lây nhiễm qua vết
vết thương trong khi
chăm sóc, tỉa cành. Khi
kiện môi trường thuận lợi
hại cả thân cây làm cây bị
gãy hoặc thân cây bị sần

cắt,




rất

điều
thì
đổ
sùi.



Nguyên nhân: do nấm
Botrytis cinerea Pers ex Fr. Nhiệt độ thích hợp cho nấm phát triển là 15 0C.



Phòng trừ: cắt bỏ và tiêu hủy các bộ phận bị bệnh như nụ, hoa, cuống, thân.



Dùng một số thuốc hóa học Kasuran, Daconil, Carbenzim… định kỳ 1
tuần/lần.

Page
15


f. Bệnh thán thư (Spot anthracnose).



Thường hại trên lá hoa hồng nhất là hồng dại, ban đầu trên lá có những đốm
lưa thưa hoặc hợp lại thành đám bắt đầu từ rìa mép lá lan vào bên trong theo
đường vòng cung nên vết bệnh cuối cùng có hình bán nguyệt, nếu bị bệnh ở
giữa phiến lá thì vết bệnh có
hình tròn, màu nâu
xung quanh viền màu nâu đỏ,
trên vết bệnh hình
thành các điểm đen nhỏ liti đó
là đĩa cành của
nấm gây bệnh. Khi bệnh nặng
các mô bệnh khô
chết làm rách lá nên mép lá bị
bệnh có thể bị
khuyết



Trên thân, cành bị bệnh cũng
hồng, sau chuyển qua màu nâu,
yếu dễ gãy.

có vết nứt dọc màu
cành bị bệnh suy



Trên hoa và đài cũng có thể bị
hơn.

bệnh nhưng ít gặp




Bệnh gây hại nặng vào mùa
thấp, ẩm độ cao, bào từ lan
tưới.

xuân, nhiệt độ
truyền nhờ nước



Nguyên nhân: do nấm Sphaceloma rosarum (Pass)(Elsinoe rosarum).



Phòng trừ: khi xuất hiện bệnh phải giảm lượng nước tưới, tránh để nước đọng
trên lá. Thu dọn các bộ phận bị hại. Phun thuốc hóa học theo định kỳ từ 1-2
tuần/lần tùy mức độ cây bị hại. Có thể sử dụng các loại thuốc: Anthracol,
Score, Carbenzim….

Page
16


g. Bệnh đốm lá: do rất nhiều nguyên nhân.


Do nấm Alternaria alternata: Thường gây hại nặng trong mùa mưa, ban đầu
trên lá xuất hiện những đốm tròn có màu vàng nâu sau chuyển sang nâu sậm,

các vết đốm này lan rộng theo các đường đồng tâm, trên có đính những chấm
đen nhỏ liti. Đôi khi hại cả trên nụ hoa và hoa, nhiệt độ thích hợp cho nấm phát
triển là 30oC.



Do nấm Cercospora puderi B. H. Davis: vết bệnh lớn có kích thước lên tới
5mm, trung tâm vết bệnh có màu xám nâu xung quanh viền nâu đỏ, nấm gây
hại chủ yếu trên mặt lá ở những nơi rậm rạp.



Do nấm Colletotrichum capsici (Syd)Butl Bisby: Vết bệnh ban đầu là những
chấm nhỏ có màu nâu, về sau lan rộng có màu nâu nhạt, nhiều vết bệnh tập hợp
lại thành mảng phủ đầy trên mặt lá làm cho lá bị khô rách và rụng sớm.

h. Bệnh do tuyến trùng.


Bệnh hại do tuyến trùng thể hiện một phần trên lá làm giảm sức sống, lá nhỏ
còi cọc và ngắn, rất dễ rụng, chất lượng hoa giảm, hoa ít. Thân cây vươn dài,
hoa nhỏ, rễ rất dễ mẫn cảm với các loại vi sinh vật gây bệnh khác.



Ngoài ra còn có nhiều triệu chứng khác có thể xảy ra do tuyến trùng hại rễ và
phụ thuộc vào loài và số lượng tuyến trùng ký sinh trong đất.




Tuyến trùng có thể tồn tại trong đất, rễ cây (trong nhà kính và ngoài đồng) do
đó có thể sử dụng thuốc xông hơi (Metyl bromide), thuốc trừ tuyến trùng
(Oncol, Vimoca, Furadan, Nemacur…) để trừ nguồn tuyến trùng trong đất
trước khi trồng cây hoặc có thể xử lý bằng hệ thống nước nóng khoảng 38oC
trong 24 giờ hoặc có thể xử lý bằng nhiệt độ 48oC trong 35 phút.

Page
17


i. Bệnh do virus.


Bệnh hoa lá (Tobaco Mosaic Virus – TMV):cây bệnh thân ngắn, lá có màu
loang lổ từng đám, chỗ xanh xen lẫn chỗ vàng, phiến lá dày, mỏng không đều
có thể bị biến dạng, đưa lá bệnh lên ánh sáng thấy gây lá mất màu, nhợt nhạt,
thịt lá xanh vàng



Bệnh xoăn lá
(Cucumber Mosaic
Virus – CMV): trên lá
có những đốm đậm
nhạt loang lổ, lá
chuyển qua màu vàng
xanh đậm, cây phát
triển yếu, xác đốt
ngắn lại, cây bị bệnh
hoa ít, dễ rụng, bệnh

nặng làm cho các lá
đỉnh mầm non bị xoắn
lại, bệnh nhẹ thì trên
có những đám xanh
đậm nhạt xen kẽ nhau
nên gọi là hoa lá





Phòng trừ: rầy Aphids là môi giới truyền bệnh CMV nên phải phun thuốc để
diệt đối tượng này bằng cách loại thuốc hóa học như Bassa, Supracide,
trebon… Vệ sinh vườn sạch, thoáng, diệt cỏ dại xung quanh vườn. Giảm số lần
tưới khi cây bị bệnh.

Page
18


j. Bệnh do vi khuẩn.


Bệnh sùi cành (Crown gall).



Hại trên lá, thân, cành nhất là
những cành non.




Cây bị bệnh cằn cỗi, lá có màu
xanh hoặc hơi vàng.



Các đốt thân ngắn lại tạo thành
những u sưng sần sùi, vỏ, thân,
cành nứt rạn nhiều khía chằng
chịt, bên trong gỗ nổi u, vết bệnh
có màu nâu, nhiều vết sần sùi có
thể chập lại liền nhau thành một
đoạn dài, có khi vết bệnh bao phủ
quanh cả cành, có khi chỉ một
phía làm dễ gãy, khô chết.



Nguyên nhân: do vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens. Nhiệt độ thích hợp cho
vi khuẩn phát triển là từ 210C-26 0C. Các giống hoa hồng Rosa multifloraa, R.
manetti, Bayse No3 rất mẫn cảm với bệnh này.



Phòng trừ: vệ sinh sạch sẽ nơi trồng. Huỷ bỏ những thân cây bị bệnh. Dùng
thuốc kháng sinh như: Streptomycine, Kasuran, Penicillium… và dùng Orthene
75S, Vydate 2L để trừ côn trùng môi giới truyền bệnh.

Page

19



×