Cán cân thương mại Việt Nam- Trung Quốc trong bối cảnh quốc
tế hóa Nhân dân tệ
TS. Phạm Thị Hoàng Anh1
Lương Thị Thu Hà2
Trong nhiều năm trở lại đây, nhập siêu của Việt Nam luôn ở mức cao, tỷ lệ thâm hụt thương
mại trên GDP lớn hơn nhiều so với nước khác trên thế giới. Đặc biệt phải kể đến tình trạng
nhập siêu ở mức báo động với Trung Quốc, đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam mất đi thế chủ
động, cân bằng kinh tế vĩ mô bị đe dọa. Hơn nữa, trước một nền kinh tế đang có tốc độ tăng
trưởng mạnh nhất thế giới như Trung Quốc hiện nay, giới chuyên gia đang đặt ra khả năng
Nhân dân tệ (CNY) trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế mới. Khi Trung Quốc quốc tế hóa CNY
thì Chính phủ sẽ phải thả nổi linh hoạt CNY. Và khi đó, một khả năng chắc chắn là đồng CNY
sẽ lên giá. Trong bối cảnh đó, cán cân thương mại Việt Nam- Trung Quốc sẽ đứng trước
những cơ hội và thách thức nào? Liệu tình trạng nhập siêu từ Trung Quốc có được cải thiện
hay không? Việt Nam có thể tận dụng được sự lên giá của CNY để thúc đẩy xuất khẩu sang
Trung Quốc, từ đó làm giảm tình trạng nhập siêu từ Trung Quốc? Đây là một vấn đề được sự
quan tâm, chú ý của các học giả, các nhà nghiên cứu, cũng như các nhà hoạch định chính
sách.
Trong bài viết này, nhóm tác giả sẽ phân tích định lượng các nhân tố tác động tới cán cân
thương mại Việt Nam-Trung Quốc, đặc biệt dưới góc độ tỷ giá, qua đó, phân tích một số cơ
hội và thách thức đối với Việt Nam trong việc cải thiện cán cân thương mại song phương với
Trung Quốc trong bối cảnh quốc tế hóa CNY.
1. Phân tích định lượng các nhân tố tác động tới cán cân thương mại Việt Nam- Trung
Quốc
Để đánh giá tác động của tỷ giá tới cán cân thương mại Việt Nam- Trung Quốc về mặt định
lượng, nhóm tác giả sử dụng mô hình hồi quy đơn trong đó biến phụ thuộc bao gồm: Kim
ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Trung Quốc (EX), kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc
(IM), và cán cân thương mại song phương giữa hai quốc gia (EXIM). Việc lựa chọn biến giải
thích hay biến độc lập để đưa vào mô hình được dựa trên lý thuyết về các nhân tố tác động tới
giá trị xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại. Các biến giải thích được đưa vào mô hình
bao gồm:
(i) Nhân tố tỷ giá (RATE): Nhóm tác giả lựa chọn tỷ giá danh nghĩa song phương
(CNY/VND) theo quý làm đại diện. Số liệu này được thu thập từ Thống kê tài chính quốc tế
của IMF.
1
2
Khoa Ngân hàng , Học viện Ngân hàng
Lớp Ngân hàng C- K12, Học viện Ngân hàng
1
(ii) Nhân tố thu nhập của người không cư trú (GDPCHINA): Trên thực tế chúng ta có thể
chọn tổng sản quốc nội, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập bình quân đầu người là
biến đại điện cho thu nhập của một quốc gia, tuy nhiên, do tính sẵn có của số liệu, nhóm tác
giả lựa chọn tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc làm biến đại diện. Số liệu này
thu thập từ Thống kê tài chính quốc tế của IMF.
(iii) Nhân tố thu nhập người cư trú (GDPVN): Tương tự như trên, nhóm tác giả lựa chọn tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam làm biến đại diện. Số liệu này được thu thập từ Tổng
cục Thống kê.
(iv) Nhân tố thuế quan và hạn ngạch: Do việc thu thập số liệu về hạn ngạch và thuế quan là
khó nên nhóm tác giả sử dụng biến giả sự kiện Trung Quốc và Việt Nam gia nhập WTO để
đại diện cho nhóm nhân tố này.
D1 = 0 trước khi Trung Quốc gia nhập WTO
= 1 sau khi Trung Quốc gia nhập WTO
D2 = 0 trước khi Việt Nam gia nhập WTO
= 1 sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Liên quan tới nhân tố lạm phát, vì lý thuyết về sự tác động của nhân tố lạm phát tới cán cân
thương mại là không rõ ràng, hơn nữa, khi cho thêm biến lạm phát vào mô hình, các kết quả
đều không có ý nghĩa thống kê, vì vậy, mô hình định lượng sẽ không bao gồm biến lạm phát.
Chuỗi số liệu được thu thập theo quý, từ quý 1/2000 đến quý 4/2011, được hiệu chỉnh theo
mùa bằng phương pháp Census X12. Tổng số quan sát là 48. Các dữ liệu thống kê của chuỗi
số liệu cho thấy các chuỗi số liệu là không dừng (non-stationary). Kết quả kiểm định ADF
cho chuỗi dữ liệu theo tháng từ quí 1 năm 2000 đến quí 4 năm 2011 cho thấy, tất cả các biến
đều dừng khi tiến hành phân bậc 1. Để tránh tình trạng hồi qui giả mạo, nhóm tác giả kiểm tra
tính đồng liên kết của các chuỗi thời gian không dừng bằng phương pháp kiểm định đồng liên
kết (co-intergration test) của Johansen. Theo kiểm định đồng liên kết dựa trên phương pháp
VAR của Johasen thì các biến số này có mối quan hệ trong dài hạn. Về độ trễ của mô hình, do
chuỗi số liệu được thu thập theo quý, cộng với dựa vào tiêu chuẩn AIC, nhóm tác giả đã lựa
chọn độ trễ là 4. Như vậy, mô hình hồi quy dựa trên các biến được lấy sai phân bậc 1 là phù
hợp3.
1.1. Phân tích định lượng các nhân tố tác động tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
sang Trung Quốc
Để tiến hành đánh giá những tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu sang Trung
Quốc, chúng tôi sử dụng mô hình hồi quy có dạng:
D(EXt)=β1+β2*D(RATEt)+β3*D(RATEt-1)+β4*D(RATEt-2)+β5*D(RATEt-3)
+β6*D(RATEt-4)+β7*D(GDPCHINA)t+β8*D1+β9*D2 + + Ut
3
(1.1)
Do kết quả kiểm định chuỗi số liệu nhiều nên nhóm tác giả không đề cập tại đây. Nếu bạn đọc cần thông tin về
điều này có thể liên hệ qua email của tác giả:
2
Trong đó EX: trị giá xuất khẩu (triệu USD)
RATE: tỷ giá CNY/VND
GDPCHINA: GDP của Trung Quốc (triệu USD)
Ut là sai số ngẫu nhiên
Kết quả hồi quy phương trình (1.1) được thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1. Tác động của các biến số tới xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc
Biến số
Hệ số
Sai lệch chuẩn
P-value
D(RATE)
-1.782020**
0.814222
0.0356
D(RATE(-1))
0.755443
0.792287
0.3471
D(RATE(-2))
0.079908
0.783460
0.9194
D(RATE(-3))
0.997926
0.765243
0.2010
D(RATE(-4))
2.433171*
1.246505
0.0592
D(GDPCHINA)
0.000627*
0.000317
0.0564
D1
-24.03047
173.1825
0.8905
D2
22.06498
109.1325
0.8410
Chú ý: ***, **,* cho biết hệ số có ý nghĩa thống kê ở mức tương ứng 1%, 5%, và 10%
Dựa vào kết quả thu được từ mô hình hồi quy (1.1), chúng ta có thể rút ra các kết luận sau:
Về tác động của tỷ giá tới giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc: Mối quan hệ giữa
tỷ giá và giá trị xuất khẩu thay đổi trong ngắn hạn, dài hạn và sự vận động của chúng tuân
theo qui luật của hiệu ứng tuyến J. Trong ngắn hạn, tỷ giá tăng 1% làm cho giá trị xuất khẩu
giảm 1,78%. Đây là mối quan hệ ngược chiều, và nó được mô phỏng theo hiệu ứng giá. Tuy
nhiên, trong dài hạn khoảng 3-4 quí sau thời điểm phá giá, mối quan hệ được chỉ ra ở đây là
thuận chiều được mô phỏng theo hiệu ứng khối lượng, cụ thể là việc tăng tỷ giá 1% trước đó
làm giá trị xuất khẩu tăng 2,43% ở quí 4.
Những kết quả thể hiện ở trên được giải thích bởi đặc điểm nội tại của nền kinh tế Việt Nam
kém về năng lực tài chính, nền sản xuất hầu như là thủ công, công nghệ lạc hậu và không có
khả năng nâng cao trình độ công nghệ. Thêm vào đó, lạm phát cao nên mức độ linh hoạt của
tiền lương rất nhạy cảm, danh sách hàng xuất khẩu không nhiều và là những sản phẩm thô sơ,
tỷ trọng hàng nhập cấu thành hàng xuất cũng chiếm hơn phân nửa giá trị. Việc tỷ giá tăng hay
phá giá tiền tệ ở Việt Nam trong ngắn hạn sẽ khiến hàng hóa rẻ đi, nhưng cầu về hàng hóa
tăng không mạnh do tính cạnh tranh thấp, nếu tăng chủ yếu sẽ là do tài nguyên. Bên cạnh đó,
phá giá ngay lập tức tạo áp lực về chi phí nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu và máy móc cho
sản xuất, khiến các doanh nghiệp phải giảm công suất sản xuất, cung ứng do sản phẩm đầu ra
bị sụt giảm. Hiệu ứng giá lúc này sẽ diễn ra. Tuy nhiên, trong dài hạn, Việt Nam vẫn có khả
năng cân đối giữa những khoản chi phí phát sinh và tăng công suất sản xuất để đáp ứng nhu
cầu tăng lên từ phía đối tác vì mức tăng này không quá lớn. Tóm lại, với những yếu điểm này,
khi thực hiện phá giá, Việt Nam sẽ giống như các quốc gia đang phát triển khác, sẽ bị chi phối
bởi hiệu ứng tuyến J.
3
Về sự tác động của GDP Trung Quốc tới cán cân thương mại song phương Việt Nam- Trung
Quốc: Ngoài sự tác động của tỷ giá, giá trị xuất khẩu của Việt Nam còn chịu ảnh hưởng phần
nào từ GDP của Trung Quốc. Cụ thể, khi GDP tăng 1% thì giá trị xuất khẩu tăng 0,0009%.
Đây là mối quan hệ thuận chiều và hơi mờ nhạt. Điều này có thể được lý giải bởi mức thu
nhập bình quân đầu người của Trung Quốc vẫn thấp nên với sự tăng thêm thu nhập, họ sẽ
dành cho những nhóm hàng thiết yếu có giá trị thấp, trong khi đó nhóm hàng chủ yếu Việt
Nam xuất sang Trung Quốc như rau củ quả, gạo có giá trị rất thấp, còn lại chủ yếu là tài
nguyên khoáng sản, cao su, gỗ,… không có quan hệ nhiều tới việc tăng/giảm thu nhập của
người dân. Ngoài ra, điều này cũng được lý giải là do hàng Việt Nam chưa đánh trúng xu
hướng tiêu dùng và phù hợp với tâm lý tiêu dùng của người dân Trung Quốc, đây cũng chính
là lý do tại sao người Trung Quốc chuộng đồ ngoại nhập nhưng lại thờ ơ với hàng hóa Việt
Nam.
1.2 Phân tích định lượng các nhân tố tới hoạt động nhập khẩu của Việt Nam từ Trung
Quốc
Để tiến hành đánh giá những tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới nhập khẩu từ Trung
Quốc, chúng tôi sử dụng mô hình hồi quy có dạng:
D(IMt) = β1 + β2*D(RATEt) + β3*D(RATEt-1)+ β4*D(RATEt-2) + β5*D(RATEt-3)
+ β6*D(RATEt-4) + β7*D(GDPVNt )+ β8*D1 + β9*D2 + Ut (1.2)
Trong đó IM: nhập khẩu từ Trung Quốc (triệu USD)
GDPVIETNAM: GDP của Việt Nam (triệu USD)
Kết quả hồi quy phương trình (1.2) được thể hiện ở Bảng 2.
Bảng 2. Tác động của các biến số tới nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc
Biến số
Hệ số
Sai lệch chuẩn
D(RATE)
4.281469
2.569141
D(RATE(-1))
-1.379898
2.474620
D(RATE(-2))
8.354849***
2.459369
D(RATE(-3))
-10.50704***
2.402008
D(RATE(-4))
-9.612720**
3.851007
D(GDPVN)
0.088013
0.073913
D1
81.77571
542.3550
D2
324.8383
340.4070
P-value
0.1048
0.5808
0.0018
0.0001
0.0176
0.2420
0.8810
0.3467
Chú ý: ***, **,* cho biết hệ số có ý nghĩa thống kê ở mức tương ứng 1%, 5%, và 10%.
Dựa vào kết quả thu được từ mô hình hồi quy (1.2), chúng ta có thể rút ra một số các kết luận
sau:
Về tác động của tỷ giá tới giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc: Mô hình đã chỉ ra
sự tác động của tỷ giá đến giá trị nhập khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc theo hướng
lượng hóa cụ thể và trong trạng thái động. Cụ thể, sự vận động của tỷ giá trong ngắn hạn và
dài hạn dẫn đến một sự chuyển biến về giá trị nhập khẩu một cách rõ rệt với 2 xu hướng:
Trong ngắn hạn, khi tỷ giá tăng 1 đồng thì làm cho giá trị nhập khẩu từ Trung Quốc tăng
4
4,281469 triệu USD. Mối quan hệ được chỉ ra ở đây là thuận chiều. Tuy nhiên, về dài hạn, sau
khoảng 3-4 quí, tác động trễ của tỷ giá đến giá trị nhập khẩu tương đối mạnh và theo hướng
ngược chiều, tức tỷ giá tăng thì giá trị nhập khẩu giảm, cụ thể là khi tỷ giá tăng 1%, giá trị
nhập khẩu giảm 10,50704% ở quí 3 và 9,612720% ở quí 4.
Những lý do sau giải thích cho điều này:
Thứ nhất, sự tương tác trong chuyển động của tỷ giá và giá trị nhập khẩu ở Việt Nam là một
mô phỏng của hiệu ứng tuyến J và giải thích cho điều này là những đặc điểm hạn chế của một
nền kinh tế đang phát triển đã và đang tồn tại ở Việt Nam trong suốt giai đoạn 2000-2011.
Trong đó, việc thụ động trước nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất và khả năng thay thế
hàng xuất khẩu hạn chế là 2 đặc điểm cơ bản có tác động tương đối mạnh dẫn đến việc tăng
giá trị nhập khẩu trong ngắn hạn.
Thứ hai, giai đoạn 2000-2011, Việt Nam đang định hướng phát triển công nghiệp hóa- hiện
đại hóa đất nước nên việc mở rộng sản xuất đẩy mạnh xuất khẩu không thể thiếu máy móc
công nghệ, mà giá trị đơn chiếc của những mặt hàng này rất cao, nên trong ngắn hạn, khi tỷ
giá tăng, tổng giá trị nhập khẩu từ nhóm hàng này sẽ có xu hướng dội lên rất mạnh.
Thứ ba, giai đoạn này, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng phần nào từ tác động của cơn bão
khủng hoảng tài chính thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc vốn
được coi là có ưu thế tuyệt đối với nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, vị trí địa lý thuận lợi
đã rút ngắn thời gian, chi phí vận chuyển, khiến hàng Trung Quốc dễ dàng thâm nhập vào thị
trường Việt Nam. Bên cạnh đó, cầu về hàng cơ bản thiết yếu từ Trung Quốc tương đối kém
nhạy cảm với sự biến động của tỷ giá do giá rẻ áp đảo hàng nội địa, hơn nữa, mức độ làm thỏa
mãn những nhu cầu đa dạng trong tiêu dùng tương đối cao.
Thứ tư, về dài hạn, Việt Nam sẽ giảm nhập khẩu nhóm hàng có tỷ trọng giá trị cao nhất trong
kim ngạch nhập khẩu là nhóm hàng máy móc thiết bị, công nghệ, linh phụ kiện bởi những khó
khăn trong nguồn vốn và băn khoăn về khả năng sinh lời khi khai thác chúng trong bối cảnh
nền kinh tế toàn cầu suy thoái.
Tóm lại, khi chưa có sự chuẩn bị trước và một nền sản xuất cũng như thị trường nội địa ổn
định, phát triển, tự chủ thì sự biến động của tỷ giá có ảnh hưởng rất tiêu cực theo hiệu ứng giá
cả, gây ra những thiệt hại cho cán cân thương mại của quốc gia và không phải quốc gia nào
cũng đủ điều kiện và sự linh hoạt để đưa ra những chiến lược kinh doanh hiệu quả, tận dụng
cơ hội mà phá giá mang lại. Ở Việt Nam, mặc dù khả năng tận dụng cơ hội này vẫn đảm bảo
nhưng mức độ khai thác chưa thực sự cao.
Về tác động của GDP Việt Nam tới kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc: Sự gia tăng của
GDP trong nước đã làm tăng nhu cầu nhập khẩu, gây ra thâm hụt cán cân thương mại nhiều
hơn. Lý do được đưa ra để giải thích cho việc chỉ số GDP trong nước tăng làm gia tăng mạnh
nhu cầu nhập khẩu là GDP gia tăng đã làm tăng nhu cầu nhập khẩu trang thiết bị, máy móc
phục vụ cho sản xuất trong nước tăng lên và tăng nhu cầu tiêu dùng, tuy nhiên, hàng nội địa
5
kém cạnh tranh không bắt kịp xu hướng người tiêu dùng đã đánh mất cơ hội này và nhường
cho hàng nhập khẩu của Trung Quốc.
1.3. Phân tích định lượng tác động của các nhân tố tới cán cân thương mại song phương
Việt Nam- Trung Quốc
Để tiến hành đánh giá những tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới trạng thái cán cân
thương mại song phương, chúng tôi sử dụng mô hình hồi quy có dạng:
D(EXIM) = β1 +β2*D(RATEt)+β3*D(RATEt-1)+β4*D(RATEt-2)+β5*D(RATEt-3)
+β6*D(RATEt-4)+β7*GDPCHINAt+β8*GDPVNt+β9*D1+β10*D2+Ut (1.3)
Trong đó EXIM: Cán cân thương mại Việt Nam- Trung Quốc (triệu USD).
Kết quả hồi quy mô hình (1.3) được thể hiện ở Bảng 3.
Bảng 3. Tác động của các biến số tới cán cân thương mại song phương
Biến số
Hệ số
Sai lệch chuẩn
D(RATE)
-8.119280***
2.658580
D(RATE(-1))
4.167346
2.594298
D(RATE(-2))
-5.660406
2.570246
D(RATE(-3))
3.390450
2.512177
D(RATE(-4))
11.28511***
4.064262
DCHINA
0.005299**
0.001991
DVN
-0.439092***
0.147987
D1
-250.0201
561.1368
D2
-212.3259
355.8363
P-value
0.0044
0.1177
0.0347
0.1863
0.0090
0.0119
0.0056
0.6588
0.5548
Chú ý: ***, **,* cho biết hệ số có ý nghĩa thống kê ở mức tương ứng 1%, 5%, và 10%
Kết quả của mô hình đã chỉ ra được tác động chủ đạo của tỷ giá đến chênh lệch cán cân
thương mại của Việt Nam trong giai đoạn 2000- 2011, bên cạnh những ảnh hưởng tuy nhỏ
nhưng mang tính đòn bẩy và quyết định của GDPVIETNAM, GDPCHINA và tác động của
gia nhập WTO. Cụ thể được khái quát như sau:
Về tác động của nhân tố tỷ giá tới cán cân thương mại: Kết quả thu được từ mô hình cho
thấy, trong ngắn hạn, khi tỷ giá tăng 1% thì mức độ thâm hụt của cán cân thương mại tăng
8,12%. Giai đoạn này, hiệu ứng giá lấn át hiệu ứng khối lượng. Tuy nhiên trong dài hạn, việc
tăng 1% của tỷ giá trước đó sẽ tác động làm thâm hụt giảm 3,9% ở quí 3 và 11,28% ở quí 4.
Thời gian này, hiệu ứng khối lượng lấn át hiệu ứng giá. Mối quan hệ định lượng giữa tỷ giá và
chênh lệch cán cân thương mại song phương Việt Nam- Trung Quốc tương đối lớn so với qui
mô nền kinh tế Việt Nam nói chung và kim ngạch thương mại song phương Việt Nam- Trung
Quốc nói riêng. Quan trọng nữa là mối quan hệ có xu hướng vận động theo sát lý thuyết về
hiệu ứng tuyến J. Có 3 nhận định rút ra có thể giải thích cho kết quả trên trong trường hợp của
Việt Nam:
Thứ nhất, trong ngắn hạn, Việt Nam với qui mô nhỏ và nội tại nền kinh tế còn tồn đọng rất
nhiều điểm yếu thuộc về những nền tảng căn cơ cho một mô hình phát triển, nên dễ dẫn đến
việc vấp phải hiệu ứng tuyến J. Cụ thể:
6
(1) Tỷ trọng giá trị hàng nhập khẩu cấu thành nên giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam rất lớn,
điều này sẽ tác động nghiêm trọng đến độ nhạy cảm của khối lượng nhập khẩu, vì vốn kinh
doanh hạn hẹp và lo ngại trước mọi biến động do năng lực cạnh tranh không cao, nên các
doanh nghiệp buộc phải cắt giảm giá trị đầu vào, hay nói cách khác là tạm thời thu hẹp sản
xuất để chờ tin từ nền kinh tế, sau đó sẽ tìm cách giải quyết sau. Áp lực chi phí sản xuất sẽ
ảnh hưởng đến khối lượng sản xuất ra và kết quả là hàng xuất khẩu giảm, chênh lệch thâm hụt
nới rộng hơn. Thậm chí trong trường hợp của Việt Nam là một nước nhỏ luôn phải gồng mình
cạnh tranh với những nước lớn trong thương mại quốc tế sẽ là một cú sốc ảnh hưởng nghiêm
trọng đến uy tín, do không thể đáp ứng đúng yêu cầu số lượng như đơn hàng đã đặt định kỳ và
những đơn hàng đặt thêm do tỷ giá tăng làm tăng nhu cầu hàng xuất khẩu từ phía đối tác, điều
này có thể làm họ mất đi thị trường xuất khẩu.
(2) Năng lực sản xuất thay thế hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong ngắn hạn được coi là không
thể vì Việt Nam đang phụ thuộc nhiều vào máy móc công nghệ, nguyên liệu đầu vào… từ
nước ngoài, trong khi sản xuất trong nước lạc hậu. Ngoài ra, trong ngắn hạn, Việt Nam khó có
thể đầu tư thêm nhà xưởng, thuê và đào tạo thêm nhân công, đó là còn chưa kể còn nhiều sản
phẩm Việt Nam vẫn chưa thể sản xuất được và bước đầu chuyển hướng sản xuất nên kinh
nghiệm ứng phó còn ít. Như vậy, xuất khẩu vẫn không được cải thiện mà thậm chí cơ hội cải
thiện xuất khẩu còn biến thành thách thức đối với nhà sản xuất trong việc giao hàng đúng hạn,
đủ số lượng, đúng chủng loại.
(3) Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn tham gia thương mại quốc tế (ITG) ở Việt Nam là rất
thấp, vì vậy phá giá sẽ không ảnh hưởng được nhiều đến hiệu ứng khối lượng.
(4) Khi tỷ giá tăng, do hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tiêu dùng của Việt Nam sẽ
đẩy mặt bằng giá hàng hóa của Việt Nam lên nhanh và cao. Thêm vào đó, với lịch sử trường
kỳ lạm phát ở Việt Nam sẽ tạo kỳ vọng về sự tăng giá của công chúng thêm mạnh mẽ, tạo
hiệu ứng đẩy lạm phát đi nhanh, mạnh và chệch ra khỏi phạm trù khách quan. Thực tế Việt
Nam, nhiều nhà kinh doanh khi nhận thấy xu hướng lạm phát đã tăng giá bán để phòng chống
lỗ do lạm phát gây ra, đến khi lạm phát đã dừng lại thì lại không giảm giá vì không muốn mất
đi lợi ích kinh tế. Chính phủ phải tăng tiền lương để xoa dịu tâm lý người dân về cuộc sống
trở nên khó khăn. Tiền lương tăng, chi phí sản xuất tăng và vòng quay lạm phát lại được khởi
động, gây xói mòn khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu.
(5) Việt Nam có tỷ lệ người ưa thích hàng ngoại (từ châu Âu và các nước phát triển) không
cao do thu nhập bình quân thấp nhưng hàng Trung Quốc lại dễ dàng chiếm lĩnh thị trường
Việt Nam vì chúng rẻ và tính bình dân phổ biến. Hàng hóa Trung Quốc lẫn vào hàng Việt
Nam rẻ, đa dạng, đa tính năng nên rất được chuộng. Bên cạnh đó, sự tồn tại của hàng Việt
Nam với người Trung Quốc ít được biết đến do doanh nghiệp Việt Nam ít có ý định thâm
nhập thị trường Trung Quốc mà chỉ lo cạnh tranh trong nước.
7
Thứ hai, về dài hạn, mặc dù cán cân thương mại song phương Việt Nam- Trung Quốc có
nhích lên theo thiên hướng có lợi cho Việt Nam, song thành tích vẫn chưa thực sự tốt vì trong
đó vẫn thiếu đi „„tính chủ động‟‟, cụ thể là:
- Về xuất khẩu, tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn tham gia thương mại quốc tế (ITG) thấp đi,
kèm với nó là giá trị không cao, nên khi tỷ giá tăng, cầu về hàng xuất khẩu của Việt Nam có
tăng nhưng không mạnh và áp lực đáp ứng sức tăng không mạnh này đối với những hàng hóa
có qui trình sản xuất giản đơn là không lớn. Trong khi đó, ở Việt Nam phải cần đến khoảng
một quí để phản ứng lại với biến động này. Bên cạnh đó, đóng góp trong sự tăng lên của kim
ngạch xuất khẩu còn có giá trị tăng lên của nhóm hàng tài nguyên năng lượng và khoáng sản.
- Về nhập khẩu, mức độ sụt giảm về kim ngạch xuất khẩu trong dài hạn có được là do giá trị
tăng lên của nhóm hàng máy móc công nghệ, thiết bị vượt quá khả năng tài chính có thể của
doanh nghiệp trong điều kiện khủng hoảng kinh tế, bên cạnh đó, vì giá trị của nhóm hàng này
rất cao nên việc thu hẹp thâm hụt từ giảm nhập khẩu ở Việt Nam diễn ra khá tốt.
Về tác động của GDP Việt Nam và Trung Quốc, tới cán cân thương mại Việt Nam- Trung
Quốc: Các kết quả cho thấy, tác động của GDPVIETNAM, GDPCHINA tuy nhỏ nhưng đây
lại là những yếu tố đòn bẩy và quyết định đối với chênh lệch cán cân thương mại. Bởi những
nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hấp thụ của nền kinh tế khi phá giá tiền tệ diễn
ra.
Khi GDP Việt Nam tăng, người Việt Nam tăng tiêu dùng hàng nhập khẩu Trung Quốc mạnh
hơn khiến nền kinh tế bị nhập siêu từ Trung Quốc. Khi GDP Trung Quốc tăng thì chênh lệch
giữa xuất khẩu và nhập khẩu có tăng, nhưng rất ít. GDP tăng, nhu cầu tiêu dùng của con
người tăng lên và việc tăng nguyên liệu sản xuất để mở rộng qui mô sản xuất nội địa đặt ra.
Đối với một nền sản xuất mạnh mẽ như Trung Quốc thì chắc chắc sẽ đáp ứng không những đủ
cho sản xuất và tiêu dùng nội địa mà còn dư thừa hàng hóa để bán ra nước ngoài. Trái lại, việc
phụ thuộc nguyên liệu nhập khiến Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng nội địa,
giá sản xuất lại tăng lên do cầu tăng và nhập hàng để đáp ứng nhu cầu trong nước đã xảy ra.
Điều này giải thích tại sao GDPVIETNAM tăng thì Việt Nam tăng nhập khẩu nhiều, trong khi
GDPCHINA tăng thì Trung Quốc tăng nhập khẩu ít. Thứ nữa, cầu của người Trung Quốc về
sản phẩm của Việt Nam tương đối kém nhạy cảm do hàng Việt Nam kém cạnh tranh, ít được
biết đến, ngược lại với hàng Trung Quốc sức cạnh tranh cao và được ưa chuộng trên cả nước.
Về tác động của nhân tố gia nhập WTO tới cán cân thương mại Việt Nam- Trung Quốc: Mặc
dù ở không có ý nghĩa thống kê, nhưng rõ ràng mở cửa kinh tế có tác động quyết định đến sự
tồn tại của quan hệ ngoại thương của bất kỳ quốc gia nào. Vấn đề đặt ra là độ mở cửa kinh tế
như thế nào là hợp lý với sức chịu đựng của nền sản xuất nội địa. Đối với Việt Nam, giai đoạn
trước khi gia nhập WTO và cho tới nay, nền sản xuất nội địa của Việt Nam vẫn kém tương
đối so với Trung Quốc, độ mở cửa kinh tế khi đó tương đối thấp. Việc gia nhập WTO trong
bối cảnh nền kinh tế lạc hậu, các nhà sản xuất trong nước chưa có ý thức sâu về những thách
thức, trong khi chủ yếu được phổ biến về cái lợi mà WTO đem lại dẫn đến sự chủ quan. Yếu
8
kém và chủ quan khiến hàng Việt Nam có tiến bộ so với trước đây nhưng không theo kịp
nước bạn và đánh mất dần thị trường tiêu thụ, suy giảm tương đối khả năng cạnh tranh. Tuy
nhiên, xét cho cùng, mở cửa là một nhân tố lưỡng tính 2 mặt, nếu có những điều chỉnh, thay
đổi mang tính cách mạng, Việt Nam vẫn có thể sử dụng “WTO” như một đòn bẩy để phát
triển kinh tế chứ không phải là nơi hứng chịu tác động tiêu cực của hội nhập, như thành nơi
nhập khẩu công nghệ rác thải, đẩy lùi sự phát triển kinh tế so với thế giới.
(còn nữa- đăng tiếp vào số sau)
2. Cơ hội và thách thức cho cán cân thương mại Việt Nam- Trung Quốc trong bối cảnh
quốc tế hóa CNY
2.1. Diễn biến và triển vọng quốc tế hóa CNY
Từ năm 2008, Ngân hàng Trung ương (NHTW) Trung Quốc đã ký thỏa thuận hoán đổi tiền tệ
với 5 quốc gia, gồm Argentina, Indonesia, Belarus, Malaysia, Hàn Quốc và đặc khu kinh tế
Hongkong. Trong đó, giá trị hoán đổi giữa Trung Quốc với Argentina là 70 tỷ CNY (10,2 tỷ
USD) vào ngày 29/3/2009; với Indonesia là 100 tỷ CNY (14,7 tỷ USD) vào ngày 23/3/2009;
với Belarus là 20 tỷ CNY (2,9 tỷ USD) vào ngày 11/3/2009; với Malaysia là 80 tỷ CNY (11,7
tỷ USD) vào ngày 8/2/2009; với Hàn Quốc là 180 tỷ CNY (26,4 tỷ USD) vào ngày
12/12/2008 và với Đặc khu kinh tế Hồng Kông là 200 tỷ CNY (29,3 tỷ USD) vào ngày
20/01/2009.
Năm 2010, Trung Quốc đã có nhiều bước đi mạnh mẽ để quốc tế hoá đồng CNY như cho
phép 20 tỉnh, thành phố thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế bằng đồng CNY; ký các
thoả thuận trao đổi tiền tệ với Hàn Quốc, Hongkong, Malaysia, Indonesia, Belarus và
Argentina. Đặc biệt, từ ngày 22/11/2010, Trung Quốc cho phép đồng CNY giao dịch hối đoái
với đồng Rúp của Nga, động thái sẽ giúp tạo điều kiện thuận tiện cho hoạt động thương mại
song phương giữa Nga và Trung Quốc, cũng như giúp phát triển hoạt động thanh toán thương
mại bằng đồng CNY4. Tính đến nay, NHTW Trung Quốc đã kí hoán đổi tiền tệ với 20 quốc
gia.
Bên cạnh kí kết hợp đồng hoán đổi tiền tệ, tháng 01/2010, Trung Quốc và 6 nước ASEAN đã
cam kết xóa bỏ hàng rào thuế quan đối với 90% các mặt hàng trong giao dịch thương mại.
Hiện các hợp đồng bằng CNY chỉ chiếm 10% trong thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN,
và sẽ tăng lên 30% trong 5 năm tới. Bằng cách ủng hộ việc sử dụng CNY như tiền tệ thanh
toán, Trung Quốc giảm thiểu được nguy cơ về tỉ giá mà các xí nghiệp xuất khẩu của Trung
Quốc phải đối mặt. Thêm vào đó, tháng 6/2010, Trung Quốc cũng đã hủy bỏ quy định neo tỉ
giá đồng CNY phụ thuộc đồng USD, song song đó là kéo dài kế hoạch khuyến khích doanh
4
Theo bộ phận phân tích thông tin kinh tế - EIU (thuộc Tạp chí The Economist của Anh)
9
nghiệp Trung Quốc sử dụng đồng CNY để giao dịch thương mại xuyên biên giới. Sau đó
Trung Quốc cũng tiến hành nâng giá CNY vào năm 2011 và gần đây nhất vào ngày
16/4/2012, Trung Quốc đã thực hiện nới rộng biên độ dao động tỷ giá USD/CNY từ ±0,5%
lên ±1%.
Trong tháng 7/2010, Iran và Trung Quốc đã đàm phán để sử dụng đồng CNY trong giao dịch
dầu mỏ và các dự án hợp tác khác. Theo các thỏa thuận, các quốc gia này sẽ sử dụng đồng
CNY thay thế đồng USD trong các hợp đồng mua bán với các đối tác Trung Quốc, nhằm tăng
cường hoạt động thương mại và đầu tư song phương. Ngoài ra, các giao dịch thương mại hiện
nay tại Trung Quốc được phép mua bán đồng CNY với đồng USD, EUR, Yên Nhật, HKD và
GBP.
Tháng 8/2010, Trung Quốc đã đồng ý cho một số ngân hàng và tổ chức tài chính lớn của châu
Á đầu tư vào thị trường trái phiếu của nước này. Tính đến nay, các ngân hàng ở Hongkong,
Macau và một số ngân hàng nước ngoài khác đã tham gia giao dịch ở thị trường trái phiếu liên
ngân hàng nội địa Trung Quốc với số tiền lên đến 19.500 tỉ CNY (2.871 tỉ USD). Tiêu biểu là
vào ngày 21/10/2010, ADB phát hành thành công trái phiếu tại Hong Kong (Trung Quốc) có
thời hạn 10 năm bằng đồng CNY, lãi suất 2,85%/năm, đáo hạn ngày 21/10/2020. Ngày
04/01/2011, Ngân hàng Thế giới (WB) phát hành đợt trái phiếu đầu tiên bằng CNY với quy
mô lên đến 500 triệu (tương đương với hơn 75,55 triệu USD). Trái phiếu có kỳ hạn 2 năm,
thời gian đến hạn là ngày 14/01/2013. Đây là lần đầu tiên WB phát hành trái phiếu bằng CNY
nên nhận được đánh giá tốt AAA/AAA. Ngày 18/4/2012, HSBC đã có kế hoạch phát hành trái
phiếu bằng CNY tại London (kì hạn 3 năm tại lãi suất 3-3,25%). Đây sẽ là trái phiếu bằng
đồng CNY đầu tiên tại London, đặt dấu mốc trong nỗ lực của Thành phố này để trở thành
trung tâm giao dịch CNY đầu tiên nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc.
Một số sự kiện khác liên quan đến quá trình quốc tế hóa đồng CNY: Tháng 9/2011, NHTW
Nigeria tuyên bố sẽ chuyển đổi từ 5-10% lượng dự trữ ngoại tệ sang đồng CNY. Cuối tháng
12/2011, Nhật Bản và Trung Quốc đã ký hiệp ước kinh tế thỏa thuận nhằm thúc đẩy thương
mại trực tiếp bằng việc sử dụng tiền tệ 2 nước là CNY và đồng yên chứ không phải chuyển
đổi thông qua đồng USD.
Tóm lại, những năm gần đây nền kinh tế Trung Quốc đã có những phát triển vượt bậc, đặc
biệt trong thương mại quốc tế. Kéo theo đó là sự tăng lên về nhu cầu đồng CNY đã đặt ra vấn
đề quốc tế hóa CNY để đáp ứng nhu cầu đầu tư, thương mại của các bên tham gia, đồng thời
đa dạng giỏ tiền dự trữ nhằm cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế. Về phía mình, Trung Quốc
cũng khẳng định tham vọng hoàn thành quốc tế hóa CNY vào năm 2015 và đã có những động
thái tích cực hướng đến mục tiêu này như tăng cường các giao dịch bằng đồng CNY trong
quan hệ với các đối tác thương mại và kêu gọi các nước khác dự trữ bằng CNY, thúc đẩy
thanh toán bằng CNY ở nước ngoài nhằm mở rộng thị trường tài chính. Bên cạnh đó, Trung
Quốc cũng đang cố gắng có những nới lỏng trong việc kiểm soát sự dịch chuyển của luồng
vốn, tạo điều kiện để thị trường vốn phát triển theo hướng linh hoạt hơn.
10
2.2. Cơ hội và thách thức cho cán cân thương mại Việt Nam- Trung Quốc trong bối cảnh
quốc tế hóa CNY
Cơ hội
Trước tiên, xét tới những ảnh hưởng mang tính ngắn hạn và trung hạn, một khi CNY được
quốc tế hóa, yếu tố tỷ giá sẽ là nhân tố châm ngòi những biến đổi cho cả Việt Nam và Trung
Quốc. Tỷ giá song phương CNY/VND tăng là điều tất yếu trong hoàn cảnh này. Bởi quốc tế
hóa đồng nghĩa với việc Chính phủ Trung Quốc sẽ phải thả nổi đồng CNY, ngay lập tức lực
lượng thị trường sẽ vào cuộc để đưa CNY về đúng vị trí của nó và CNY sẽ tăng sau những
năm tháng bị đánh giá thấp thậm tệ bởi chính sách tỷ giá của Trung Quốc hay CNY sẽ mạnh
lên so với VND. Điều này sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế ngoại thương Việt Nam và Trung
Quốc, thể hiện ở các vấn đề sau:
Thứ nhất, quốc tế hóa CNY sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực sản xuất cũng như làm suy
giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế của của Trung Quốc, hàng của Trung Quốc sẽ đắt lên
so với hàng của Việt Nam. Điều này sẽ hạn chế nhập khẩu và tăng cường xuất khẩu giúp cải
thiện cán cân thương mại song phương Việt Nam- Trung Quốc, mở ra một cơ hội cho Việt
Nam. Đây là một cơ hội lớn và Việt Nam nên có những chuẩn bị để nắm lấy thị trường Trung
Quốc. Dân số đông, thu nhập bình quân đầu người thấp và vị trí giao thương thuận lợi là
những điều kiện tốt để Việt Nam tiến tới thâm nhập thị trường này. Trước tình hình sản xuất
và qui mô vốn hoạt động cũng như trình độ quản lý của Việt Nam bên cạnh sự áp đảo tuyệt
đối của nền sản xuất Trung Quốc, cách lựa chọn thông minh nhất cho Việt Nam là hạn chế
những điểm yếu và đẩy mạnh những điểm ưu mới mong nắm bắt được cơ hội này.
Thứ hai, quốc tế hóa CNY sẽ làm tăng thêm phần sôi động cho thị trường vốn ở Việt Nam và
cụ thể là luồng vốn đầu tư nước ngoài sẽ tìm đến Việt Nam nhiều hơn để khai thác ưu thế tài
nguyên, vị trí giao thương thuận lợi và tận dụng cơ hội về giá khi tiền đồng suy yếu. Hiện
nay, luồng vốn đầu tư từ Trung Quốc tồn tại ở Việt Nam tương đối ít và không đa dạng
ngành, thực tế vốn đầu tư từ Trung Quốc thường thấp hơn số đăng ký rất nhiều và nằm chủ
yếu ở các mảng khai khoáng và giao thông bởi thời gian qua, việc định giá CNY thấp khiến
mảnh đất giàu tài nguyên của Trung Quốc là nơi lý tưởng để đặt cơ sở sản xuất hơn bất kỳ nơi
nào khác, vì vậy đầu tư của nước ngoài sang những nước khác hầu như tập trung cho việc
thúc đẩy hỗ trợ sản xuất trong nước. Nhưng về lâu về dài, với sức sản xuất như vậy, chính
quyền Trung Quốc chắc chắn sẽ phải tính toán đến việc tìm kiếm nguồn tài nguyên ở những
quốc gia khác và đặc biệt sự giảm giá của tiền đồng sẽ khiến những nhà sản xuất của Trung
Quốc quan tâm nhằm khai thác tài nguyên và tận dụng cơ hội về giá. Đầu tư của Trung Quốc
sang Việt Nam trong ngành công nghiệp sản xuất sẽ tăng nhưng chủ yếu nằm trong những
ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất chế biến sản phẩm tiêu dùng bên cạnh sự tăng cường đầu tư
vào các dự án khai khoáng, giao thông, điện lực, dầu thô.
Với khả năng nắm bắt thị trường nhanh nhạy, nhiều khả năng, những nhà đầu tư Trung Quốc
sẽ tập trung vốn cho những sản phẩm tiềm năng của Việt Nam để hướng vào thị trường Trung
11
Quốc. Như đã phân tích nguyên nhân, người dân Trung Quốc rất ưa thích hàng ngoại và họ
sẵn sàng trả giá cao để có được những sản phẩm mang thương hiệu nổi tiếng. Nhà đầu tư
Trung Quốc hiểu điều đó và họ sẽ mạnh tay đầu tư vào những sản phẩm tại Việt Nam có thể
xây dựng thương hiệu, phát triển sản phẩm, từ đó đẩy mạnh sức tiêu thụ sang thị trường rộng
lớn Trung Quốc và thậm chí có thể lan rộng ra khắp thế giới. Ví dụ như cà phê, trà, cao su, đồ
thủ công mỹ nghệ cao cấp từ gỗ, về nông sản sẽ hướng vào những sản phẩm đặc sản của Việt
Nam để chế biến thành sản phẩm đóng hộp... Bên cạnh đó, những nhà đầu tư cũng gia nhập
vào những dự án mở rộng thị trường của những sản phẩm nổi tiếng Châu Âu ở Việt Nam. Sau
khi tập trung khai thác thành công những sản phẩm này, những nhà đầu tư Trung Quốc sẽ có
thể xuất trở lại thị trường Trung Quốc và khả năng được đón nhận là tương đối cao vì họ đã
quá hiểu thị trường, cung cách kinh doanh ở quê hương mình. Nhờ đó, cán cân thương mại
song phương Việt Nam- Trung Quốc sẽ có cơ hội được cải thiện và thị trường lao động ở Việt
Nam sẽ khởi sắc hơn.
Bên cạnh luồng vốn đầu tư từ Trung Quốc, những luồng vốn FDI, vốn đầu tư từ những quốc
gia phát triển, sau những đợt khủng hoảng và áp lực về sự cạnh tranh bất bình đẳng từ phía
Trung Quốc không còn, sẽ quay trở lại và có thể tăng mạnh. Đầu tư từ những nước này
thường mang theo công nghệ cao và những kinh nghiệm quản lý tốt, tạo cơ hội cho Việt Nam
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và tăng cường năng lực sản xuất cho những
doanh nghiệp trong nước. Điều này sẽ nâng cao sức cạnh tranh thương mại của Việt Nam trên
trường quốc tế, hướng tới cải thiện cán cân thương mại song phương Việt Nam- Trung Quốc.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp FDI nên thay đổi cung cách làm việc theo hướng tích cực hơn để
đạt được nhiều thành công hơn từ cơ hội mà triển vọng hóa CNY mang lại.
Thách thức
Bên cạnh những cơ hội mở ra, triển vọng quốc tế CNY không khỏi đem lại những âu lo cho
những nhà hoạch định chính sách cũng như nền kinh tế sản xuất trình độ tương đối thấp của
Việt Nam. Theo nghiên cứu của nhóm tác giả thì những thách thức đáng lưu tâm nhất xoay
quanh việc CNY lên giá trong bối cảnh hiện tại sẽ nằm chủ yếu trong những cơ hội mà triển
vọng quốc tế CNY mang lại bởi những điểm rỗng trong nền sản xuất của Việt Nam.
Thứ nhất, tỷ giá tăng làm suy giảm sức cạnh tranh thương mại của Trung Quốc và gia tăng
sức cạnh tranh thương mại của Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng này phụ thuộc vào
sự tăng giá của CNY trong tương lai. Bởi những ảnh hưởng tích cực mà tín hiệu tỷ giá mang
lại đã phân tích ở trên chỉ dựa trên lý thuyết, còn về thực tế điều này có thể sẽ ngược lại. Hiện
nay, sự phụ thuộc vào tỷ giá trong mối quan hệ giữa kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của
Việt Nam với Trung Quốc không phải là nhỏ. Việt Nam muốn giành lấy cơ hội tăng cường
xuất khẩu sang Trung Quốc khi CNY lên giá không phải là đơn giản. CNY lên giá, chi phí
nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc để sản xuất hàng xuất khẩu sẽ tăng cao vì tỷ
trọng rất lớn, với năng lực sản xuất còn nhiều thiếu sót và năng lực tài chính hạn hẹp, không
thể đầu tư vào công nghệ cao để giảm giá thành, sẽ đẩy giá bán của sản phẩm lên cao. Thậm
12
chí có thể lượng cung từ Trung Quốc đến Việt Nam sẽ cắt giảm do CNY lên giá, bởi các nhà
sản xuất Trung Quốc buộc phải nâng cao tính cạnh tranh bằng việc nâng cao công nghệ để hạ
giá thành và hướng tới những sản phẩm đã chế biến hoàn tất, nhằm hưởng lợi cao hơn từ giá
trị gia tăng vào sản phẩm, thay vì xuất nguyên liệu đã sơ chế, họ có thể sử dụng chính chúng
cho sản xuất trong nước. Khi ấy, Việt Nam có thể phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt
hơn từ Trung Quốc. Ví dụ cho hiện tượng này là ngành may mặc của Việt Nam với nguồn
nguyên liệu sợi nhập khẩu từ Trung Quốc lên đến 70%.
Kết quả là mặc dù sức cạnh tranh thương mại của Trung Quốc suy giảm nhưng sức cạnh tranh
thương mại của Việt Nam cũng suy giảm theo và mức độ có thể trầm trọng hơn bởi giá trị
hàng nhập khẩu trong xuất khẩu của Việt Nam chiếm áp đảo. Bên cạnh đó, xét về hầu hết các
mặt, sản xuất Trung Quốc chiếm ưu thế tuyệt đối so với sản xuất ở Việt Nam thì rất khó cho
các doanh nghiệp Việt Nam có thể chiến thắng cuộc chiến chạy đua giá thành và chất lượng
sản phẩm với Trung Quốc. Thêm vào đó, hàng hóa Việt Nam chưa gây được sự chú ý tại thị
trường Trung Quốc, trong khi hàng Trung Quốc đã chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường tiêu
dùng Việt Nam, mạng lưới phân phối và tiêu thụ rộng lớn, nên nếu tỷ giá chỉ biến động giảm
nhẹ thì sự lên giá của hàng nhập khẩu sẽ chỉ ảnh hưởng đến tiêu dùng của Việt Nam trong
ngắn hạn và nó sẽ tái lập ở mức bình thường trong dài hạn kèm theo lạm phát ở Việt Nam sẽ
gia tăng, trong khi nền kinh tế xuất khẩu có thể bị tổn thương nếu không có những chuẩn bị từ
bây giờ.
Từ đó, có thể thấy việc cải thiện cán cân thương mại là có thể thực hiện được nếu Chính phủ
có những chính sách phù hợp điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu.
Theo một số chuyên gia kinh tế, việc tăng giá CNY không mang lại tác động tích cực một
chiều cho thế giới như nhiều nước đang kỳ vọng. Ngay cả với các nền kinh tế đang nhập siêu
từ Trung Quốc cũng vậy. Bởi phần đóng góp „thực” của Trung Quốc trong giá trị sản phẩm
chỉ chiếm 20- 30%, cùng lắm là 40-50%, do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa. Nếu CNY
lên giá, Trung Quốc sẽ được hưởng lợi từ giá nhập khẩu đầu vào rẻ hơn. Tác động tiêu cực
của tỷ giá chỉ khiến phần thực này nhỏ đi5. Một quan điểm khác cho rằng CNY lên giá thì
thương mại Trung Quốc vào Việt Nam có thu hẹp, nhưng không đáng kể6.
Thứ hai, quốc tế hóa CNY có tác động đến sự di chuyển luồng vốn đầu tư, kéo theo những hệ
lụy kinh tế nếu Việt Nam không có sự khắt khe trong lựa chọn. Rõ ràng khi VND yếu đi so
với CNY thì đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ tăng lên. Trong đó đầu tư từ Trung Quốc sẽ
tăng và thậm chí còn có cả đầu tư từ những quốc gia đã đầu tư vào Trung Quốc nhận thấy sự
mạnh lên của CNY sẽ chuyển hướng sang Việt Nam. Việt Nam vẫn là một nước đang phát
triển nên việc tăng thu hút đầu tư nước ngoài có tác động tích cực cho quá trình chuyển đổi cơ
cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghệ hiện đại và học hỏi
kinh nghiệm quản lý sẽ giúp Việt Nam cải thiện, nâng cao năng lực sản xuất góp phần tạo ra
5
6
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên
TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương (CIEM)
13
những sản phẩm chất lượng tốt phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất. Tuy nhiên, không phải
bất kể luồng vốn đầu tư nào cũng được hoan nghênh ở những quốc gia đang phát triển như
Việt Nam.
Trường hợp của Trung Quốc chính là một ví dụ cho điều này. Đầu tư của Trung Quốc vào
Việt Nam tính cho đến thời điểm này là rất ít và hầu hết chỉ tập trung ở ngành công nghiệp
cấp thấp gây ô nhiễm mỗi trường, mang tính chất tận dụng nguồn tài nguyên và lao động giá
rẻ là chính và xu thế của đầu tư của Trung Quốc sang các quốc gia khác cũng vậy, nhằm tăng
cường nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất trong nước của Trung Quốc. Bởi vậy trong
tương lai, nếu dòng vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam tăng thì cũng sẽ chỉ dừng ở đầu
tư cho những ngành công nghiệp có công nghệ sản xuất thấp và lĩnh vực khai thác tài nguyên
dầu khí của nước ta. Bên cạnh đó, dòng vốn đầu tư chạy khỏi Trung Quốc chắn chắn sẽ tăng
nhưng chủ yếu là ở các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như giày da, may mặc.
Mặt khác những ngành công nghiệp máy móc như máy tính điện tử có lẽ sẽ vẫn duy trì tại
Trung Quốc và tăng cường cải thiện nâng cao năng lực sản xuất nhờ công nghệ bởi những
ngành công nghiệp máy móc điện tử ở Trung Quốc đang rất phát triển và đạt lợi nhuận cao từ
các thị trường xuất khẩu. Những doanh nghiệp này đã hình thành cơ sở hạ tầng cũng như
mạng lưới phân phối thành cụm ở vùng Hoa Nam Trung Quốc, khó để chuyển hướng di dời
đầu tư sang một quốc gia khác được. Vậy nên dòng vốn đổ vào Việt Nam đa số sẽ hướng tới
những ngành công nghiệp có tỷ lệ lao động, lắp ráp cao, cạnh tranh trong nước rất có thể sẽ
trở nên ngày càng khốc liệt.
3. Một số giải pháp
Việc Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc có thể coi là một căn bệnh kinh niên và rất khó để
chữa tận gốc bởi nó là kết quả tích tụ của nhiều năm là biểu hiện của nhiều yếu kém và chính
vì vậy “ nhóm giải pháp đồng bộ” sẽ là lời giải tốt nhất cho nhập siêu. Tuy nhiên, bên cạnh
việc đi tìm hiểu kỹ những nguyên nhân cơ bản của hiện tượng này thì Việt Nam còn có rào
cản về yếu tố thời gian, về tiềm lực tài chính và nhân tố con người để đi đến những quyết định
cho một lời giải “chính thức”. Nhóm tác giả đưa ra một số giải pháp chính sau:
Thứ nhất, lựa chọn chế độ tỷ giá phù hợp: Chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ với biên độ dao
động rộng được điều chỉnh định kì- tên gọi tắt là chế độ tỷ giá BBC (Basket, Band and Crawl
Regime) có thể là lựa chọn tối ưu cho Việt Nam trong trạng thái nền kinh tế hiện tại. Chế độ
tỷ giá BBC được coi là chế độ tỷ giá trung gian nằm giữa chế độ neo tỷ giá và chế độ tỷ giá
thả nổi. Đây là chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước với những đặc điểm riêng
có. Hiện tại thì VND được neo khá cứng nhắc với USD nhưng trong bối cảnh hiện nay thì tỷ
giá VND cần xác định dựa vào rổ tiền tệ.
Thứ hai, xây dựng một nền sản xuất chủ động và có năng lực chính: Đây là cơ sở để Việt
Nam tiến tới thực hiện những tham vọng về kinh tế và vững vàng trong những quyết định.
Bởi vậy Việt Nam cần nhanh chóng có những kế hoạch trung và dài hạn nhằm nâng cao chất
lượng nền kinh tế, từ đó, thúc đẩy kinh tế ngoại thương.
14
Thứ ba, đa dạng hóa danh mục hàng xuất khẩu nên tính đến việc xây dựng và phát triển
những sản phẩm mới sao cho phù hợp với thực lực quốc gia. Trước những giải pháp nhằm
duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu, Việt Nam cần rà soát những hạn chế tiêu cực có thể
gây ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam cũng như xáo trộn thị trường trong nước.
Vấn đề quan tâm 1: Bản quyền thương hiệu sản phẩm trong nước cần được đăng ký cẩn thận,
đặc biệt với những hàng hóa truyền thống đã có tên tuổi.
Vấn đề quan tâm 2: Hạn chế việc kinh doanh chênh lệch giá từ những thương lái Trung Quốc
theo con đường tiểu ngạch không chính thức. Những thương lái Trung Quốc đến thu mua
lương thực, thực phẩm của người Việt Nam với mức giá hời hơn mức thu mua của doanh
nghiệp trong nước gây xáo động nguồn cung nguyên liệu đầu vào và mặt bằng giá cả của Việt
Nam, thậm chí gây ra hiện tượng thiếu cung trên thị trường. Sau khi mua hàng của Việt Nam,
họ bày bán ở Trung Quốc với nhãn mác hàng xa xỉ, chạy theo nhu cầu hướng đồ ngoại, hàng
“đặc sản” của người Trung Quốc để kiếm hời nhiều lần. Những thương lái này thường có
động cơ trốn thuế và không tuân thủ những qui định mà pháp luật Việt Nam đặt ra, nhưng cơ
quan chức năng Việt Nam hiện chưa có biện pháp trừng phạt hoặc nếu có cũng không khả thi,
ngược hoàn toàn với nhà chức trách Trung Quốc xử lý việc người dân Việt Nam sang và mắc
phải những lỗi tương tự.
Vấn đề quan tâm 3: Hoạt động kinh tế ven và quanh “khu vực biển đảo” đang khiến nhân dân
e ngại về mất an toàn, điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành công nghiệp thủy sản
của Việt Nam.
Vấn đề quan tâm 4: Những nhà kinh tế Việt Nam cần nâng cao hơn nữa hiểu biết về những
thủ thục qui phạm nhằm gia tăng niềm tin với đối tác và khẳng định tác phong chuyên nghiệp
của mình trên trường quốc tế.
Vấn đề quan tâm 5: Chất lượng là nhược điểm lớn nhất của hàng hóa Trung Quốc và cũng là
một mấu chốt quan trọng cho chiến lược cạnh tranh với hàng Trung Quốc của Việt Nam.
Vấn đề quan tâm 6: Các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thuộc Bộ Ngoại Giao có
thể trở thành bộ phận quan trọng trong khâu thăm dò và đánh giá thị trường ở Trung Quốc.
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng Anh
1. Asia society RMB Handbook (3/2011). “Trading with China: The rise of offshore
renminbi business”.
2. Ha Thi Hong Van and Do Tien Sam (2008) “Viet Nam- China Trade, FDI and ODA
relations (1998-2008) and the Impacts upon Viet Nam”.
3. Jing LI (2006), “RMB as a Regional International Currency: Cost-benefit-Analysis and
Roadmap”.
4. Paola Subacchi (2010), “One Currency, Two Systems: China‟s Renminbi Strategy”.
5. Peter B Kenen (2009), “Currency internationalisation: an overview”.
15
Tài liệu tiếng việt
6. GS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2011), Giáo trình Tài chính quốc tế, NXB Thống kê, trang 295359.
7. TS. Phạm Thị Hoàng Anh (2010), “Bàn về khả năng tăng giá của CNY Trung Quốc”, Tạp
chí Ngân hàng số 13.
8. TS. Phạm Thị Hoàng Anh (2009), “Chế độ tỷ giá của Singapore và Trung Quốc: Lý thuyết,
thực tế và những gợi ý cho Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng số 10+11.
9. Lê Tuấn Thanh (2008), “Một số giải pháp liên quan đến nhập siêu của Việt Nam từ Trung
Quốc”, Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương số 10/2008.
10. Nguyễn Minh Cường, “Tại sao Việt Nam lại nhập siêu mạnh từ Trung Quốc ”.
16