Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

đề tài nguyen thi phuong (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.52 KB, 84 trang )

MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà giáo
dục vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ
muôn đời sau noi theo. Tư tưởng của Người có vai trò, ý nghĩa và tác dụng to lớn
đối với cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh”.
Với cách nhìn khách quan khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao
vai trò, vị trí, khả năng của thanh niên (TN) đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng
và dân tộc. Người cho rằng: “TN là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy
nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các TN”. Chính vì thế
trước lúc đi xa Người không quên căn dặn Đảng ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh đặt
lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và đạo đức cách mạng. Theo Hồ Chí
Minh, để xứng đáng là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế hệ cha
anh thì phẩm chất hàng đầu cần có ở TN là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng,
ý chí kiên định đấu tranh cho thắng lợi của lý tưởng và đạo đức cách mạng để
làm gương lôi cuốn quần chúng. Lý tưởng mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho
TN là suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho đất nước hoàn toàn độc lập, làm cho
chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc
ta và trên thế giới. Tuy nhiên, lý tưởng và ý chí cách mạng chỉ có thể duy trì và
phát triển trên nền tảng đạo đức cách mạng. Thiếu đi nền tảng này, tuổi trẻ chưa
trải qua dạn dày đấu tranh sẽ không đủ sức vượt qua những thăng trầm, khó khăn
1
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng



của hoàn cảnh để kiên trì phấn đấu đến cùng cho lý tưởng. Trong Di chúc, Người
lưu ý “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”” .
Lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993) khẳng định: “Sự
nghiệp đổi mới có thành công hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo
con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng TN, vào
việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ TN, công tác TN là vấn đề sống còn của dân tộc,
là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”.
Cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới và trong nước diễn biến
rất phức tạp. Nhiều nhân tố tiêu cực từng ngày, từng giờ ảnh hưởng đến TN nói
chung và sinh viên (SV) nói riêng. Trước hết là sự khủng hoảng niềm tin vào tương
lai của CNXH sau sự kiện Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Sau 20 năm đổi mới
chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt
Nam đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng
có mặt trái. Đây là mảnh đất màu mỡ nảy sinh nhiều yếu tố tiêu cực. Các tác động
của kinh tế thị trường đã can thiệp, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền
thống, chà đạp lên những khuôn mẫu đạo đức cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân – kẻ
thù nguy hiểm nhất của đạo đức cách mạng theo cách gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, giờ đây có cơ hội trỗi dậy và phát triển. Chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh được Đảng ta xác định giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của
xã hội, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ Nam cho hành động của Đảng đang bị các
thế lực thù địch chống phá, công kích. Ngoài tư tưởng, chúng còn đẩy mạnh tiến
công trên lĩnh vực văn hóa, đạo đức, lối sống mà đối tượng chủ yếu là SV – đội
ngũ trí thức tương lai. Tất cả những điều đó đã tác động xấu đến việc hình
thành và phát triển nhân cách của SV.
2
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng



Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII của Đảng (1997) đã gióng lên hồi
chuông báo động toàn xã hội khi cho rằng tình trạng một bộ phận học sinh, SV suy
thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập
thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước là điều “đặc biệt đáng lo
ngại”. Trong xu thế chung của SV cả nước, một bộ phận không nhỏ SV các trường
đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh có những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và
hành vi đạo đức như: xác định động cơ học tập không đúng. Mục đích của việc
học không phải là nâng cao kiến thức mà nhằm kiếm điểm cao để có học bổng.
Hiện tượng bỏ học không lý do, đi muộn, quay cóp trong thi cử đã trở nên khá
phổ biến, cá biệt còn có một số SV tham gia đường dây thi thuê, thi hộ trong các
mùa tuyển sinh đại học, cao đẳng. SV thờ ơ với các vấn đề chính trị, các hoạt động
xã hội, còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng, ham ăn chơi đua đòi chạy theo lối sống
thực dụng, buông thả, xa rời đạo đức truyền thống, tiếp thu lối sống, văn hóa
phương Tây không chọn lọc, quá coi trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh
thần, sùng bái đồng tiền, có hành vi vi phạm pháp luật, sa vào các tệ nạn xã
hội: trộm cướp, rượu chè, cờ bạc, ma túy, mại dâm…
Trong khi đó, do yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới toàn diện, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
các thế hệ SV đã, đang và nhất định sẽ gánh vác những trọng trách to lớn nhưng
vô cùng khó khăn phức tạp. Chính vì thế, tại Đại hội IX, Đảng ta lại nhấn mạnh:
“Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết
việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” .
Như vậy, trước yêu cầu khách quan và cấp bách của công cuộc đổi mới, việc
giáo dục đạo đức cách mạng cho TN, SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nội dung

3
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng



quan trọng hàng đầu trong việc rèn luyện nhân cách tuổi trẻ, là sự chuẩn bị cực kỳ
hệ trọng giúp họ vào đời, lập thân, lập nghiệp.
Với lý do trên, tôi chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức,
lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường Đại
học, Cao đẳng ở Thành phố Hải Dương hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề TN và giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho TN, SV
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu theo những khía cạnh, cách tiếp
cận khác nhau.
+ Nhóm tác giả đề cập đến vai trò TN và tầm quan trọng của công tác giáo
dục TN:
- Lê Duẩn, Thanh niên với cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb Thanh niên, Hà
Nội, 1978.
- Đỗ Mười, Lý tưởng của Thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới,
Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1995.
- Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Đoàn Nam Đàn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và
con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Phạm Đình Nghiệp, Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam
trong tình hình mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000.
- Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò Thanh niên trong cách
mạng Việt Nam, Nxb Thanh niên, 2004 (in lần thứ hai).
- Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau, Nxb Giáo dục, 2004.
4

Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


- Đặng Quang Thành, Xây dựng lối sống có văn hóa của Thanh niên Thành
phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ, 2005, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2005 (Chương XV: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự nghiệp giáo dục – đào tạo
và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau).
- Văn Tùng, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên, Nxb
Thanh niên, Hà Nội, 1999…
+ Nhóm các công trình nghiên cứu về đạo đức và tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh:
- Nguyễn Trọng Chuẩn–Nguyễn Văn Phúc, Mấy vấn đề về đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003.
- Vũ Khiêu, Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, 1974.
- Trần Hậu Kiêm – Đoàn Đức Hiếu, Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo
dục đạo đức cho sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Tương Lai, Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới, Nxb Sự thật,
1983.
- Nguyễn Ngọc Long (chủ biên), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001.
- Trần Sỹ Phán, Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, 1999,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đinh Xuân Lâm – Bùi Đình Phong (1995), “Giá trị trường tồn của tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh trong lòng nhân loại tiến bộ”, Tạp chí Thông tin lý luận, (12).
- Lâm Quốc Tuấn – Trần Văn Toàn (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục đạo đức vừa “hồng” vừa “chuyên” cho thanh niên trí thức”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (10).

5
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


- Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2005 (Chương XIII: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh).
- Nguyễn Văn Truy (chủ biên), Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1993…
Những tài liệu trên của các tác giả là nguồn tư liệu quý giúp chúng tôi tiếp
thu tham khảo, làm định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình. Ở Thành Phố Hải
Dương, việc nghiên cứu nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống
cho SV hiện nay vẫn chưa có tác giả nào đề cập một cách cơ bản và có hệ thống
dưới giác độ Hồ Chí Minh học. Vì vậy, tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với
lòng mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc luận giải những vấn đề lý luận và thực
tiễn đã và đang đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích:
Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
đạo đức, lối sống cho TN; làm rõ lý luận và thực tiễn công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho SV các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hải Dương;
trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho đối tượng này theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức,
vai trò TN và việc giáo dục đạo đức, lối sống cho TN, SV.
- Phân tích thực trạng đạo đức, lối sống của SV và thực tiễn công tác giáo
dục đạo đức, lối sống cho SV các trường Đại học, Cao đẳng ở Thành phố Hải
Dương trong những năm gần đây.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu để tiếp tục tiến hành công việc giáo dục đạo

đức, lối sống cho đối tượng này theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; đạo đức, lối sống SV
và giáo dục đạo đức, lối sống cho SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; đạo đức, lối sống SV và vấn đề
giáo dục đạo đức, lối sống cho SV các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn
Thành phố Hải Dương hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: luận văn được triển khai trên nền tảng các quan điểm của chủ
nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về đạo đức, TN và
giáo dục đạo đức, lối sống cho TN.
Phương pháp nghiên cứu: ngoài phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, luận văn còn sử dụng các phương pháp lôgíc, phương pháp lịch sử – cụ
thể, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu khảo sát thực tiễn,
điều tra xã hội học …
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề
tàigồm 02 chương, 07 tiết.

7
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG,

LỐI SỐNG MỚI CHO THANH NIÊN

1.1. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG VÀ GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
1.1.1. Đạo đức
Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris,
nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức còn có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos, cũng
có nghĩa là thói quen, tập quán. Như vậy, theo phần gốc của khái niệm khi nói đến
đạo đức là nói đến những thói quen, tập quán sinh hoạt và ứng xử của con người
trong cộng đồng, trong xã hội.
Ở phương Đông, theo các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại, đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã
hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện
của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Theo đó, đạo đức chính là những
yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác–Lênin, đạo đức xét đến cùng là
sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục
vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người. “Đạo đức giúp cho xã hội loài
người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [40, tr.371]. Bàn
về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là những gì góp phần phá hủy
xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động
chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng
sản”. Đây là một quan niệm mang tính cách mạng và khoa học về đạo đức mà
quan niệm của các tôn giáo và các nền đạo đức khác không thể đạt tới.
8
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân,
suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào

cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương, quý trọng con người,
sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng…
Theo Hồ Chí Minh, tiêu chí để đánh giá chính xác đạo đức con người là ở
hành động, ở việc làm, ở cách đối nhân xử thế. Đạo đức phải được xem xét trong
3 mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với công việc. Trong 3 mối quan hệ
đó, hoạt động của con người hình thành nên những hành vi, chuẩn mực đạo đức.
Đó là việc mình có nghiêm khắc với chính bản thân hay không? Thái độ của mình
đối với ông bà, bố mẹ, anh chị, em, đối với đồng chí, đồng đội, cấp trên, cấp dưới,
đối với quần chúng nhân dân, đối với Đảng, với Nhà nước, đối với kẻ thù như thế
nào? Mình có hết lòng, toàn tâm, toàn ý đối với công việc hay không? Điều đó xác
định đạo đức của mỗi con người.
Đạo đức được xác định trong mối quan hệ với mình, với người và với công
việc. Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức không phải chỉ là những
lý tưởng cao xa mà còn là những thái độ, hành vi, việc làm cụ thể của mỗi người
hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống sinh hoạt, trong học tập, trong lao động và
trong chiến đấu. Mặt khác, ở đây Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng đạo đức cách
mạng và đạo đức đời thường là hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ không có
đạo đức đời thường tách rời với đạo đức cách mạng và cũng không thể có đạo
đức cách mạng đứng ngoài với đạo đức đời thường. Vì vậy, không thể bào chữa
cho khuyết điểm của bản thân mình, “cái đó là việc riêng của tôi, gia đình tôi
không liên quan gì với cái chung”. Cái riêng mà phù hợp với cái chung (của Đảng,
của cách mạng, của Tổ quốc, của nhân dân) thì đó là đạo đức. Cái riêng mà đi
ngược với cái chung là chủ nghĩa cá nhân, là vi phạm đạo đức.

9
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện

trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc công, từ lao
động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập, công tác
đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở mọi phạm vi từ
gia đình tới ngoài xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc tế. Việc Hồ
Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một cách nhìn mang tính
khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng của đời sống xã hội và
mỗi con người.
Hồ Chí Minh đã nêu những nội dung, những chuẩn mực chung có ý nghĩa cơ
bản và có tính phổ cập đối với mọi người, mọi tầng lớp, đồng thời Người cũng chỉ
rõ những chuẩn mực cụ thể đối với từng tầng lớp như: công nhân, nông dân, TN,
phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng, bộ đội, công an … Song đối tượng Người chú ý nhiều
nhất là đạo đức của người cách mạng, người cán bộ, đảng viên.
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và
cùng với Đảng ta dày công xây dựng, bồi đắp khác với đạo đức cũ về chất, ngược
lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức của chủ nghĩa Mác–Lênin. Đó là kết hợp
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức mang bản chất giai cấp
công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hồ Chí Minh đã làm cuộc cách mạng
trong lĩnh vực đạo đức. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất
chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất,
đầu ngửng lên trời” . Đạo đức cũ - đạo đức thực dân, phong kiến, là thứ đạo đức
ích kỷ, nó kìm hãm trói buộc con người, tàn phá con người. Còn đạo đức mới là vì
nước, vì dân; là “dĩ công vi thượng”. Đây là đạo đức vĩ đại. Bởi lẽ, đạo đức đó
“không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của
loài người”.
Hồ Chí Minh xem đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống
như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người còn ví đạo đức đối với
10
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng



người cách mạng như là sức khỏe của người gánh nặng và đi xa. Theo Hồ Chí
Minh, nhiệm vụ cách mạng hoàn toàn không dễ dàng, đơn giản mà bao giờ cũng
khó khăn, phức tạp. Thực hiện nhiệm vụ cách mạng, đòi hỏi người cách mạng
phải có quyết tâm phấn đấu thật cao, phải dám hy sinh, phải kiên trì bền bỉ
“thắng không kiêu, bại không nản”. Vì thế “Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang”. Người cán bộ
đảng viên lại càng cần phải có đạo đức cách mạng. Vì “không có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” . Theo Người, lãnh đạo không phải
là ra lệnh mà chủ yếu bằng lôi kéo, thuyết phục. Để lôi kéo thuyết phục con
người, trước hết phải từ cái tâm, cái đức của con người, phải miệng nói, tay làm,
phải đầu tàu gương mẫu. Người dạy muốn hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân thì
cán bộ đảng viên phải mực thước, phải “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau
thiên hạ”.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh” thì
mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là lãnh đạo cuộc đấu tranh
giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc và xây dựng thành công CNXH
trên đất nước ta. Người cũng nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu
cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Người đòi hỏi
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có đầy đủ những phẩm chất cần có để
tham gia và cống hiến nhiều nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và
CNXH.
Hồ Chí Minh cho rằng lấy đạo đức làm gốc, không có nghĩa là tuyệt đối hóa
mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, “hồng” và “chuyên” phải
kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia.
Nói chuyện tại Đại hội SV Việt Nam lần thứ II, Người cho rằng: “TN phải có đức, có
tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại
đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có
11
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng



hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì,
nhưng cũng không lợi gì cho loài người”. Người thực sự có đức thì bao giờ cũng
cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành
mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được hiểu là toàn bộ
những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ
với người khác và với cộng đồng. Dựa vào những chuẩn mực đó, người ta đánh
giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái không được
làm và về nghĩa vụ phải làm.
1.1.2 Lối sống
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, lối sống là toàn bộ những hình thức hoạt
động sống của con người trong một xã hội nhất định được xem xét thống nhất với
các điều kiện kinh tế – xã hội nhất định.
Giải thích phạm trù lối sống, học thuyết Mác đi từ phương thức hoạt động
sản xuất của con người. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph.
Ăngghen cho rằng: “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần
theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn
thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình
thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định
của họ”.
Trong lao động sản xuất, con người thiết lập các mối quan hệ với tự nhiên
và với xã hội. Chính trong quá trình đó con người biểu hiện bản thân mình, biểu
hiện đời sống của mình. Như vậy, phương thức sản xuất không chỉ là một hình
thức hoạt động sinh sống nhất định của con người mà còn là mặt cơ bản của lối
sống, là điều kiện kinh tế – xã hội của lối sống. Tuy nhiên không thể đồng nhất
phương thức sản xuất với lối sống, vì trong xã hội có giai cấp không thể có một lối
sống cho tất cả mọi người và phạm vi của lối sống rộng hơn phạm vi của phương
12
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng



thức sản xuất. Ngoài hoạt động sản xuất, con người còn có nhiều hoạt động
phong phú khác như: hoạt động chính trị, hoạt động tư tưởng và văn hóa, hoạt
động bồi dưỡng sức khỏe và rèn luyện phẩm chất cá nhân. Phạm vi của lối sống
có thể tương ứng với phạm vi của hình thái kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, hai khái
niệm trên đây cũng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Hình thái kinh tế – xã
hội gắn liền với hoạt động sản xuất vật chất của con người. Đó là một tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức của con người. Ngược lại, lối sống phản ánh hoạt
động của chủ thể bao gồm nhận thức, tình cảm, thái độ, động cơ trong mọi hoạt
động của bản thân con người.
Bổ sung quan điểm của Mác, Hồ Chí Minh xem lối sống còn là hình thức
biểu hiện của văn hóa – văn hóa đời sống. Người quan niệm văn hóa là bộ mặt
tinh thần của xã hội và bộ mặt đó được thể hiện ra ngay trong cuộc sống hàng
ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Điều này đã được Hồ Chí Minh chỉ ra khi
nói về nội dung của đời sống mới, cũng như cách thức xây dựng đời sống mới
trong một nước Việt Nam độc lập.
Theo Hồ Chí Minh, lối sống bộc lộ thông qua các hoạt động của con người
trong cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc. Lối sống vừa có các giá
trị của văn minh nhân loại vừa có các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Bên cạnh các giá trị vĩnh cửu, lối sống cũng chứa đựng các giá trị phù hợp với điều
kiện lịch sử cụ thể của từng thời kỳ nhất định; có các khía cạnh tiến bộ và cả
những khía cạnh tiêu cực. Có thể nói, lối sống bộc lộ nhân cách của con người
trong một điều kiện hoàn cảnh cụ thể, nhất định. Con người phản ánh qua lối
sống phần nào diện mạo văn hóa thời đại thông qua năng lực trí tuệ, quan hệ ứng
xử và khả năng đồng hóa thẩm mỹ hiện thực của mình trong nhiều phương diện
khác nhau.
Với Hồ Chí Minh, lối sống bao gồm lối sống riêng của từng cá nhân và lối
sống chung của từng nhóm người, rộng hơn là toàn xã hội. Lối sống cá nhân là
13

Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


toàn bộ hình thức hoạt động sống của cá nhân trong một xã hội nhất định. Đồng
thời là sự phản ánh kết quả nhận thức của cá nhân về các điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội. Vì thế, lối sống cá nhân luôn mang đậm dấu ấn cá nhân và có
tính phong phú, đa dạng. Mặt khác, được hình thành từ một điều kiện kinh tế – xã
hội nhất định nên lối sống của các cá nhân lại có những điểm chung tương đồng,
tạo nên lối sống chung của toàn xã hội. Giữa lối sống riêng của từng cá nhân với
lối sống chung của toàn xã hội không có sự tách rời biệt lập mà trái lại luôn thống
nhất, tác động qua lại lẫn nhau.
Hồ Chí Minh quan niệm xã hội là do nhiều cá nhân nhóm lại mà thành.
Chính vì thế, nếu mỗi cá nhân có lối sống tích cực thì góp phần hình thành nên lối
sống tiến bộ của xã hội. Lối sống văn minh, cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trở thành mẫu mực cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta học tập và noi theo.
Ngược lại, lối sống xã hội có tác dụng định hướng cho lối sống cá nhân, giúp mỗi
cá nhân điều chỉnh lối sống của bản thân.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức, lối sống, nếp sống là ba nội dung hợp thành
văn hóa đời sống, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu nhất. Vì vậy, xây dựng
đời sống mới chính là quá trình tuyên truyền và thực hành đạo đức mới, lối sống
mới, nếp sống mới. Lối sống mới mà Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng cho mọi
người là lối sống có lý tưởng, có đạo đức, văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Hồ Chí Minh cho
rằng để Việt Nam trở nên một nước mới, một nước văn minh, tiến bộ thì mọi
người phải xây dựng một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, điều
độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn về
vật chất, về chức quyền danh lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí,
anh em phải cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị; giàu tình yêu thương quý mến con
người, trân trọng con người; đối với mình thì nghiêm khắc, chặt chẽ; đối với
người thì khoan dung, độ lượng. Đã có sinh hoạt lành mạnh, tiến bộ, ứng xử hài

14
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


hòa, đúng mực thì còn phải xây dựng tác phong quần chúng, tập thể dân chủ,
khoa học trong cách làm việc. Tuy mang những nội dung khác nhau nhưng ba loại
tác phong trên có quan hệ mật thiết với nhau, góp phần nâng cao hiệu quả công
việc, giúp mọi người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Lối sống trong quan niệm của Hồ Chí Minh còn là tiêu chí, thước đo trình độ
văn minh, tiến bộ của mỗi dân tộc. Người cho rằng: “Một dân tộc biết cần, kiệm,
biết liêm sĩ, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn
minh tiến bộ”. Với nghĩa đó, xây dựng lối sống mới đã trở thành một mục tiêu của
CNXH. Phấn đấu thực hành lối sống mới giúp mỗi cá nhân và cả xã hội từng bước
vượt qua được những cái nhỏ bé, thấp hèn để vươn tới những cái lớn lao, cao
thượng làm cho mọi người phát triển toàn diện cùng với sự phát triển của đất
nước.
Bàn về lối sống, Hồ Chí Minh luôn đặt nó trong mối quan hệ với đạo đức.
Đạo đức và lối sống có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò
chủ yếu. Đạo đức gắn liền với lối sống và là nội dung của lối sống. Còn lối sống là
thể hiện cụ thể quan niệm đạo đức trong những hình thức hoạt động của con
người trong xã hội. Một lối sống được xem là cao đẹp trước hết phải là lối sống có
đạo đức, luôn đề cao trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của cá nhân đối với cộng
đồng và toàn xã hội. Ngược lại, lối sống chỉ biết hưởng thụ cho bản thân là lối
sống ích kỷ, thấp hèn cần phải lên án, đấu tranh vì trái với đạo đức của dân tộc.
Người dạy: “Trong lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn
riêng hưởng ăn ngon mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức”. Đạo đức quyết định
lối sống. Do đó, muốn xây dựng lối sống mới trước hết phải bắt đầu từ việc xây
dựng, thực hành đạo đức mới. Chỉ có dựa trên cái nền đạo đức mới thì mới xây
dựng được lối sống mới, lành mạnh, vui tươi hướng con người
tới tầm cao của văn hóa, của một đất nước độc lập và CNXH.

1.2 QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
15
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


1.2.1 Nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
1.2.1.1 Giáo dục đạo đức
Giáo dục các phẩm chất đạo đức cách mạng
Khi nói tới giáo dục đạo đức cách mạng, vấn đề quan trọng hàng đầu được
Hồ Chí Minh quan tâm là làm cho TN nhận thức được rằng đạo đức cách mạng là
“Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”.
Trung, hiếu là những khái niệm cũ có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt
Nam và phương Đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào nội dung mới để
giáo dục TN.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nước là nước của dân và dân là chủ nhân
của nước. Vì vậy, trung với nước trước hết là trung thành với nhân dân, với lợi ích
của nhân dân. Tận trung với dân, TN phải ra sức đấu tranh bảo vệ quyền lợi của
nhân dân, phải ham làm những việc ích quốc lợi dân. Người dạy TN “Việc gì lợi
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Mặt
khác, TN phải hiểu thật sâu sắc rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là một đội ngũ tiên
tiến nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân, là người lãnh đạo của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. “Những chính sách và nghị quyết của
Đảng đều vì lợi ích của nhân dân”. Do đó, trung với dân cũng có nghĩa là trung với
Đảng, với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Như vậy, trung với nước thì TN phải
luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết; là
quyết tâm suốt đời phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, của cách mạng, sẵn
sàng hy sinh cả tính mạng mình cho độc lập dân tộc và CNXH; là phấn đấu thực
hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hiếu với dân, TN phải
biết yêu mến nhân dân, quý trọng nhân dân, học tập, làm việc, chiến đấu vì nhân
dân. Phải chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tích cực giúp đỡ

nhân dân vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, để phát triển sản xuất, cải
thiện đời sống. Phải đấu tranh chống lại mọi biểu hiện sách nhiễu, gây phiền hà
16
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


cho nhân dân. Có như vậy TN mới được dân tin, dân mến, dân yêu. Đây là cơ sở
để TN đoàn kết với dân nhằm tạo ra sức mạnh to lớn cho cách mạng. Tóm lại
trung với nước, hiếu với dân thì TN phải có trách nhiệm đối với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước, là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng.
Giáo dục đạo đức cách mạng cho TN, Hồ Chí Minh còn chú trọng đến việc
giáo dục những phẩm chất cao quý như: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Từng khái niệm được Người giải thích rất cụ thể dễ hiểu.
Cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Cần,
kiệm, liêm, chính sẽ dẫn tới chí công vô tư và ngược lại đã chí công vô tư một
lòng, một dạ vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm,
liêm, chính. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là biểu hiện sinh động của
phẩm chất trung với nước, hiếu với dân.
Giáo dục đạo đức cách mạng cho TN còn là giáo dục tình thương yêu con
người. Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là người giàu tình cảm. Vì yêu thương
nhân dân, yêu thương con người nên mới đi làm cách mạng, chấp nhận mọi gian
khổ hy sinh để đem lại cơm no áo ấm, độc lập tự do cho con người. Con người mà
Hồ Chí Minh nói đến là những con người cụ thể ở xung quanh ta. Đó là gia đình,
anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng chí, đồng bào cả nước và toàn thể nhân loại.
Người dạy TN yêu thương con người trước hết là tôn trọng nhân phẩm của con
người; là tìm mọi cách nâng cao con người lên, phải giáo dục, cải tạo con người
nhằm làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần
xấu mất dần đi. Yêu thương con người không đồng nghĩa với việc bao che lỗi lầm

cho nhau mà phải giúp nhau sửa chữa khuyết điểm. Đạo đức cách mạng là đạo
đức trong hành động. Do đó, yêu thương con người không chỉ dừng lại ở lời nói
mà phải biểu hiện thành những việc làm cụ thể như mang lại cơm ăn, nước uống
17
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


hàng ngày; là kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi xúc phạm, chà đạp lên
phẩm giá con người; ra sức phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc
của nhân dân. Tình thương yêu đó không chỉ giới hạn trong phạm vi dân tộc mà
vươn tới tầm nhân loại.
Đạo đức cách mạng là đạo đức mới – đạo đức của giai cấp vô sản. Nó đòi
hỏi người cách mạng không chỉ biết đấu tranh vì sự phát triển của dân tộc mình
mà còn phải có “quyết tâm giúp đỡ loài người ngày càng tiến bộ và thoát khỏi ách
áp bức, bóc lột, luôn giữ vững tinh thần chí công vô tư”. Đây chính là tinh thần
quốc tế trong sáng. Vì thế giáo dục đạo đức cách mạng cho TN còn là giáo dục
tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam với tất cả các dân
tộc tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội.
Giáo dục lòng yêu nước, thương nòi
Ngoài tri thức đạo đức thì tình cảm đạo đức cũng là nội dung quan trọng
trong giáo dục đạo đức. Những giá trị đạo đức thu nhận được bằng lý trí dù có tốt
đẹp đến đâu, nếu không có được một tình cảm đạo đức trong sáng và sâu sắc thôi
thúc thì cũng chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhận thông tin, chưa đủ cơ sở để biến
thành hành vi đạo đức. Đidều này giải thích tại sao trong giáo dục đạo đức cho
TN, ngoài các giá trị đạo đức, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú trọng đến việc bồi
dưỡng tình cảm đạo đức. Người khẳng định nhiệm vụ “cốt nhất” của nhà trường
là “Phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có ý chí tự
lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”. Huấn
thị tại Đại hội SV lần thứ II (1958), Người dạy TN phải có sáu cái yêu: Tổ quốc,
nhân dân, xã hội chủ nghĩa, lao động, khoa học và kỹ thuật. Trong đó yêu Tổ quốc,

yêu nhân dân được Người đặt lên hàng đầu. Yêu Tổ quốc thì TN phải làm sao cho
Tổ quốc ta giàu mạnh. Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra
sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Yêu nhân dân thì phải hiểu rõ sinh hoạt
của nhân dân, biết dân còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng,
18
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


những tủi buồn, những công tác nặng nhọc với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, cách
tốt nhất để bồi dưỡng lòng yêu nước, thương nòi cho TN là giáo dục truyền thống
dân tộc và truyền thống cách mạng. Thông qua giáo dục truyền thống, những giá
trị tốt đẹp như: lòng tự hào dân tộc, ý thức và hành vi sẵn sàng xả thân bảo vệ
độc lập và chủ quyền quốc gia … được củng cố, được nâng lên, làm cho TN thấy
được giá trị lớn lao, ý nghĩa đích thực của cuộc sống hòa bình, tự do, độc lập.
Những giá trị ấy trở thành tình cảm, động lực thôi thúc TN vượt qua mọi khó
khăn, hy sinh gian khổ để bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia, vươn lên trong sự
nghiệp xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc.
Giáo dục lý tưởng cách mạng, niềm tin đối với sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo
Lý tưởng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Lý tưởng
là trạng thái hoàn hảo nhất mà người ta mong muốn đạt tới. Lý tưởng thôi thúc
con người hành động để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích. TN là lớp người trẻ tuổi
đang phát triển để hoàn thiện nhân cách. TN khao khát lý tưởng và hành động
thực hiện lý tưởng, hướng tới các giá trị xã hội, nhưng lại chưa đủ kinh nghiệm và
sự từng trải để có cách suy xét, đánh giá các giá trị, lựa chọn giá trị theo sự chỉ
dẫn sáng suốt của lý trí. Vì thế, TN rất cần đến những tác động của giáo dục xã hội
để định hướng cho họ thực hiện lý tưởng mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn. Lý
tưởng cách mạng mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho TN là phấn đấu cho Tổ
quốc hoàn toàn độc lập, cho CNXH toàn thắng trên đất nước ta và trên thế giới.
Theo Hồ Chí Minh, có giác ngộ lý tưởng mới giúp TN hiểu lý tưởng đó cao đẹp như

thế nào, thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện lý tưởng. Với nghĩa
đó, giác ngộ lý tưởng cách mạng chính là giáo dục cho TN lý tưởng sống và niềm
tin vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Song song với việc giáo dục lý
tưởng, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải bồi dưỡng chí khí cách mạng cho TN. Đó
chính là ý chí, nghị lực, khí phách, khí tiết của người cách mạng, là tính kiên trì,
19
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


nhẫn nại, vượt khó. Không có chí khí cách mạng thì TN không thể vượt qua bao
khó khăn gian khổ, hy sinh mất mát trên con đường cách mạng để thực hiện lý
tưởng. Như vậy thì cũng không thể trở thành một người trung với nước, hiếu với
dân được. Để TN kiên định mục tiêu, lý tưởng, ngoài bồi dưỡng chí khí cách mạng,
cần phải hình thành niềm tin vào tương lai cách mạng cho TN. Niềm tin chỉ được
hình thành, củng cố trên cơ sở của lý trí, của tri thức khoa học. Chủ nghĩa Mác–
Lênin, đỉnh cao của tri thức nhân loại, được Đảng ta chọn làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ Nam cho mọi hành động. Đây là cơ sở khoa học để Đảng xác định mục
tiêu, đề ra đường lối, chủ trương cho cách mạng Việt Nam. Do đó, tạo lập niềm
tin của TN vào tương lai cách mạng thì phải giáo dục TN thấm nhuần chủ nghĩa
Mác–Lênin. Cần trang bị cho TN thế giới quan duy vật, phương pháp luận biện
chứng và nhân sinh quan cách mạng nhằm làm cho họ nhận thức rõ con đường
phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Con đường đó vừa đáp ứng nguyện vọng thiết tha của cả dân tộc vừa phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại. Như vậy, giáo dục TN nắm bắt và nhận thức tính
đúng đắn của đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là tạo lập
niềm tin cho TN vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tính tất thắng của sự nghiệp cách
mạng. Điều đó giúp TN không dao động, bi quan khi gặp khó khăn, luôn giữ vững
lập trường quan điểm, có thêm ý chí, nghị lực để vượt qua mọi gian khổ trên
bước đường cách mạng, quyết tâm đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
Giáo dục thái độ tận tụy phục vụ, cống hiến cho Tổ quốc, nhân dân

Đề cao tinh thần trách nhiệm, thực hành chủ nghĩa tập thể cũng là một nội
dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho TN. Là
người cách mạng, TN phải luôn luôn đặt nghĩa vụ lên trên quyền lợi, phải ra sức
lao động, học tập để cống hiến chứ không phải chỉ biết có đòi hỏi. Trong mọi công
việc, TN cần phải nêu cao tinh thần đâu cần TN có, việc gì khó TN làm, gian khổ thì
đi trước, hưởng thụ nhận sau mọi người. Trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã
20
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


hội, Hồ Chí Minh đòi hỏi TN phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà, chứ không
phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Với Hồ Chí Minh, cống hiến cho Tổ
quốc, phục vụ cho nhân dân là nét đẹp của đạo đức cách mạng. Người dạy TN:
“Thiện nghĩa là tốt đẹp, vẻ vang. Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng
phục vụ cho lợi ích của nhân dân”. Muốn hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân thì TN cần phải đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân. Vì chủ nghĩa
cá nhân là “chỉ biết mình béo, mặc thiên hạ gầy”, chỉ muốn “mọi người vì mình”
mà không biết “mình vì mọi người”. Mặt khác, TN còn phải ra sức rèn luyện và
thực hành chủ nghĩa tập thể. Nói chuyện với học sinh các trường trung học ở Hà
Nội, Người chỉ rõ nhiệm vụ chính của TN học sinh là học tập. Mục đích của việc
học không phải vì danh vọng của cá nhân, cốt được mảnh bằng để làm ông nọ, bà
kia. TN cần phải xác định động cơ, mục đích học tập cho đúng. Học là để phụng sự
Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Thật xúc động biết
bao khi đọc lại những tâm sự lúc cuối đời của Người: “Nay dù phải từ biệt thế giới
này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu
hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Cuộc đời vì nước, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi
mãi là gương sáng cho các thế hệ TN hôm nay và mai sau học tập noi theo.
1.2.1.2. Giáo dục lối sống
Yêu lao động, sống giản dị, trung thực, dũng cảm
TN là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội. Xã hội có phát triển hay không

tùy thuộc thái độ của TN đối với lao động. Từ nhận thức trên, Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến việc giáo dục TN tình yêu đối với lao động. Muốn TN yêu lao
động thì trước hết phải làm cho TN nhận thức được lao động là bổn phận trách
nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc. Người dạy: “Lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”. Phải giúp cho TN tẩy trừ tư
tưởng xem khinh lao động, thói lười biếng, ỷ lại. “Trong xã hội ta, không có nghề
nào thấp kém, chỉ những kẻ lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ” và “Bất cứ làm
21
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


nghề gì, có ích cho nước nhà, cho nhân dân, cho giai cấp, đều là vẻ vang. Bất cứ
nấu bếp, quét nhà hay làm chủ tịch, đều phải lao động cả, làm gì ích nước lợi dân
là vẻ vang”. Yêu lao động, TN phải biết quý trọng thành quả lao động; phải biết
bảo vệ của công, chi tiêu hợp lý, không hoang phí, xa xỉ; phải hăng hái thi đua sản
xuất thực hành tiết kiệm; phải tự giác giữ vững kỷ luật lao động; lao động phải có
kế hoạch, chú trọng tính thiết thực, hiệu quả. Yêu lao động trong tư tưởng Hồ Chí
Minh còn là biểu hiện cụ thể của đạo đức cách mạng, của phẩm chất “trung với
nước, hiếu với dân”. Trung với nước, hiếu với dân thì TN phải tích cực tham gia
lao động sản xuất, nỗ lực học tập để cống hiến nhiều hơn nhằm làm cho nước
mạnh, dân giàu. Nói yêu Tổ quốc, yêu nhân dân mà không lao động thì chỉ là nói
suông. Yêu lao động là nét đẹp của con người mới, lối sống mới.
Ngoài yêu lao động, TN cần phải rèn luyện lối sống giản dị, trung thực, dũng
cảm. Theo Hồ Chí Minh, giản dị là phong cách sống của con người mới. Sống giản
dị thì “cách ăn mặc phải sạch sẽ, đơn giản, chất phác, chớ lượt thượt, xa xỉ, lòe
loẹt”. Nghĩa là phải biết sống chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, ít lòng ham
muốn về vật chất, đúng thời, đúng hoàn cảnh. Người dạy TN trong lúc nước ta
còn nghèo, nhân dân ta còn thiếu thốn mà cá nhân chỉ muốn riêng hưởng ăn
ngon, mặc đẹp là không có đạo đức. Vì thế, làm Chủ tịch nước, nhưng Người vẫn
ở nhà gỗ đơn sơ, mặc quần áo vải, cơm rau đạm bạc. Người còn dạy TN phải sống

trung thực. Sống trung thực là luôn luôn tôn trọng sự thật, chân lý, yêu lẽ phải,
ghét sự giả dối. Rèn luyện lối sống trung thực TN phải bắt đầu từ chính bản thân.
Nếu không trung thực với bản thân thì không thể trung thực với mọi người. Trung
thực phải đi liền với dũng cảm. Có dũng cảm thì TN mới can đảm thừa nhận
những sai lầm, thiếu sót của bản thân, mới có quyết tâm sửa chữa. Có can đảm,
có dũng khí TN mới đấu tranh chống lại những biểu hiện sai trái ở ngoài xã hội để
bảo vệ lẽ phải, sự thật công lý.
Sống có hoài bão, nghị lực, chí tiến thủ
22
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


Con người sống thì phải có ước mơ, hoài bão. Nếu như, con người không
còn những hoài bão để theo đuổi, không có những vấn đề cần giải quyết thì sự tê
liệt của đầu óc sẽ biến con người thành cái xác không hồn chỉ biết có hưởng thụ
[6, tr.199]. Hoài bão là mục tiêu cao đẹp nhất mà con người hướng tới và ra sức
thực hiện. Mỗi cá nhân đều có những hoài bão riêng để theo đuổi. Tuy nhiên,
hoài bão của mỗi cá nhân phải hướng tới mục tiêu chung của giai cấp, dân tộc và
nhân loại. Người thường xuyên nhắc nhở TN sống là phải có ước mơ, hoài bão, có
lý tưởng cao đẹp. Thông qua cuộc đời vì nước, vì dân Hồ Chí Minh đã giáo dục TN
hướng tới lẻ sống cao đẹp. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Xác định hoài
bão đã khó, thực hiện hoài bão càng khó hơn nhiều. Con đường hiện thực hóa
hoài bão, mục tiêu, lý tưởng có lắm gian nan, trở ngại đòi hỏi mỗi người phải có ý
chí, nghị lực phi thường để vượt qua mọi thử thách của hoàn cảnh. Do đó, TN cần
phải rèn luyện các đức tính kiên trì, bền bỉ, nhẫn nại, không ngại khó. Năng lực
cũng là một điều kiện không thể thiếu trong việc thực hiện hoài bão. Muốn có
năng lực, TN phải có chí tiến thủ, tinh thần cầu tiến, ham học hỏi. Học ở mọi nơi,
mọi lúc, mọi người. Phải khiêm tốn học hỏi, coi việc học là việc làm suốt đời. Mặt

khác, TN còn phải chống lại thói kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại…
Giáo dục tình bạn, tình yêu trong sáng
Tình bạn, tình yêu trong sáng là một biểu hiện của lối sống khiêm nhường,
bao dung, nhân ái, thủy chung, nhân hậu mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho
TN. Tình bạn, tình yêu trong sáng là thực sự yêu thương, quan tâm, giúp đỡ nhau
một cách vô tư, không vụ lợi, không xuất phát từ những toan tính nhỏ nhoi, ích kỷ
của đời thường. Đó là một tình bạn, tình yêu thủy chung, son sắt và bền chặt
“giàu không đổi bạn, sang không đổi vợ” như cha ông từng khuyên bảo. Để có
được tình bạn, tình yêu trong sáng, Người dạy TN phải biết thương yêu giúp đỡ,
23
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


phải kính trọng nhau như anh em một nhà. Yêu thương phải bắt đầu từ việc tôn
trọng giá trị của nhau, quan tâm giúp đỡ chân tình để vượt qua mọi khó khăn
trong cuộc sống; phải biết cảm thông, độ lượng đối với những lỗi lầm của nhau;
thật tâm khuyên bảo giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm; phải trung thực,
quan tâm lẫn nhau, chu đáo từ việc lớn đến việc nhỏ, từ lời nói đến việc làm. Tình
bạn là cơ sở của tình yêu bền chặt, trong sáng. Trong tình bạn cũng như trong tình
yêu, Người dạy TN phải đúng mực, đi đúng giới hạn “quyết chớ phóng túng, lôi
thôi”.
1.2. 2 Phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
1.2.2.1. Phải kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục thanh niên; gắn chặt giáo dục trong nhà trường với giáo dục trong thực tiễn
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức, lối sống cho TN là trách nhiệm chung
của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Phát biểu tại buổi lễ khai mạc Trường Đại
học nhân dân Việt Nam, Người nêu rõ: “Trường đại học, gia đình và đoàn thể TN
phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục TN”. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò
của giáo dục gia đình. Vì gia đình là môi trường đầu tiên và thường xuyên nhất
mà con người tiếp nhận sự giáo dục để hình thành và phát triển nhân cách. Gia

đình có chức năng nuôi nấng, chăm sóc, dạy bảo con trẻ nên người. Gia đình giúp
trẻ hình thành và phát triển các khả năng như: ngôn ngữ, tình cảm, tư duy, trí tuệ.
Thông qua giáo dục gia đình, tuổi trẻ còn tiếp nhận các giá trị đạo lý, lối sống, kỷ
cương, các giá trị xã hội. Chính tình thương, tấm gương cùng với những lời
khuyên bảo của ông bà, cha mẹ, anh chị … đã định hướng nhân cách, lối sống cho
tuổi trẻ. Thực hiện tốt chức năng giáo dục, gia đình góp phần đào tạo ra các công
dân hữu ích cho xã hội.
Ngoài mối quan hệ với những người thân trong gia đình, TN còn có những
mối quan hệ với xã hội như: với thầy cô, bạn bè, đồng bào, đồng chí … Thông qua
các mối quan hệ đó, TN tiếp tục nhận được sự giáo dục từ nhà trường, từ xã hội.
24
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu cần phải kết hợp tốt 3 môi trường: gia đình, nhà
trường và xã hội trong giáo dục TN. Cùng với gia đình, nhà trường, xã hội phải
thật sự quan tâm và tạo mọi điều kiện tốt nhất để TN phát triển một cách hài hòa
trên tất cả các mặt: trí, đức, thể, mỹ. Phát hiện và kịp thời uốn nắn những biểu
hiện lệch lạc trong nhận thức và hành vi của TN.
Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của
Đảng và nhân dân. Do đó, giáo dục TN là sự nghiệp của quần chúng, là trách
nhiệm của toàn xã hội, mà trước hết thuộc về các cấp ủy Đảng, Chính quyền và
các tổ chức đoàn thể. Hồ Chí Minh phê phán những cán bộ, những tổ chức đoàn
thể cứ mải mê với những công việc mang tính sự vụ hơn là để tâm tới việc xây
dựng con người, hoặc những tư tưởng ỷ lại vào nhà trường mà không thấy rõ vai
trò, trách nhiệm của mình trong việc giáo dục TN.
Theo Hồ Chí Minh, để công tác giáo dục TN đạt hiệu quả cao còn phải biết
kết hợp chặt chẽ giữa học tập ở thầy, ở sách vở, ở bạn bè, ở nhân dân với rèn
luyện trong lao động, trong công tác, trong chiến đấu. Đạo đức, lối sống nảy sinh
từ hoạt động thực tiễn, mà chủ yếu là lao động sản xuất và đấu tranh cách mạng.

Do đó đây là điều kiện không thể thiếu được để rèn luyện đạo đức, lối sống. Chỉ
có hoạt động trong thực tiễn, chấp nhận những yêu cầu của thực tiễn về mặt đạo
đức và đáp ứng được những yêu cầu ấy, TN tự thể nghiệm mình, dần dần hình
thành được những phẩm chất đạo đức cần thiết. Vì vậy mà Hồ Chí Minh cho rằng
quá trình giáo dục đạo đức cho TN là quá trình tổ chức hướng dẫn họ hoạt động
trong thực tiễn và xem đây là một phương pháp giáo dục có hiệu quả nhất.
1.2.2.2 Giáo dục bằng hành động, nêu gương của người lớn; phát huy ý
thức tự giáo dục, tự rèn luyện
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục TN không chỉ đóng khung trong những bài diễn
văn tuyên truyền khô khan, kém hiệu quả mà cần phải biết sáng tạo các hình thức
giáo dục phong phú, đa dạng. Nêu gương người tốt việc tốt, lấy gương tốt việc tốt
25
Người thực hiện : Nguyễn Thị Phượng


×