Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.35 KB, 34 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW khoá VIII đã chính thức phát động
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, xem đây là như một
giải pháp chủ yếu đổi mới sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc - Một phong trào mà nội hàm của nó bao gồm phạm vi
rộng lớn liên quan đến những phong trào đang triển khai thực hiện trong thực tiễn
như: Phong trào người tốt việc tốt, xây dựng các điển hình tiên tiến trong sự
nghiệp thi đua yêu nước, phong trào xây dựng nếp sống văn hoá ở khu dân cư,
phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc... Vấn đề thực hiện trên của Đảng ta đang đặt
ra nhiều vấn đề cần suy nghĩ cả hai phương diện lý luận và thực tiễn - cũng như
hàng loạt câu hỏi đặt ra cần phải có lời giải đáp trong thực tiễn ở địa phương.
Bước vào thực hiện Nghị quyết TW 5, khoá VIII, Đảng bộ và nhân dân
Phước Hoà đã bước vào một khí thế mới. Căn cứ Nghị quyết đã có chương trình
hành động của Đảng bộ - cơ sở đã có những định hướng để xây dựng cơ chế, thiết
chế văn hoá và kết cấu hạ tầng vững chắc với những bước đi thích hợp nhằm đạt
được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Hiện nay, với xu thế chung ở các địa phương trong cả nước đều tiến hành
xây dựng gia đình văn hoá, tộc, họ văn hoá, khối phố văn hoá - Làng văn hoá, Xã,
Phường văn hoá... Đây là việc làm vô cùng cần thiết, thực hiện quan điểm chỉ
đạo, lãnh đạo của Đảng trong chiến lược xây dựng đất nước, phát triển kinh tế
phải đồng bộ với tiến bộ xã hội. Đồng thời, thực hiện một cách cụ thể nghị quyết
TW 5, khoá VIII của Đảng - Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và kể từ Ngày
09/6/2014, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW)
về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước”. Đảng ủy phường đã mở hội nghị triển khai học tập và
thực hiện Nghị quyết, cho đến nay có thể thấy rằng sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa, con người ở địa phương đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả


quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa
của toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong
phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn
1


mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ
thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại
chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt
được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia
đình, dòng họ, cộng đồng... Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở
rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán
của đồng bào được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý
nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn
thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do
sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải thấy An Sơn là một phường có cơ cấu
dân cư đông đúc, tập hợp từ nhiều vùng đến. Do đó, đời sồng văn hoá rất phong
phú, đa dạng và phức tạp trong khi ngành nghề mạnh nhất chủ yếu là Thương mại
- dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và ngư nghiệp - Song lại không ổn
định, việc quản lý sản xuất, sắp xếp lại lao động, khai thác tiềm lực tại chỗ nhằm
cải thiện đời sống nhân dân gặp không ít khó khăn.
Là một phường nằm ở vị trí trung tâm của Thành phố Tỉnh lỵ đòi hỏi địa
phương phải làm gì để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở cơ sở để phù
hợp với tình hình cấp thiết hiện nay cùng song trùng với sự đồng thuận của nhân
dân và tiến bộ xã hội. Bản thân tôi rất quan tâm đến: ”Đời sống văn hoá ở khu
dân cư”. Do đó, nhằm phục vụ cho công cuộc đổi mới ở địa phương trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá - phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội, xây

dựng Đảng đồng bộ với củng cố hệ thống chính trị, đó chính là vấn đề mang tính
cấp thiết của địa phương.
Từ những nhận thức nêu trên, đồng thời được sự hướng dẫn và giúp đỡ của
Thầy giáo Hoàng Hối, cùng các cơ quan, đơn vị chức năng. Tôi chọn đề tài: “ Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích hệ thống hoá lý luận đã học và
thực tiễn sinh động ở địa phương. Qua đó, tìm ra hướng đi và giải pháp đồng bộ
để giải quyết con người, gia đình, hệ thống tổ chức và biện pháp khác có liên
quan đến việc xây dựng gia đình, tộc, họ, thôn, khối phố, phường văn hoá của 2


theo hướng bản sắc dân tộc Việt Nam bằng phong trào“Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá ở khu dận cư”.
3. Giới hạn đề tài
Vấn đề thực trạng, giải pháp xây dựng phường văn hoá theo hướng tiên
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong nội hàm: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá tại phường” có nhiều nội dung rộng lớn, ở đây chỉ vận dụng một số
lý luận và nội dung sát đúng với thực tế địa phương để nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Dùng phương pháp logic biện chứng thống kê, chọn lọc về lý luận và
phương pháp khảo sát, điều tra thực trạng để đánh giá, tìm ra những giải pháp cấp
thiết nhất cho sự phát triển đời sống văn hoá xã hội ở cơ sở, góp phần công tác
lãnh chỉ đạo ở địa phương ngày một hiệu quả hơn.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
có 3 chương theo chi tiết sau:
+ Chương 1 : Một số vấn đề lý luận chung về văn hóa và xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở.

+ Chương 2 : Thực trạng vấn đề toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa tại - trong thời gian qua.
+ Chương 3: Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện phong trào
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở trong thời gian đến.

3


CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ
1. Những khái quát chung về Văn hóa
Năm 1998, Tổ chức Gíao dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc
( UNESCO) đưa ra quan điểm khẳng định bản chất của văn hóa : Văn hóa là tổng
thể sống động các hoạt động sáng tạo ( của các cá nhân và các cộng đồng) trong
quá khứ, trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên
hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu những yếu tố các định đặc tính
riêng của từng dân tộc ( Federico Mayor ) . Đây là tinh hoa trí tuệ của nhân loại
tiến bộ có ý nghĩa gởi mở tư duy cho quan điểm hướng tới kiến tạo nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc .
Văn hoá theo quan niệm của C.Mác – và Ph. Ăng ghen văn hóa là “ các lực
lượng bản chất người của con người tham gia cải biến tự nhiên nhằm mục đích
sinh sống và tồn tại, phát triển . Văn hóa là sự sáng tạo, đồng thời và là sự biểu
hiện của các lực lượng bản chất người : “ căn cứ vào mức độ tự nhiên được con
người biến thành bản chất người, tức là mức tự nhiên con người khai thác, cải tạo
thì có thể xem xét được trình độ văn hóa của con người ”
Mỗi hình thái kinh tế xã hội sẽ có một kiểu văn hóa xác định. Văn hóa là
giá trị riêng của dân tộc. Có văn hóa tiến bộ và văn hóa lạc hậu. Văn minh là các
nấc thang của văn hóa theo chiều hướng đi lên. Văn minh là những giá trị văn hóa
ưu tú, tỏa sáng chi phối về cấu trúc và giá trị đối với các cộng đồng xã hội trên

thế giới trong các phạm vi không gian và thời gian lâu dài. Vì vậy, cần phải xây
dựng văn hóa trên tầm cao văn minh nhân loại mà vẫn đảm bảo nét riêng. Nghĩa
là phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc .
Phát triển tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về một nền sản
xuất tinh thần in đậm tính nhân văn, một nền văn hoá của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt
hằng ngày về ăn, ở, mặc và các phương thức sử dụng khác. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
4


Từ sự tiếp cận đúng đắng bản chất văn hoá, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn coi trọng lĩnh vực văn hoá, xem nó như là
một điều kiện tiên quyết, như là một động lực và mục tiêu hướng tới. V.I. Lênin
đã từng nhấn mạnh: “Muốn tạo lập chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có một trình
độ văn hoá nhất định” và Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Muốn tạo lập chủ
nghĩa xã hội phải biến một đất nước nghèo nàn, cực khổ trở thành một đất nước
có nền văn hoá cao”.
Như vậy, có thể rút ra kết luận về văn hóa theo hai góc độ sau đây:
- Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng: là toàn bộ hoạt động sáng tao của con
người, cộng đồng, dân tộc và loài người để tạo ra, bảo tồn, giao lưu và hưởng thụ
những giá trị vật chất và tinh thần.
- Văn hóa theo nghĩa hẹp: được hiểu là một hoạt động xã hội bao gồm giáo
dục, đạo đức, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật, y tế, thể dục thể thao,
truyền thông, thông tin, thư viện, bảo tồn, bảo tàng, lễ hội, giao lưu văn hóa, ....
Từ những phân tích trên, có thể khái quát: Văn hóa với tư cách là một hiện

tượng xã hội, chính là sự phát triển năng lực bản chất của con người, không
ngừng nâng cao trình độ làm chủ của con người đối với tự nhiên, xã hội, bản
thân, nhằm thỏa mãn nhu cầu về sự hiểu biết, khám phá, sáng tạo trong thế giới
con người theo hướng ngày càng vươn tới những giá trị đích thực của CHÂN THIỆN - MỸ.
2. Những quan điểm của Đảng ta về văn hoá
Theo Nghị quyết Trung ương số 04-NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VII : Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội. Văn học, nghệ thuật là bộ phận trọng yếu của nền văn hoá dân tộc, thể hiện
khát vọng của nhân dân về chân - thiện - mỹ. Phát triển đường lối văn hoá, văn
nghệ đúng đắn của Đảng qua các thời kỳ trước, Nghị quyết Đại hội VI, Đại hội
VII và Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị Khoá VI đã tạo điều kiện cho văn hoá, văn
nghệ đạt nhiều thành tựu, đáp ứng một phần nhu cầu hưởng thụ văn hoá của các
tầng lớp nhân dân, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới.
Nền văn hoá mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cần nắm vững các tư tưởng chỉ đạo sau đây:
- Vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cốt lõi tư tưởng trong văn hoá,
văn nghệ nước ta. Sự nghiệp văn hoá, văn nghệ là bộ phận khăng khít của sự
nghiệp đổi mới. Thấm nhuần và thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
5


"Văn hoá, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ
trên mặt trận ấy".
- Bảo đảm dân chủ, tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hoá, vun
đắp các tài năng, đồng thời đề cao trách nhiệm của văn nghệ sĩ trước công chúng,
dân tộc và thời đại.
- Phát triển văn hoá dân tộc đi liền với mở rộng giao lưu văn hoá với nước
ngoài, tiếp thụ những tinh hoa của nhân loại, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt
Nam. Ngăn chặn và đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hoá độc hại,

bảo vệ nền văn hoá dân tộc.
- Nâng cao tính chiến đấu của các hoạt động văn hoá và văn học, nghệ
thuật, khẳng định mạnh mẽ và sâu sắc những nhân tố mới, những giá trị cao đẹp
của dân tộc ta, khắc phục những gì cản trở quá trình đi lên của đất nước. Phê
phán cái sai, lên án cái ác, cái xấu là để hướng con người tới cái đúng, cái tốt, cái
đẹp. Đấu tranh không khoan nhượng chống các luận điệu độc hại của các thế lực
thù địch.
- Văn hoá, văn nghệ là sự nghiệp của toàn xã hội. Phát triển các hoạt động
văn hoá văn nghệ của Nhà nước, tập thể và cá nhân theo đường lối của Đảng và
sự quản lý của Nhà nước. Khắc phục tình trạng "hành chính hoá" các tổ chức văn
hoá, nghệ thuật và xu hướng "thương mại hoá" trong lĩnh vực này .
Đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng ta suốt mấy mươi năm qua bắt
nguồn từ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đường lối đó cũng là sự kết hợp giữa nguyên tắc cách mạng với truyền
thống vốn có của dân tộc. Một nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc mà chúng
ta xây dựng phải là nền văn hoá tiên tiến mà từ trong nội dung tư tưởng, hình
thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung, trong hoạt động văn
hoá, sáng tạo văn hoá, tác phẩm văn hoá nghệ thuật, trong ứng xử văn hoá… phải
thể hiện rõ nét và sâu sắc những phẩm cách đặt biệt của bản sắc văn hoá Việt
Nam. Bản sắc văn hoá Việt Nam là: “Những giá trị bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng, các dân tộc Việt nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình –
làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính
cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống… đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo”.
6


Trong những bước ngoặc của lịch sử đất nước, Đảng ta kịp thời đề ra

những đường lối, chủ trương thích hợp nhằm xây dựng nền văn hoá mới, với chủ
trương đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy, đã tạo nên bầu không khí
mới cho đời sống văn hoá, văn nghệ nước ta, Đảng ta đã chỉ rằng: Trong sự
nghiệp xây dựng nền văn hoá mới cần đặc biệt chú trọng việc xây dựng quan hệ
xã hội và lối sống lành mạnh, khắc phục những hiện tượng tiêu cực. Điều này đã
được nhấn mạnh trong văn kiện đại hội VI của Đảng là:”Không một hình thái tư
tưởng nào có thể thay đổi được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình
cảm lành mạnh, tác dụng sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con
người”.
Nghị quyết 05 của Bộ chính trị (Khoá VI) cũng khẳng định rằng:”Văn hoá
là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát
triển chung của đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra
những cái giá trị văn hoá, những công trình nghệ thuật đã được lưu truyền từ đời
này sang đời khác làm giàu đẹp thêm cho đời sống con người”.
Nhận thức nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với quan hệ của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà chúng ta có dịp đề cập. Các Đại hội
đại biểu lần thứ VII, VIII và IX đã phát triển thêm một bước nhận thức của Đảng
về lĩnh vực văn hoá, văn nghệ. Đảng ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã
hội, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội. Từ nhận thức mới
đó, hội nghị lần thứ 4 BCH TW (khoá VII), hội nghị lần thứ 2 và lần thứ 5 BCH
TW (khoá VIII) đã tập trung giải quyết những vấn đề văn hoá bao gồm: Văn học
nghệ thuật, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, vấn đề tư tưởng, đạo đức, lối
sống. Cái mới mà Nghị quyết lần này nêu lên là gắn văn hoá với sự nghiệp công
nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, gắn văn hoá với những vấn đề nảy sinh trong
xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, đặc biệt là với kinh tế thị trường. Đây là những
vấn đề vừa có tính bức xúc vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự phát triển đất nước.
Thực tế đời sống ở đất nước ta trong những năm qua chứng minh rằng, mặt
trái của kinh tế thị trường và quá trình mở cửa hội nhập cũng có tác động xấu đến
đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân. Xu hướng thương mại hoá đã và đang
thâm nhập vào mọi lĩnh vực văn hoá đời sống, đi ngược lại với các giá trị chân,

thiện, mỹ làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng đời sống văn hoá tinh
thần của nhân dân ta.
Theo Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 BCH TW (khoá VIII) đã xác định
phương hướng xây dựng và phát triển nền văn hoá nước ta trong thời kỳ mới là:
7


“Phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc
lập, tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và
phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động
của xã hội, vào từng người, từng gia đình từng tập thể và cộng đồng, từng địa
bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất
nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển
phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội”.
Đảng ta đã nêu lên 5 quan điểm, 10 nhiệm vụ cụ thể và các nhiệm vụ cấp
bách nhằm chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển nền văn hoá của đất nước ,
nhất là phát động phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư. Những quan điểm và nhiệm vụ ấy thể hiện thành mô hình mang tính đặc
trưng cho việc xây dựng đời sống văn hoá tinh thần trong giai đoạn cách mạng
mới, cụ thể:
- Đời sống văn hoá tinh thần ở nước ta là đời sống in đậm những phẩm
chất tốt đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc vừa phù hợp vừa đạt tới sự tiến bộ của
các trào lưu văn hoá tiên tiến của nhân loại.
- Thế giới quan Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cốt lõi của đời sống
văn hoá tinh thần Việt Nam, là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động văn hoá tinh thần.
- Đời sống văn hoá tinh thần Việt Nam là một bộ phận trọng yếu của nền

văn hoá thống nhất và đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đó là đời
sống văn hoá tinh thần cao đẹp, luôn hướng tới giá trị vĩnh hằng chân, thiện, mỹ
nhằm mục tiêu: “Tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú,
tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng
đồng, giữa xã hội và tự nhiên”.
- Công cuộc đổi mới đất nước đã tạo ra một bước đột phá cho phát triển
kinh tế xã hội, nâng cao về mọi mặt đời sống của nhân dân, trong đó có văn hoá.
Và để đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới, Đảng ta đưa ra
những nội dung chủ yếu về xây dựng đời sống văn hoá tinh thần:
+ Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới phải có
tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với
8


nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến
bộ xã hội, đề cao tinh thần tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối
sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng
kỹ cương, phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái, lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng
tạo, năng suất cao, vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội, thường
xuyên học tập nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể
lực.
+ Con người với những đức tính nêu trên vừa kế thừa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, vừa có những đức tính phù hợp trong thời kỳ mới, xây dựng con
người với đức tính như vậy đòi hỏi cần có sự rèn luyện và ý thức vươn lên của
mỗi con người, góp phần điều chỉnh hành vi cá nhân, đánh giá lại những chuẩn
mực đạo đức trong thời kỳ mới.
+ Xây dựng môi trường văn hoá đa dạng, phong phú, lành mạnh, có đủ cơ
sở vật chất đáp ứng nhu cầu, thưởng thức nghệ thuật, tiếp nhận thông tin, vui

chơi giải trí ... cho mọi người, xây dựng môi trường văn hoá hài hoà với môi
trường tự nhiên, chú ý xây dựng môi trường văn hoá ở cơ sở, vùng sâu, vùng xa
đáp ứng nhu cầu văn hoá lành mạnh, đa dạng và không ngừng tăng lên của các
tầng lớp nhân dân, thu hẹp dần khoảng cách về đời sống văn hoá tinh thần giữa
các địa bàn, các khu vực.
+ Phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật. Mọi phương pháp, phong cách
sáng tác cần được khuyến khích để tìm tòi thử nghiệm, dựa trên cơ sở căn bản, vì
mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích công chúng, chứ không
phải là sự thí nghiệm tìm tòi theo khuynh hướng suy đồi phi nhân tính.
+ Phải hết sức coi trọng bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền
thống, văn hoá cách mạng, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể. Những đạo
lý dân tộc được hun đúc từ bao đời nay như lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường,
tinh thần cố kết cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, cần cù lao
động... là sản phẩm tinh tuý nhất của di sản văn hoá tinh thần Việt Nam mà chúng
ta phải có trách nhiệm nghiên cứu giáo dục sâu rộng nhằm bảo tồn, kế thừa và
phát huy.
Theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Nghị quyết đề
ra :
9


Mục tiêu chung là: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát
triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.”
Mục tiêu cụ thể:

- Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo
môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực
sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân
thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm
của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.
- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng
văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng
đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành
nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách.
- Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây
dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp
văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam.
- Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và
nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự
xuống cấp về đạo đức xã hội.
Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta đã nêu lên những quan điểm:
Quan điểm:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã
hội.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân
tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
10



- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây
dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước,
nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
- Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến
yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò
quan trọng.
3. Nội dung xây dựng đời sống văn hóa mới
3.1. Nội dung đại đoàn kết toàn dân của MTTQVN
+ Đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, làm giàu hợp pháp và xóa đói
giảm nghèo .
+ Đoàn kết phát huy truyền thống tương thân, tương ái, hoạt động nhân đạo
và đền ơn đáp nghĩa.
+ Đoàn kết phát huy dân chủ giữ vững kỷ cương, mọi người sống và làm
việc theo pháp luật và Quy ước của cộng đồng.
+ Đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, giữ gìn thuần phong mỹ tục trong
nhân dân.
+ Đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí và thực hiện
chương trình chăm lo sức khỏe ban đầu cho mọi người.
+ Đoàn kết xay dựng cơ sở chính trị trong sạch vững mạnh, gắn bó với
nhân dân.
3.2. Tiêu chí gia đình, tộc họ, khối phố văn hoá
+ Gia đình no ấm, hoà thuận, hạnh phúc tiến bộ:
- Ông bà, cha, mẹ... già yếu được nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo.
- Trẻ em được chăm sóc dạy dỗ, học hành, vui chơi giải trí.
- Người lớn trong gia đình nêu gương tốt cho con em.
- Trẻ em chăm học, chăm làm, lễ phép, hiếu thảo.

- Các thành viên trong gia đình đều yêu thương, đùm bọc, có trách nhiệm
chăm lo xây dựng hạnh phúc, tiến bộ, có cử chỉ, lời nói đúng mực.
- Vợ chồng hoà thuận, chung thuỷ, bình đẳng
- Giải quyết tốt các mâu thuẫn trong gia đình, không gây bất hoà lớn.
11


+ Thực hiện kế hoạch hoá gia đình:
- Thực hiện chỉ tiêu, pháp lệnh của nhà nước về sinh đẻ có kế hoạch.
- Biết cách làm ăn, phát triển kinh tế gia đình, tạo việc làm và thu nhập
chính đáng.
- Biết chi tiêu hợp lý, tiết kiệm. Việc cưới, tang, giỗ chạp, tết, liên hoan,
sinh nhật, mừng thọ... được tổ chức giản dị, lành mạnh, tiết kiệm, phù hợp với
điều kiện kinh tế gia đình.
+ Đoàn kết tương trợ xóm giềng:
- Đoàn kết giúp đỡ hàng xóm khi hoạn nạn, khó khăn và lúc cần thiết khác.
- Tôn trọng quyền lợi và cuộc sống riêng tư của hàng xóm, không làm ảnh
hưởng đến kinh tế, sự yên tĩnh, sự ổn định của hàng xóm.
- Nếu có mâu thuẫn, giải quyết bằng sự hoà giải, thân tình, không gây gỗ,
cãi vã, chửi bới nhau.
- Thực hiện quy ước chung của tập thể về các mặt: Vệ sinh, sạch đẹp môi
trường, khu vực chung cư...
+ Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân:
- Gia đình không có người vi phạm pháp luật và những quy định của chính
quyền các cấp. Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân (bảo vệ tổ quốc, thuế, lao động,
công nợ...)
- Không có người mắc phải các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, mê tín,
dị đoan...
- Không sử dụng văn hoá phẩm có nội dung xấu, phản động, đồi truỵ...
- Các thành viên trong gia đình tích cực tham gia sinh hoạt đoàn thể theo

giới tính và các hoạt động xã hội.
3.3. Phong trào của các ngành và đoàn thể
Ngoài những nội dung và tiêu chí trên, các ngành đoàn thể đã tiến hành
thành lập Ban chỉ đạo và xây dựng các chương trình, kế hoạch để thực hiện các
phong trào cụ thể như: Mặt trận tổ quốc Việt Nam tiếp tục và mở rộng, nâng cao
chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở”; Ngành thể dục thể thao phát động phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể
theo gương Bác Hồ vĩ đại”; ngành giáo dục đào tạo phát động phong trào “Học
tốt, dạy tốt”, “Gia đình nhà giáo văn hoá”, “Kỷ cương, tình thương, trách
nhiệm”, “Đơn vị cơ sở có đời sống văn hóa tốt”; Hội liên hiệp phụ nữ với phong
trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”;
Hội nông dân phát động phong trào “Xây dựng gia đình nông dân văn hoá”;
12


Đoàn TNCS Hồ Chí Minh gắn phong trào “Tuổi trẻ lập thân, lập nghiệp” với
phong trào xây dựng “Chi đoàn văn hoá”.v.v...
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VỀ PHONG TRÀO TOÀN DÂN ĐOÀN KẾT
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA ,
THÀNH PHỐ TAM KỲ TRONG THỜI GIAN QUA
1. Thực trạng về phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa của
- thành phố Tam Kỳ
1.1. Đặc điểm chung về .
1.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên.
An Sơn là một phường trung tâm thuộc thành phố Tam Kỳ, tỉnh . Địa bàn
gồm có 08 khối phố, chia thành 60 tổ đoàn kết. Phía Nam giáp xã Tam Xuân I,
huyện Núi Thành; phía Tây giáp xã Tam Ngọc và phường Trường Xuân; phía
Bắc giáp phường An Xuân; phía Đông giáp phường Hòa Hương và Hòa Hương.

Tổng diện tích tự nhiên là 247ha, là phường có diện tích tự nhiên lớn của
thành phố Tam Kỳ; có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Phường nằm ở vị trí trung tâm một thành phố ở trung độ của cả nước, trung tâm
của các huyện, thị phía Nam tỉnh , có cả hệ thống đường bộ và đường thủy.
Sông Tam Kỳ là ranh giới phía Nam, bắt nguồn từ xã Tam Trà, Núi Thành (nay
đã ngăn dòng làm hồ Phú Ninh) hợp lưu với sông Trường Giang chảy ra cửa An
Hòa (huyện Núi Thành). Sông Tam Kỳ phẳng lặng, lưu lượng dòng chảy ít, tạo
thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản. Một thuận lợi khác trong giao thông của An
Sơn có quốc lộ 1A, đường Nam chạy qua, hệ thống giao thông rất thuận lợi cho
phát triển kinh tế, giao lưu hành hóa.
An Sơn mang đặc điểm vùng khí hậu duyên hải. Nhiệt độ trung bình hàng
năm là 26ºc, lượng mưa trung bình hàng năm 2.490mm, giờ nắng trung bình
trong ngày 5 - 9 giờ, độ ẩm trung bình trong năm 83%. Mùa mưa diễn ra từ tháng
9 năm trước đến tháng 01 năm sau. Mùa nắng tập trung chủ yếu vào những tháng
mùa hè.
1.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội, an ninh, chính trị.
Tổng số hộ tính đến tháng 12/2015 là 2.935 hộ với 13.208 nhân khẩu. Mật
độ dân số bình quân 4.891người/km2. Dân số phân bổ không đều giữa các tổ đoàn
13


kết và khối phố trên địa bàn, dân số tăng tương đối do tăng tự nhiên và tăng cơ
học.
- Về lao động: Nguồn lao động dồi dào, chiếm trên 50% dân số toàn
phường.
Trên địa bàn có Chợ An Sơn, Siêu thị Nguyễn Văn Cừ, Công viên, Sân
bóng đá mi ni…và các cơ quan doanh nghiệp đóng trên địa bàn thuận lợi trong
việc giao lưu kinh tế, VHXH. Về cơ cấu kinh tế chủ yếu là TMDV chiếm 82%,
CN- TTCN 15,8%, nông nghiệp 2,2%, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng
năm tăng 20%. Giá trị TM-DV 1.460 / 1.399 tỷ đồng, đạt 104 %; giá trị CNTTCN-XD đạt 246 /219,5 tỷ đồng, đạt 112 %.

Nhìn chung, đời sống kinh tế của nhân dân trong những năm qua đã được
nâng lên đáng kể, thu nhập bình quân đầu người hàng năm đều tăng, tính đến cuối
năm 2015 thu nhập bình quân đầu người đạt gần 42 triệu đồng/người/năm, tăng
100% so với năm 2010, tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 2 % xuống còn 0,77% theo tiêu
chí mới (năm 2015 có 23 hộ nghèo). Hàng năm giải quyết từ 400 đến 450 lao
động có công ăn việc làm tương đối ổn định, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần
của nhân dân ngày càng được nâng cao, phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư ngày càng phát triển, các thiết chế văn hóa ngày càng hoàn thiện,
100% khối phố có nhà sinh hoạt văn hóa, các kiệt hẻm được bê tông hóa 100%,
phong trào VHVN, TDTT được duy trì và phát triển.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm đúng mức, hoàn
thành các chương trình y tế cộng đồng, thực hiện tốt các tiêu chí về giáo dục, y tế,
dân số, gia đình và trẻ em. Đến nay đã hoàn thành chương trình PCGD bậc PTTH
và tiếp tục giữ vững phổ cập THCS, Tiểu học. Tỷ lệ huy động trẻ em ra lớp hàng
năm đạt 100%, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng hàng năm giảm 1%.
Thực hiện tốt công tác cứu tế cứu đói, tổ chức thăm hỏi, động viên, tặng
quà và giải quyết tốt các chế độ cho đối tượng chính sách và xã hội trên địa bàn
phường, đảm bảo kịp thời, chính xác, đúng đối tượng, không xảy ra khiếu nại,
khiếu kiện liên quan đến lĩnh vực bảo trợ xã hội.
1.1.3 Về Mãnh đất - con người của
- Quá trình hình thành và phát triển của
ngày nay gắn liền với những
chặn đường lịch sử phát triển của – trong suốt những thế kỷ qua, từ thuở tiền
nhân hồng ân đi mở cõi dừng bước, lưu dân, định cư, từ thế kỷ 15 – 17 trong cuộc
hành trình mở cõi về phương Nam:
“Hồ, Huỳnh, Trần, Nguyễn, Đỗ, Đinh, Lê
14


Đồng hướng Nam du, hội nhất tề

Lộ khai, lưu hậu, truyền tôn tử
Kiến thành, tất đạt, cảnh tân quê”
- Nhân dân An Sơn có truyền thống cần cù sáng tạo trong lao động sản
xuất và truyền thống yêu nước, yêu quê hương, tinh thần đoàn kết bất khuất trong
đấu tranh chống ngoại xâm. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, nhiều người dân An Sơn
đã tích cực tham gia phong trào Cần Vương của nghĩa hội .
- Đặc biệc từ khi có Đảng ra đời, từ năm 1930 – 1945 nhiều phong trào
cách mạng của quần chúng: Đội dân sinh, dân chủ, chống thuế luỹ tiến môn bài,
tổ chức truy điệu cụ Phan Chu Trinh, xin giảm án cụ Phan Sào Nam, truyền bá
văn thư của Cụ Huỳnh Thúc Kháng từ Côn Đảo gửi về, tổ chức mặt trận Việt
minh cứu quốc, vận động dân chúng công khai làm lễ truy điệu đồng chí Phan
Thanh.
- Từ năm 1930 – 1940 trở thành phủ ủy Tam Kỳ có 12 chi bộ, 70 Đảng
viên do đ/c Võ Chí Công (Võ Toàn làm bí thư).
- Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 08/1945 tại Tam Kỳ do cụ
Lê Thế Kỷ làm trưởng ban, đ/c Võ Văn Quý chỉ huy đã phát lệnh tổng khởi nghĩa
chỉ đạo đoàn quân cách mạng tiến vào chiếm phủ Tam Kỳ giành chính quyền về
tay nhân dân vào ngày 19/08/1945.
- Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nhân dân An Sơn
tiếp tục đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, tham gia bảo vệ nuôi, giấu
cán bộ... góp phần đáng kể vào đại thắng mùa xuân năm 1975. Kết thúc hai cuộc
kháng chiến, trải qua 30 năm chiến đấu đầy gian khổ hy sinh nhưng vô cùng oanh
liệt hào hùng,
được tổ quốc tuyên dương 04 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 90
người con thương yêu trở thành liệt sĩ, 50 thương bệnh binh, 140 gia đình nhà
nước ghi công.
- Sau ngày quê hương được giải phóng, trước muôn vàng khó khăn, thử
thách, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân An Sơn đã kiên trì, cùng với Thành phố
đã tập trung sức lực hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh
tế xã hội, đưa nền kinh tế của phường từng bước tăng tưởng, văn hoá xã hội ngày

càng được khởi sắc. Đặc biệt trong những năm gần đây, thực hiện các cuộc vận
động nếp sống văn minh, gia đình văn hoá và “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá” đã được triển khai mạnh mẽ trên địa bàn toàn phường, bước đầu
đã mang lại những hiệu quả hết sức thiết thực trong đời sống xã hội, đã góp phần
khơi dậy tinh thần đạo lý nhân cách, lối sống văn hoá văn minh, củng cố xây
15


dựng khối đại đoàn kết trong toàn dân, tạo điều kiện cho kinh tế xã hội không
ngừng phát triển.
1.2. Thực trạng công tác xây dựng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa tại
1.2.1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới
Ngay từ đầu của cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn
hóa và triển khai Đề án giai đoạn 1 (1999-2005), nhiệm vụ xây dựng con người
văn hóa đã được xem là tiền đề có tính chất cốt lõi để phát triển và nâng cao chất
lượng các mô hình văn hóa gia đình, tộc họ, cộng đồng dân cư, cơ quan, doanh
nghiệp, trường học…với mục tiêu chung là: Tập trung xây dựng con người An
Sơn phát triển toàn diện, có đầy đủ những tố chất tốt đẹp về bản lĩnh chính trị,
đạo đức, lối sống, tình cảm và năng lực trí tuệ để xứng đáng là chủ nhân của văn
hoá An Sơn.
Đến Đề án giai đoạn 2 (2006-2010) và giai đoạn 3 (2011-2015), nhiệm vụ
và nội dung xây dựng con người văn hóa được xác định một cách rõ ràng, cụ thể
hơn với vấn đề cốt lõi hàng đầu là chú trọng xây dựng nếp sống, bao gồm: Nếp
sống cá nhân, nếp sống gia đình và nếp sống xã hội; trong đó đặc biệt đề cao xây
dựng Nếp sống văn hóa - văn minh của mỗi cá nhân, làm cho mỗi người có nhận
thức và hành vi văn hóa, sống và làm việc theo pháp luật, tôn trọng các chuẩn
mực đạo đức và các quy ước cộng đồng. Trên cơ sở 5 đức tính của con người
Việt Nam trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng ta xác
định, và Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) khẳng định lại, đây là cơ sở

để xây dựng nếp sống văn hóa cho mỗi con người :
Thứ nhất "Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn
lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội".
Thứ hai "Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung".
Thứ ba "Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo
vệ và cải thiện môi trường sinh thái".
Thứ tư "Lao động chăm chỉ vì lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạ.
Thứ năm "Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mỹ và thể lực".
16


Trong thực tế đã xuất hiện nhiều phong trào như: Mặt trận tổ quốc Việt
Nam phường tiếp tục và mở rộng, nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư”; Bộ phận văn hóa thông tin - thể
dục thể thao với phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ
đại”; khối giáo dục đào tạo với phong trào “Học tốt, dạy tốt”, “xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực”,“Gia đình nhà giáo văn hoá”; Công đoàn
phường với phong trào “Xây dựng người cán bộ, công chức trung thành, sáng
tạo, tận tụy, gương mẫu”,“Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”, “Đơn vị cơ sở
có đời sống văn hóa tốt”; Hội Liên hiệp phụ nữ với phong trào “Phụ nữ tích cực
học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Nuôi con khỏe, dạy
con ngoan”; Hội Nông dân phát động phong trào “Xây dựng gia đình nông dân
văn hoá”; Đoàn TNCS Hồ Chí Minh gắn phong trào “Tuổi trẻ lập thân, lập
nghiệp” với phong trào xây dựng “Chi đoàn văn hoá; Hội Người Cao tuổi với
phong trào “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo; v.v...Việc bình xét,
nhân rộng các điển hình tiên tiến, các gương “Người tốt - việc tốt” được quan

tâm, gắn với phong trào thi đua yêu nước và cuộc vận động học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
1.2.2. Xây dựng môi trường văn hóa
Vốn là một đô thị thương mại - dịch vụ đa dạng các nền văn hóa. Vì vậy,
ngay từ khi bắt tay xây dựng đời sống văn hóa khởi đầu là phong trào xây dựng
nếp sống văn minh - gia đình văn hóa, An Sơn đã đặt vấn đề xây dựng môi
trường văn hóa thông qua xây dựng nhân cách cá nhân và lối sống, nếp sống của
cộng đồng dân cư, nhưng đồng thời cũng gắn với việc cải thiện và nâng cao chất
lượng của môi trường sinh thái tự nhiên. Trong đó, lấy việc ứng xử, thái độ của
con người với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội để làm chuẩn mực phấn
đấu thông qua việc xây dựng các mô hình văn hóa.
- Mô hình xây dựng Gia đình văn hóa ra đời từ năm 1995. Quy ước GĐVH
nhiều lần được điều chỉnh, bổ sung tập trung vào 4 tiêu chuẩn cơ bản về: Xây
dựng các mối quan hệ gia đình tốt đẹp, đời sống vật chất và tinh thần của gia đình
ngày càng được nâng lên, gắn bó mật thiết với cộng đồng dân cư, gương mẫu tự
giác chấp hành pháp luật. Quy trình đăng ký, bình xét, công nhận, khen thưởng
GĐVH hàng năm được tiến hành chặt chẽ, phát huy vai trò tự quản của mỗi gia
đình và từng tổ dân cư và mang lại kết quả tốt đẹp, năm sau cao hơn năm trước cụ
thể: Năm 2012,2013, 2014 đạt 83,5 %, đến năm 2015 đạt 93,2%.
17


- Tộc họ văn hoá là mô hình đặc thù ở An Sơn, tập trung vào những nội
dung cơ bản về giữ gìn luân thường đạo lý, nền nếp gia phong, hiếu đễ, khuyến
học, khuyến thiện, lập thân, đoàn kết... Hiện nay, địa phương đang trong quá trình
xây dựng các nội dung quy ước tộc văn hóa, chuẩn bị các bước tiến hành thành
lập Ban đại diện các Hội đồng gia tộc nhằm tăng tính tự quản và nâng cao chất
lượng của mô hình này.
- Thôn/khối phố văn hoá: đến nay phường đã có 5/8 khối phố đạt khối phố
văn hoá, trong đó có 01 khối phối văn hóa kiểu mẫu (khối phố 6).

- Xã/phường văn hoá: tiêu chuẩn xã/phường văn hóa được xây dựng trên
cơ sở kết hợp các nội dung của phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa với các nhiệm vụ chính trị - kinh tế - xã hội ở địa phương.
- Việc thực hiện các quy định về xây dựng nếp sống văn minh trong việc
cưới, việc tang, lễ hội được đông đảo các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tham gia,
nhiều tộc họ đã tiên phong trong việc vận động con cháu tự giác chấp hành các
quy định về nếp sống văn minh. Nổi bật là việc tang bước đầu đã có sự biến
chuyển trong việc thực hiện các quy định về không vứt rác, không rải các loại
vàng mã, tiền giấy, tiền xu trên các đường phố, không còn tình trạng tổ chức cúng
bái linh đình, mê tín dị đoan và các hủ tục, giảm thiểu bệnh phô trương hình thức.
- Các chương trình hành động “Vì môi trường xanh, sạch, đẹp và an
toàn”, (gồm môi trường an ninh - trật tự xã hội, môi trường vệ sinh, môi trường
trật tự giao thông, môi trường cảnh quan, môi trường kinh doanh - dịch vụ - môi
trường thông tin...), trồng, chăm sóc và bảo vệ cây xanh…được các tầng lớp nhân
dân và du khách nhiệt tình hưởng ứng và tự giác thực hiện.
Chính nhờ phong trào xây dựng các mô hình văn hóa được đẩy mạnh mà
các cuộc vận động quần chúng khác trên nhiều lĩnh vực được triển khai thuận lợi
và đạt kết quả tốt. Phong trào toàn dân đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển kinh tế,
giảm nghèo, làm giàu hợp pháp đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết giúp đỡ
nhau tại cộng đồng khu dân cư và sự tự nỗ lực vươn lên của người dân. Ngày
càng có nhiều các mô hình làm kinh tế có hiệu quả, góp phần làm cho đời sống
nhân dân được khấm khá hơn, hộ khá, giàu tăng, hộ nghèo giảm một cách bền
vững. Đặc biệt, các phong trào đã tác động tích cực đến quá trình huy động các
nguồn lực trong nhân dân nhằm giải quyết những vấn đề có tính thiết yếu đối với
cuộc sống tại cộng đồng dân cư, chăm lo cho gia đình chính sách, phụng dưỡng
Mẹ Việt Nam anh hùng, người có công với nước; vận động nhân dân đóng góp
quỹ “Vì người nghèo” để xây dựng nhà ở cho hộ nghèo; đến năm 2012 hoàn
18



thành xóa nhà tạm cho hộ chính sách khó khăn và hộ nghèo, tiếp tục hỗ trợ sửa
chữa nhà xuống cấp cho các hộ chính sách, hộ nghèo; vận động nhân dân tự
nguyện đóng góp tiền, của, công sức, đất đai để xây các thiết chế văn hóa - khu
sinh hoạt, hội họp của nhân dân. Cùng với việc chăm lo phát triển kinh tế, các
lĩnh vực xã hội cũng được quan tâm. Các chương trình y tế quốc gia và chương
trình y tế khác được triển khai đồng bộ và được nhân dân hưởng ứng tích cực,
đến nay số hộ có hố xí hợp vệ sinh chiếm tỷ lệ 99%, sử dụng nước hợp vệ sinh
chiếm tỷ lệ 100%. Tình hình ANCT - TTATXH được giữ vững, ổn định, không
phát sinh các điểm nóng, các vụ khiếu kiện đông người. Các tệ nạn xì ke, ma túy,
mại dâm, băng nhóm tội phạm, cướp giật, người ăn xin, lang thang cơ nhỡ, bu
bám, chèo kéo, giành giật du khách, đồng bóng bói toán, cá độ, đua xe lạng lách...
đã và đang được đặc biệt quan tâm đấu tranh, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi. Cảnh
quan phố phường, thôn xóm cơ bản sạch đẹp, trật tự, yên vui.
1.2.3. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa trên địa bàn:
Di sản văn hóa là tài sản vô cùng quí giá, gắn kết cộng đồng, là cốt lõi của
bản sắc dân tộc, kết hợp hài hòa việc bảo tồn và phát huy di sản với các hoạt động
phát triển kinh tế du lịch, chú trọng việc giáo dục truyền thống lịch sử, cách mạng
cho các tầng lớp nhân dân
1.2.4 Xây dựng ý thức chấp hành nghiêm chủ trương chính sách của Đảng
pháp luật nhà nước
+ Thường xuyên tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật Nhà nước đến với nhân dân, trong đó tập trung triển khai học tập các Luật,
Pháp lệnh, Nghị định có liên quan mật thiết với nhân dân như: Luật Đất đai; Luật
bầu cử Đại biểu HĐND; Luật tổ chức HĐND- UBND; Pháp lệnh dân số; Nghị
quyết 09/CP; Nghị định 51/CP... nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc
thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở, quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ. Nhìn chung đại
đa số nhân dân trong phường chấp hành tốt chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước.
+ Hoạt động của Đảng, Chính quyền, Mặt trận, các ban ngành đoàn thể từ
Phường đến Khối phố được thể hiện một khối thống nhất, tập trung vận động

nhân dân thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, các khoản thu trong năm đều đạt
và vượt chỉ tiêu Thành phố giao. Đảng bộ, chính quyền đều hoàn thành nhiệm vụ
được thành phố tặng nhiều giấy khen, Mặt trận, các ban ngành đoàn thể đều hoàn
thành nhiệm vụ.
1.2.5. Xây dựng và thực hiện thể chế văn hóa
19


- Vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với văn hóa không chỉ dừng lại ở
việc đề ra những chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo mà còn thể hiện sinh động trong
quá trình trực tiếp điều hành, quản lý phong trào. Ban chỉ đạo xây dựng xây
dựng ĐSVH ở phường, thôn/khối phố, cơ quan, đơn vị, trường học đều do lãnh
đạo cấp ủy Đảng làm trưởng ban. Các vấn đề liên quan đến công tác văn hóa
được đề cập trong nội dung các buổi giao ban hàng tuần, hàng quý của Thường
trực Đảng ủy.
- Các chương trình hành động của Đảng bộ được thể chế hóa bằng các đề
án của UBND và nghị quyết của HĐND phường về văn hóa. Bên cạnh các quy
ước cộng đồng, UBND phường đã ban hành nhiều quy định quan trọng về công
tác vệ sinh môi trường, giải quyết các tệ nạn xã hội, trật tự kinh doanh, quy chế
quản lý các hoạt động quảng cáo, viết đặt biển hiệu;...tích cực thực hiện các cơ
chế, chính sách “kinh tế trong văn hóa” nhằm phát huy giá trị của văn hóa trong
các hoạt động kinh tế, “văn hóa trong kinh tế” đảm bảo cho văn hóa thể hiện rõ
trong các hoạt động kinh tế; xã hội hóa các hoạt động văn hóa nhằm động viên
sức người sức của của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng và
phát triển văn hóa.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, quản lý của chính quyền đối với sự nghiệp
xây dựng và phát triển đời sống văn hóa còn được thể hiện bởi sự gương mẫu của
cán bộ, đảng viên, của các tổ chức cơ sở Đảng và tổ chức bộ máy nhà nước. Việc
đánh giá, phân loại đảng viên, bình xét công chức hằng năm đều căn cứ vào kết
quả thực hiện các tiêu chuẩn về xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn hóa ở

địa bàn dân cư. Việc xét công nhận danh hiệu trong sạch vững mạnh đối với các
tổ chức cơ sở Đảng và phong trào thi đua yêu nước của các địa phương, đơn vị
cũng căn cứ vào kết quả chỉ đạo điều hành phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” ở cơ sở.
- Ngân sách hàng năm giành cho sự nghiệp văn hóa được tăng đáng kể
(đứng thứ hai sau ngân sách đầu tư cho sự nghiệp giáo dục), kinh phí phục vụ cho
công tác chỉ đạo và điều hành phong trào XD ĐSVH luôn được đảm bảo. Một số
thiết chế văn hóa trọng điểm được đầu tư xây dựng, đến nay có 08/08 khối phố có
nhà sinh hoạt hội họp cho nhân dân.
- Hệ thống tổ chức, bộ máy các làm công tác văn hoá được củng cố, kiện
toàn. Nguồn kinh phí và trang thiết bị, phương tiện phục vụ các hoạt động văn
hoá - thể thao được quan tâm đầu tư. Chính sách đào tạo, phát huy, đãi ngộ đối
với cán bộ văn hoá và đội ngũ văn nghệ sĩ ngày càng được chú trọng đảm bảo
20


yêu cầu hoạt động ở cơ sở; hàng năm tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý văn
hóa cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, Ban vận động XD ĐSVH xã/phường và
thôn/khối phố.
2. Đánh giá chung:
2.1. Ưu điểm
Trong thời gian qua với việc thực hiện“xây dựng gia đình văn hóa, khối
phố văn hóa, phường văn hóa” gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” đã được triển khai rộng khắp trên toàn phường và được các
tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng sôi nổi và thực sự đi vào lòng dân một
cách thiết thực từ trong suy nghĩ, đối nhân xử thế, trong giao tiếp hằng ngày, thể
hiện được trách nhiệm của mỗi người dân về xây dựng nếp sống văn hóa, văn
minh đô thị bước đầu đã có những kết quả nhất định. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng,
xã hội tiến bộ, an ninh quốc phòng đảm bảo, đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân được được cải thiện. Đến nay, phường đã có 8/8 khối phố xây dựng đề án,

quy ước văn hoá và tổ chức lễ phát động xây dựng khối phố văn hoá.
2.2. Tồn tại - hạn chế
Bên cạnh những thành tích, những việc đã làm được, thực chất phong trào
xây dựng đời sống văn hoá của phường hiện nay vẫn còn bộc lộ một số mặt yếu
kém, tồn tại đã tác động đến việc xây dựng gia đình, tộc, họ, phường văn hóa:
- Kinh tế có phát triển, song vẫn còn nhiều mặt hạn chế nên tính chất bền
vững chưa cao; đời sống của một số hộ gia đình còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ
nghèo chiếm 0,77%, lối sống buông thả, thực dụng, chạy theo đồng tiền, xem nhẹ
luân thường đạo lý, coi nhẹ các giá trị văn hoá truyền thống, suy thoái đạo đức đã
xuất hiện ở một bộ phận nhỏ trong nhân dân, trong thanh thiếu niên; Tình trạng
TNXH như: Cờ bạc, rượu chè, say xỉn, mê tín dị đoan, trộm cắp vẫn đang có
chiều hướng gia tăng.... gây tác động xấu đến quá trình phát triển kinh tế xã hội
và làm ảnh hưởng đến ANQP – TTATXH ở địa phương. Tình trạng ly hôn, tranh
chấp tài sản, tranh chấp đất đai, sửa chửa cơi nới làm nhà trái phép, sinh con thứ
3, ăn ở kém vệ sinh, gây mất đoàn kết, mâu thuẫn... là những vấn đề kém văn hoá
cần khắc phục.
- Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác quản lý xã hội
ở các khối phố vẫn còn nhiều bất cập, ý thức trách nhiệm của người dân đối với
các vấn đề chính trị, xã hội chưa thật sự được nâng cao. Nhiều trường hợp còn
dây dưa trong việc chấp hành thực hiện các nghĩa vụ của công dân, các chủ
trương chính sách của Đảng và pháp luật nhà nước.
21


- Công tác quy hoạch xây dựng các thiết chế văn hóa ở các khối phố và
phường, tuy bước đầu có cố gắng làm được một số công trình, song đến nay chưa
có sân bóng đá, bóng chuyền, phòng đọc sách, nhà truyền thống,... nên chưa đáp
ứng được yêu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của nhân dân, bên cạnh đó một số
thiết chế văn hoá đã đầu tư xây dựng nhưng chưa phát huy sử dụng có hiệu quả.
- Trật tự đô thị trên địa bàn phường chưa tạo nên mỹ quan của một phường

trung tâm Thành phố, tình trạng vệ sinh môi trường trong và chung quanh các
khu phố chợ đang là vấn đề nhức nhối cần được quan tâm.
- Trong nhân dân vẫn còn mang nặng tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao
cấp của nhà nước, nên việc huy động các khoản đóng góp, kể cả việc đóng góp
xây dựng cho sự nghiệp văn hoá vẫn còn những hạn chế nhất định.
2.3. Nguyên nhân:
Nguyên nhân của những tồn tại trên là do các yếu tố khách quan tác động,
song yếu tố chủ quan là chính, do trong quá trình điều hành chỉ đạo của Đảng,
chính quyền chưa thật sự chú ý đúng mức đến việc quy hoạch và xây dựng chiến
lược phát triển văn hoá lâu dài, có lúc có nơi còn nặng về hình thức, ít coi trọng
về chất lượng. Đồng thời trong công tác tuyên truyền, vận động giáo dục toàn dân
thực hiện xã hội hoá sự nghiệp xây dựng văn hoá chưa sâu rộng, chưa tốt nên
hiệu quả chưa cao và chưa thấy hết việc xây dựng gia đình, tộc, họ văn hoá là
bước đột phá cho phòng trào khối phố văn hoá, phường văn hoá.
Xuất phát từ những tình hình thực trạng nêu trên, để tích cực ngăn ngừa
những mặt tiêu cực có nguy cơ phát sinh trong đời sống xã hội, đảm bảo yêu cầu
phát triển kinh tế, giữ vững ANCT – TTATXH trên địa bàn phường, góp phần
xây dựng đạt tiêu chí đô thị loại 2 và trở thành Thành phố trẻ, năng động trong
tương lai cũng như xây dựng
thành phường văn hoá là hết sức cần thiết, đáp
ứng yêu cầu và nguyện vọng chung của đông đảo cán bộ và nhân dân toàn
phường.
3. Một số bài học kinh nghiệm:
Thành tựu và những trải nghiệm từ thực tiễn mấy chục năm qua đã giúp
cho Đảng bộ
đúc kết những bài học kinh nghiệm quý báu về nâng cao vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy Đảng đối với văn hóa nói riêng, các
nhiệm vụ xây dựng và phát triển địa phương nói chung. Có thể khái quát những
nội dung cơ bản sau đây:
- Một là, phải nhận thức một cách đầy đủ, thấu đáo, toàn diện các quan

điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
22


bản sắc dân tộc; thấu suốt quan điểm xem văn hoá vừa là nền tảng tinh thần, vừa
là mục tiêu và động lực của quá trình phát triển KT-XH.
Nhất quán quan điểm: Phát triển kinh tế phải gắn liền và đồng hành với
giải quyết tốt những vấn đề về văn hóa và đạt được sự công bằng, tiến bộ về xã
hội; gắn kết nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn là phải ra sức bảo vệ, giữ gìn, tôn tạo
các giá trị của di sản văn hóa, môi trường sinh thái với mục tiêu đẩy mạnh phát
triển kinh tế.
- Hai là, phải luôn chú trọng công tác nắm bắt tình hình thực tiễn, dự báo,
dự lường để kịp thời có những quyết sách phù hợp; đồng thời phải có một quy
trình đồng thuận, khớp nối chặt chẽ từ chủ trương đến các giải pháp tổ chức thực
hiện của cả hệ thống chính trị.
Những chủ trương định hướng, nghị quyết, chương trình hành động của
Đảng bộ trước hết phải trên cơ sở yêu cầu thực tiễn của cuộc sống, phải gắn với lợi
ích về tinh thần và vật chất của nhân dân, phải giải quyết được những vấn đề lợi
ích thiết yếu của cộng đồng dân cư, đồng thời phải được cụ thể hóa một cách kịp
thời bằng những đề án, kế hoạch của nhà nước và thường xuyên sơ kết, tổng kết
nhằm điều chỉnh, nâng cao để phù hợp với thực tiễn. Quy trình triển khai các bước
đảm bảo được tính khoa học, dân chủ, đại chúng, trưng cầu được nhiều ý kiến, tạo
sự đồng thuận trong nhận thức và hành động của toàn thể cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
- Ba là, thường xuyên tìm tòi, lựa chọn những phương thức hoạt động phù
hợp, phát triển những mô hình đã có, xây dựng thêm những mô hình mới để tăng
sức hấp dẫn và nâng cao chất lượng, đảm bảo tính khoa học, bền vững và phát
triển không ngừng của văn hóa.
Điều cần lưu ý là không thể có một mô hình khuôn mẫu cứng nhắc, hay
một phương thức và nội dung áp dụng máy móc chung mà phải nghiên cứu định

hướng tiêu chí cụ thể cho từng đối tượng. Mặt khác, đối với từng mô hình phải
khảo sát đánh giá chất lượng, hiệu quả; tổ chức trưng cầu ý kiến và tiến hành
các quy trình để bổ sung thêm những tiêu chí mới, nội dung mới vào quy ước.
Qua đó, vừa đạt được chiều sâu trong công tác tuyên truyền giáo dục, đồng thời
cũng là một giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng phong trào. Phương châm
vận động phong trào là: Từ điểm ra diện, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, từ
điển hình để xây dựng mô hình.
- Bốn là, lấy kiên trì vận động, tuyên truyền, thuyết phục làm phương pháp
chính. Lấy phát huy dân chủ, khơi dậy ý thức trách nhiệm và tinh thần tự giác
23


của nhân dân, huy động tiềm năng to lớn của nhân dân trong việc hưởng thụ và
sáng tạo các giá trị văn hoá làm động lực chủ yếu.
Phải xem đây là việc làm thường xuyên, liên tục của các cấp, các ngành,
các địa phương, đơn vị, các khu dân cư, tộc họ. Đảm bảo có được sức mạnh tổng
hợp từ sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, sâu sát của các cấp ủy Đảng; hiệu lực và
hiệu quả quản lý của Nhà nước; vai trò phối hợp tác chiến giữa các cơ quan ban
ngành với Mặt trận và đoàn thể ở cơ sở.
CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
PHONG TRÀO TOÀN DÂN ĐOÀN KẾT XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA Ở TRONG THỜI GIAN ĐẾN
1. Phương hướng chung
- Thực hiện nghị quyết TW 5, khoá VIII của BCH TW Đảng Cộng Sản
Việt Nam về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến đến đậm đà bản
sắc dân tộc”; Chỉ thị số 25 CT/TU của Tỉnh ủy
về việc "Chỉ đạo phong trào
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) về “Xây

dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước” và chương trình hành động, nghị quyết cũng như đề án của
HĐND – UBND về xây dựng: Nếp sống văn hóa văn minh đô thị gắn với phong
trào Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư.
- Căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
lần thứ XI và phương hướng
nhiệm vụ giai đoạn 2015 – 2020. Trên cơ sở các tiêu chuẩn phường văn hoá và
nội dung quy ước xây dựng khối phố văn hoá, khu dân cư tiên tiến, gia đình, tộc
họ văn hoá.
- Dựa vào cơ sở nêu trên, phương hướng chung của Phường trong thời gian
tới đó là “Phát huy thế mạnh về Thương mại - Dịch vụ của địa phương, tập trung
đầu tư xây dựng phát triển văn hóa, xây dựng nếp sống văn hóa - văn minh đô
thị, xây dựng thành công Phường văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa tinh thần của nhân dân.” Phát huy thành tựu đã đạt được trên các
lĩnh vực trong những năm qua, ra sức khắc phục tồn tại, yếu kém, huy động mọi
nguồn lực, tranh thủ sự hổ trợ của cấp trên và bên ngoài cùng yếu tố nội lực để
đầu tư phát triển kinh tế xã hội toàn diện và bền vững trở thành phường văn hoá
24


“Mạnh về kinh tế, vững về an ninh chính trị, phát triển về văn hoá và tiến bộ xã
hội”. Trên cơ sở đó tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng xây dựng gia đình,
tộc họ, khối phố văn hóa làm nền tảng cho việc xây dựng thành công - Phường
văn hóa.
2. Nhiệm vụ cụ thể
2.1. Xây dựng đời sống kinh tế ổn định và phát triển bền vững
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực kinh tế theo cơ cấu đã được đại
hội Đảng bộ phường, khoá XI xác định “Thương mại – dịch vụ, tiểu thủ công
nghiệp, nông ngư nghiệp” khuyến khích phát triển kinh tế hộ và tạo điều kiện
thuận lợi cho các loại hình kinh tế khác theo quy định của pháp luật, giải quyết

tốt việc làm tại chỗ cho người lao động tăng thu nhập nhằm ổn định cuộc sống và
đáp ứng tốt về nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân.
- Đẩy mạnh chương trình giảm nghèo theo từng năm và phấn đấu đến năm
2020 cơ bản xóa hết hộ nghèo theo tiêu chí 650.000đ/người, không để phát sinh
hộ nghèo, tái nghèo; Hộ khá, giàu ngày càng tăng. Thực hiện tốt các chính sách,
chế độ đối với người có công, đẩy mạnh phong trào đền ơn đáp nghĩa, xóa nhà
tạm bợ trong nhân dân.
- Tranh thủ đầu tư của Thành phố và các phòng chức năng sớm thi công
các tuyến đường ngang, hệ thống cấp thoát nước hoàn chỉnh – đảm bảo lưới điện
đến từng hộ an toàn, nhân rộng các mô hình truy cập internet về thông tin kinh tế
và khoa học công nghệ.
2.2. Xây dựng đời sống văn hoá, phong phú lành mạnh tiến bộ và đậm đà
bản sắc dân tộc
- Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá ở khu dân cư với những nội dung đại đoàn kết toàn dân của Ủy ban trung
ương MTTQVN, phấn đấu mỗi năm có từ 90 – 95% đạt gia đình, tộc họ văn hoá;
Các trường học, cơ quan UBND phường, cơ quan công an phường, trạm y tế, các
khối phố được công nhận đơn vị cơ sở có đời sống văn hoá tốt – phối hợp với ban
quản lý chợ tiếp tục xây dựng quy ước chợ văn hoá, văn minh trong những năm
tiếp theo.
- Xây dựng trường THCS Chu Văn An đạt trường chuẩn quốc gia; 100%
gia đình có con em trong độ tuổi mẫu giáo, tiểu học, THCS được đến trường, vận
động phong trào xã hội hoá giáo dục, xã hội học tập, xây dựng trung tâm học tập
cộng đồng đáp ứng tốt nhu cầu xã hội học tập trong nhân dân. Trước mắt giữ phổ
cập giáo dục bậc tiểu học, THCS và THPT; Đẩy mạnh khuyến học, khuyến tài,
25


×