BÀI TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
VIỆT NAM
1
BỐ CỤC
*Lời nói đầu
*Quyền lợi của người phụ nữ trong BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC.
-Trong cuộc sống hôn nhân-gia đình
-Trong việc thừa kế tài sản
-Trong việc tố tụng và xử phạt
*Nguyên nhân BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC đề cao vai trò và quyền phụ nữ, yếu tố nào
tác động đến các nhà làm luật thời Lê đề cao vai trò và quyền phụ nữ.
-Nguyên nhân
-Các yếu tố tác động
+Yếu tố khách quan
+Yếu tố chủ quan
*Những quyền đặc thù của phụ nữ trong đời sống mà các quốc gia phong kiến
phương Đông không thừa nhận.
*Kết luận.
2
CHỦ ĐỀ 4: Quyền phụ nữ và bảo vệ quyền phụ nữ trong bộ luật
Hồng Đức
LỜI MỞ ĐẦU
Bộ luật Hồng Đức được coi là bộ luật nổi bật nhất, quan trọng nhất và có vai
trò đặc biệt nhất trong lịch sử pháp quyền phong kiến Việt Nam. Mặc dù mang bản
chất giai cấp phong kiến nhưng bộ luật Hồng Đức đã chứa nhiều yếu tố tiến bộ với
những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới, của nô tì,
người cô quả, tật nguyền,.... Nhiều quy định của bộ luật tập trung bảo vệ người dân
chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại.
Đặc biệt bộ luật Hồng Đức còn có những quy định bảo vệ quyền lợi của phụ nữ
và trẻ em,... Điều đó phản ánh rõ truyền thống nhân đạo, tôn trọng phụ nữ, “lấy dân
làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của gia...
Sau đây, nhóm chúng em sẽ phân tích cụ thể chủ đề “quyền phụ nữ và bảo về
quyền phụ nữ trong bộ luật Hồng Đức” của triều Lê sơ. Bài làm không tránh được
những thiếu sót, rất mong được sự giúp đỡ, góp ý của các bạn và thầy cô để bài
làm hoàn thiện hơn.
3
*QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC.
Năm 1483, vua Lê Thánh Tông sai các triều thần sưu tập tất cả các điều luật,
các pháp lệnh đã ban bố và thi hành trong các triều vua thời Lê sơ, soạn định lại,
xây dựng lại thành một bộ luật hoàn chỉnh. Đó là bộ "Quốc triều hình luật" hay còn
gọi là bộ Luật Hồng Đức. Luật Hồng Đức nói riêng và pháp luật thời Lê nói chung
mang đặc thù của pháp luật Đại Việt, phản ánh chân thực và sâu sắc tình trạng xã
hội nước ta thế kỷ XV và sau này.
*Quyền phụ nữ trong cuộc sống hôn nhân-gia đình: Tính đặc thù của "Quốc
triều hình luật" thể hiện rõ trong hai chương "Hộ hôn" và "Điền sản". Qua hai
chương này, các nhà làm luật đã coi trọng cá nhân và vai trò của người phụ nữ –
điều mà các bộ luật trước và sau không mấy quan tâm. Có 53/722 điều luật (7%)
bàn về hôn nhân – gia đình; 30/722 điều luật (4%) bàn về việc hương hỏa, tế lễ,
thừa kế và sở hữu tài sản. Những điều luật này ít nhiều đã đề cập đến một số quyền
lợi của người phụ nữ trong xã hội và trong gia đình. Người vợ, trên lý thuyết, bị
đòi hỏi phải lệ thuộc vào chồng và không được làm điều gì nếu không có sự chỉ
đạo hay đồng ý của chồng. Nhưng trên thực tế, địa vị của người vợ – chồng thay
đổi nhiều tùy thuộc theo vị trí xã hội và kinh tế của họ. Cũng giống như chồng,
người phụ nữ Việt Nam xưa có tài sản riêng và tham gia các hoạt động kinh tế. Đó
là điều khác biệt với người phụ nữ Trung Quốc. Trong lao động, người phụ nữ
được trả công ngang bằng với người thợ nam, "không có sự phân biệt về tiền công
nhật cho lao động đàn ông với đàn bà". Điều 23 trong "Quốc triều hình luât" quy
định tiền công nhật cho nô tỳ là 30 đồng. Việc trả công ngang bằng như thế rõ ràng
cho thấy lao động của phụ nữ được đánh giá cao và vị trí của người phụ nữ được
tôn trọng trong xã hội. Trong hôn nhân, người phụ nữ cũng có thể yêu cầu ly hôn
(đâm đơn kiện).
Điều 322 – "Quốc triều hình luật" ghi: "Con gái thấy chồng chưa cưới có ác tật
có thể kêu quan mà trả đồ sính lễ", nếu "con rể lăng mạ cha mẹ vợ, đem thưa quan,
cho ly dị". Trong gia đình người vợ tương đối bình quyền với người chồng và do
đó, hôn nhân không được coi là sự chuyển giao hoàn toàn cô gái từ gia đình bên
nội của mình sang gia đình chồng như ở Trung Quốc. Không những thế, luật pháp
còn bảo vệ người phụ nữ. Họ được phép đến nhà đương chức xin ly hôn trong
4
trường hợp chồng không chăm nom, săn sóc vợ trong 5 tháng (1 năm – nếu vợ đã
có con).
Nếu vợ đem đơn đến công đường thì bộ luật cho phép cưỡng bức ly hôn. Nghĩa
là, người chồng không làm tròn nghĩa vụ với vợ thì người vợ cũng không buộc
phải làm tròn bổn phận của mình. Quy định này không có trong bất kỳ bộ luật nào
của Trung Quốc cũng như các văn bản cổ luật trước hay sau triều Lê. Ngay cả khi
luật bắt buộc người chồng phải bỏ vợ ngoài ý muốn chủ quan, điều 310 quy định
"Vợ, nàng dâu đã phạm vào điều "thất xuất" mà người chồng ẩn nhẫn không bỏ thì
phải tội biếm tùy theo nặng nhẹ". Tuy nhiên, sẽ không thể ly hôn được nếu như khi
phạm vào điều thất xuất người vợ đang ở trong ba trường hợp (tam bất khứ): đã để
tang nhà chồng 3 năm; khi lấy nhau nghèo mà sau giàu có; khi lấy nhau có bà con
mà khi bỏ lại không có bà con để trở về. Đồng thời, khi hai bên vợ chồng đang có
tang cha mẹ thì vấn đề ly hôn cũng không được đặt ra. Khi ly hôn, con cái thường
thuộc về chồng, nhưng nếu muốn giữ con, người vợ có quyền đòi chia một nửa số
con. Điều 167 – Hồng Đức thiện chính thư – quy định rõ hình thức thuận tình ly
hôn: Giấy ly hôn được làm dưới hình thức hợp đồng, người vợ vàngười chồng mỗi
bên giữ một bản làm bằng. Vậy là, bên cạnh sự ưng thuận của cha mẹ hay các bậc
tôn thuộc rất quan trọng thì sự ưng thuận của hai bên trai – gái cũng là một thành tố
được nhà lập pháp chú ý đến. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng sau khi ly hôn
hoàn toàn chấm dứt, hai bên đều có quyền kết hôn với người khác mà không bị
pháp luật ngăn cấm.
Thông thường, nếu ly hôn không do lỗi của người vợ thì phần tài sản riêng
(gồm cả điền sản và tư trang), người vợ có quyền mang về nhà mình. Trong trường
hợp có lỗi; thường thì tự ý người vợ không đem theo tài sản hoặc trong một vài
trường hợp luật định người vợ buộc phải để lại tài sản đó cho chồng, "người vợ mà
đi gian dâm, tài sản phải trả về cho chồng". Ngoài ra, việc phân chia và thừa kế tài
sản còn tùy thuộc vào việc vợ chồng có con hay không có con. Pháp luật quy định
cụ thể ở các điều 374, 375 và 376 (Quốc triều hình luật). Tài sản của vợ chồng
được hình thành từ 3 nguồn: Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; tài
sản của người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ và tài sản do hai vợ chồng tạo dựng
trong quá trình hôn nhân (tài sản chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được
coi là của chung. Khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi
tài sản chung của hai người. Còn khi chồng chết trước (hay vợ chết trước) tài sản
5
có do bố mẹ dành cho được chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho gia
đình bên chồng/vợ để lo việc tế lễ (bố mẹ bên chồng/vợ hoặc người thừa tự bên
chồng/vợ giữ). Một phần dành cho vợ/chồng để phụng dưỡng một đời (nhưng
không có quyền sở hữu). Khi người vợ/chồng chết, thì phần tài sản này giao lại cho
gia đình bên chồng.
Đối với tài sản do hai người tạo ra cũng chia làm hai phần bằng nhau: một phần
dành cho vợ/chồng làm của riêng; một phần dành cho vợ/chồng chia ra như sau:
1/3 dành cho gia đình nhà chồng/vợ để lo việc tế lễ; 2/3 dành cho vợ/chồng để
phụng dưỡng một đời, không được làm của riêng, khi chết giao lại cho gia đình bên
chồng. "Quốc triều hình luật" không nhắc tới động sản, chỉ đề cập tới điền sản,
theo Vũ Văn Mẫu: "Điểm này cũng dễ hiểu vì trong một nền kinh tế trọng nông,
các động sản khác chỉ là những vật có ít giá trị". Song trong "Hồng Đức thiện
chính thư" (điều 258-259) đã không gạt hẳn các động sản ra ngoài thừa kế. "Đến
như nhà cửa chỉ có thể chia làm hai, người sống được một phần làm chỗ ở, người
chết được một phần làm nơi tế lễ". "Còn đến của nổi, phải để cung vào việc tế tự
và theo lệ dân trả nợ miệng, còn thừa bao nhiêu cũng chia cho vợ con". "Của nổi" ở
đây được hiểu là vàng, bạc, lụa, vải, thóc lúa, giường chiếu, đồ sứ, mâm thau…
Như vậy, pháp luật đã ghi nhận một cách bình đẳng sự đóng góp của người vợ
trong tài sản chung của vợ chồng và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản
do hai vợ chồng làm ra.
*Quyền thừa kế: Trong quyền thừa kế tài sản của cha mẹ để lại, pháp luật nhà
Lê không phân biệt con trai – con gái. Nếu cha mẹ mất cả thì lấy 1/20 số ruộng đất
làm phần hương hỏa, giao cho người con trưởng giữ, còn lại chia đều cho các con
(điều 388); "người giữ hương hỏa có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng,
không có con trai trưởng thì dùng con gái trưởng" (điều 391). "Ruộng hương hỏa
giao cho con trai, cháu trai, nếu không có thì giao cho cháu gái ngành trưởng". Về
việc áp dụng hình phạt "ngũ hình", có sự phân biệt giữa đàn ông và đàn bà: không
áp dụng hình phạt "trượng" cho đàn bà và áp dụng riêng từng loại tội "đồ" cho đàn
ông và đàn bà (điều 1 – Quốc triều hình luật).
*Quy định về xử phạt đối với nam và nữ: Bộ luật Hồng Đức xử rất nặng đối với
những trường hợp xâm phạm thân thể, tiết hạnh của người phụ nữ, kẻ nào “hiếp
dâm thì xử lưu hay chết. Phải nộp tiền tạ tội hơn một bậc đối với tiền tạ tội gian
6
dâm thường.
Nếu gây thương tích cho người đàn bà thì xử nặng hơn một bậc đánh người bị
thương. Nếu làm chết người đàn bà thì điền sản kẻ phạm tội phải giao cho nhà
người bị chết” (điều 403); “gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù nó
thuận tình thì vẫn xử như tội hiếp dâm” (điều 404). Nếu “chồng đánh vợ bị thương
thì xử như tội đánh người bị thương nhưng nhẹ hơn 3 bậc. Nếu đánh chết thì xử
như tội đánh chết người nhưng nhẹ hơn 3 bậc, tiền đền mạng bớt 3 phần. Cố ý giết
vợ thì giảm một bậc tội; nếu có tội bị chồng đánh, không may chết thì xử riêng.
Đánh vợ bé bị thương, sứt gãy trở lên thì nhẹ tội hơn đánh vợ 2 bậc…” (điều 482).
Trong trường hợp người phụ nữ có việc liên quan đến kiện tụng hoặc bị tội thì
họ vẫn được bảo vệ ở mức độ nhất định, nếu “quan coi ngục, lại ngục, ngục tốt
gian dâm với đàn bà, con gái có chuyện thưa kiện thì tội nặng hơn một bậc so với
tội gian dâm thông thường. Nếu có thuận tình thì giảm 3 bậc tội cho các gian phụ
ấy.
Nếu họ bị hiếp thì không xử tội họ” (điều 409). Đặc biệt tại điều 680 quy định:
“Đàn bà phạm tội tử hình trở xuống, nếu đang mang thai thì phải đợi sau khi sinh
đẻ 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan
bị biếm hai tư, ngục lại bị tội đồ làm bản cục đinh.
Dù đã sinh nhưng chưa hết hạn 100 ngày mà hành hình thì ngục quan và ngục
lại bị xử biếm hay bị phạt. Nếu khi chưa sinh mà thi hành tội đánh roi thì ngục
quan bị phạt 20 quan tiền, ngục lại bị đánh 80 trượng. Nếu do đánh roi đưa đến
trọng thương hay chết thì xử vào tội “quá tất sát thương” (lỡ tay giết người, làm bị
thương người)…”.
Một số tội, nếu người phạm tội là phụ nữ thì được giảm nhẹ, như việc xử lý tội
ăn trộm, ăn cướp: “Ăn trộm có cầm khí giới thì xử tội ăn cướp và có giết người thì
xử tội giết người. Đàn bà được giảm tội” (điều 429), hoặc trường hợp đầy tớ ăn
trộm đồ của chủ, nếu là “tớ gái thì được giảm tội” (điều 441).
Luật cũng quy định một số vấn đề khác liên quan đến phụ nữ, như cấm “lấy
thuốc sảy thai làm người sảy thai, hay là người xin thuốc sảy thai cũng đều xử đồ.
Vì sảy thai mà chết thì người cho thuốc bị xử theo tội giết người” (điều 424). Với
một số tội, mức xử phạt đối với phụ nữ còn nhẹ hơn đàn ông, ví dụ điều 450 quy
định: “…Kẻ lạ vào vườn người ta thì xử biếm, đàn bà được giảm một bậc”.
7
Tóm lại, bộ luật Hồng Đức có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử chế độ phong kiến
Việt Nam. Pháp luật ấy về cơ bản được duy trì để thi hành ở những thế kỷ sau, cho
đến khi nhà Nguyễn ban hành bộ luật Gia Long thì uy tín, tinh thần những điều
khoản luật Hồng Đức vẫn còn sống trong dân gian. Bộ luật ấy đã có những quy
định cho thấy vai trò lớn lao của người phụ nữ trong sản xuất và trong cuộc sống.
Đó là điều tiến bộ trong các triều đại phong kiến.
*NGUYÊN NHÂN BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC ĐỀ CAO VAI TRÒ VÀ QUYỀN
NGƯỜI PHỤ NỮ, YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÁC NHÀ LÀM LUẬT THỜI
LÊ ĐỀ CAO VAI TRÒ VÀ QUYỀN PHỤ NỮ.
Sở dĩ Bộ luật Hồng Đức đề cao vai trò người phụ nữ như trên là vì Bộ luật
Hồng Đức cũng chính là Quốc triều hình luật được ra đời trong một môi trường và
điều kiện mới lạ, thuận lợi nên được xem là bộ luật tiến bộ nhất tại thời điểm hiện
thời:
Thứ nhất, trong lịch sử dân tộc ta, có thể nói thời lê sơ là một thời kì xán lạn.
Sau năm thế kỷ độc lập và văn hiến nhờ những tướng tài và vua giỏi, ánh sáng của
sự tự chủ tự do đã trở về với đại việt, với kinh đô cũ là thăng long được thời lê sơ
đặt tên gọi mới là đông đô để phân biệt với lam kinh ở thanh hóa ( còn gọi là tây đô
hay tây kinh). Ánh sáng bừng lên từ lam sơn rồi tỏa chiếu lên toàn cõi đất nước
cũng là ánh sáng của 100 năm văn hiến nhờ sự nghiệp của những anh hùng như
nguyễn trãi, lê thánh tông, lương thế vinh…nhờ những thành tựu văn hóa đẹp đẽ
như hội tao đàn, bản đồ hồng đức… sự phát triền cao độ của chế độ phong kiến tập
quyền thời lê sơ đề ra yêu cầu xây dựng một bộ pháp luật hoàn chỉnh để củng cố
những trật tự xã hội mới.
Thứ hai các vua nhà Lê, kể từ vua Lê Thái Tổ (1428-1433) sau khi lên ngôi đều
đề cao Nho học. Thời Lê các bộ kinh điển và sách vở liên quan tới Nho giáo được
du nhập từ Trung Hoa và được phổ biến rộng rãi, vì vậy Nho giáo có điều kiện để
trở thành cơ sở lý luận cho các nhà soạn thảo luật pháp thời Lê.
Ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt đó nên bộ luật hồng đức đã đề cao vai trò của
người phụ nữ và đã bước đầu thể hiện sự công bằng của xã hội.
Ngoài ra các yếu tố khách quan và chủ quan khác cũng đã tác động mạnh mẽ đến
các nhà làm luật thời Lê để tạo nên một Bộ luật tiến bộ có sự đề cao vai trò và
8
quyền người phụ nữ:
• Trong
bối cảnh lịch sử của một nhà nước phong kiến hưng thịnh. Triều đình
Lê sơ cho mở nhiều khoa cử, thay đổi bộ máy chính quyền, không cho hoàng tộc
các chức vụ thực quyền mà trọng dụng những người đã đổ khoa để bổ nhiệm,
việc hạn chế sự thế tập dòng dõi quan lại giúp chế độ quan liêu hạn chế rất nhiều
sự chuyên quyền dòng họ. Nhiều công trình sử liệu, văn học, thiên văn, quan
chế...được hoàn thiện trong thời Lê Sơ. Phát huy sức mạnh của nhân tài là huy
động được nguồn lực phát triển trên tất cả mọt mặt văn hóa, kinh tế, chính trị,
pháp luật , xã hội.
• Bộ
luật Hồng Đức không phải là một bộ luật do Lê Thánh Tông sáng tạo,
cũng không phải được xây dựng trong những năm Hồng Đức (1470-1497), mà
đây là sản phẩm của một thời phong kiến cực thịnh ở Việt Nam, trong cả thời kì
Lê sơ. Vì vậy đây có thể nói là Bộ luật tập hợp đầy đủ những ưu việt của các
điều luật, pháp lệnh mà trước đó đã phát huy tác dụng mình.
Đây có thể nói là yếu tố khách quan tạo nên sự tiến bộ của một Bộ luật, là
nhân tố tác động mạnh mẽ vào các nhà làm luật sao cho phù hợp với yếu tố kinh tế
xã hội. Khi một đất nước có một nền chính trị xã hội ổn định, một nền kinh tế phát
triển là một điều kiện tất yếu để phát triển các yếu tố khác.
Tuy nhiên trong thời kì này tác động của quan điểm Nho giáo và Phật giáo còn
ảnh tác động mạnh mẽ trong toàn dân cũng như trong toàn bộ hệ thống tư tưởng.
Vì vậy cần có một số yếu tố mạnh mẽ hơn quyết liệt hơn nữa.
• Chúng
ta có thể kể đến những yếu tố thăng trầm suốt thời thơ ấu của vị vua
anh minh lỗi lạc Lê Thánh Tông. Cuộc đời trầm luân của ông gắn liền với vai trò
của người mẹ, Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao - một bậc Mẫu nghi thiên hạ
có công lao to lớn với cả 3 triều vua Lê sơ. Truyền thống nhân đạo, truyền thống
tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc
gia.. đã thấm nhuần vào tư tưởng của vị vua này trong những năm tháng ấy.
• Hơn
nữa chính bà Ngô Thị Ngọc Dao là nạn nhân của tư tưởng trọng nam
khinh nữ trong hệ tư tưởng Nho giáo. Là thân phận đàn bà, bà nhiều lần bị hãm
hại cũng chỉ vì không có được tiếng nói riêng cho chính mình. Đây cũng là một
yếu tố tác động không nhỏ khi mà bà là bậc Mẫu nghi thiên hạ có công lao to lớn
9
với cả 3 triều vua Lê sơ.
Đây là nguyên nhân chủ quan, phù hợp với bối cảnh lịch sử cũng như đạo đức
xã hội. Và trên thực tế nó đã chứng minh được tính ưu Việt của mình.
Với những lý do nêu trên sự tiến bộ trong văn hóa tư tưởng chính trị pháp luật
cũng như những tác động của xã hội là nhân tố quyết định đến việc ban hành
một bộ luật sao cho phù hợp với tình hình thực tế là một yếu tố tất yếu không
thể tách rời với thực tiễn cũng như sự tất yếu của lịch. Và đó là lí do dẫn đến
những quy định vượt qua rào cản tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo cũng như
một số đinh kiến xã hội mà ban hành một bộ luật tiến bộ hợp với xu thế thời đại
để bảo vệ quyền và lợi ích của người phụ nữ trong Bộ luật Hông Đức.
*NHỮNG QUYỀN ĐẶC THÙ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG ĐỜI SỐNG
MÀ CÁC QUỐC GIA PHONG KIẾN PHƯƠNG ĐÔNG KHÔNG THỪA
NHẬN.
Trong xã hội truyền thống phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều
Tiên, Việt Nam… thân phận của người phụ nữ luôn bị xem nhẹ,coi thường, bị ràng
buộc bởi đạo đức khắt khe, bị áp bức bởi luật lệ bất công. Nguyên nhân chính là do
hệ tư tưởng nho giáo chi phối mọi mặt đời sống xã hội.
Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào trong suy nghĩ của các quốc gia
phong kiến phương Đông, cũng vì thế họ đã không thừa nhận các quyền đặc thù
của người phụ nữ. Cái gọi là “Tam tòng” đã cướp đi quyền tự do của người phụ
nữ: khi ở nhà cha mẹ phải nghe theo lời cha, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Người
phụ nữ không được tự do yêu đương hôn nhân là do cha mẹ sắp đặt và con cái phải
nhất mực nghe theo dù có tình yêu riêng của mình cũng phải từ bỏ. Sau khi về nhà
chồng họ trở thành nô lệ không công của nhà chồng, phải phục dịch phía chồng đặc
biệt không được làm trái ý cha mẹ chồng, chồng. Sau khi cực khổ chăm lo chồng
con đến khi chồng mất người phụ nữ lại phải thủ tiết thờ chồng, người đàn ông có
thể có năm thê bảy thiếp tuy nhiên phụ nữ thì phải “chín kiếp một chồng” dù cho
chồng mất đi rồi họ cũng không thể tìm hạnh phúc mới cho mình. Trong gia đình
thì quyền lực người đàn ông là tuyệt đối, người phụ nữ chỉ được coi là “công cụ”
biết nói.
Trong xã hội, người phụ nữ bị cướp đi tiếng nói của mình. Họ không được
10
tham gia vào công việc của làng xã như: không được xuất hiện ở nơi cúng tế thần
linh, không đảm nhiệm chức vụ quan lại ở huyện làng, không được tham gia bầu
cử... Không được đi học, không được tham gia các kỳ thi Hương, Hội, Đình. Ở các
quốc gia Hồi Giáo người phụ nữ không được để lộ mặt.
Lễ giáo phong kiến còn ràng buộc người phụ nữ vào các lễ nghi: họ không
đươc lên nhà trên, không được thờ cúng, không được về nhà cha mẹ khi đã cưới
chồng, nếu vi phạm hoặc làm điều không vừa ý với xã hội họ sẽ bị đánh đập dã
man, chịu nhiều hình phạt nặng nề thậm chí cướp đi cả tính mạng của họ.
Có thể thấy các quyền cơ bản của người phụ nữ: quyền sống, quyền được yêu,
quyền tự do, quyền học tập, phát triển quyền thờ cúng phụng dưỡng cha mẹ, quyền
được giải trí...đã bị các quốc gia phong kiến phương Đông phủ nhận.
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ
Luật Hồng Đức đánh dấu bước phát triển vượt bật về đảm bảo quyền và lợi ích
của người phụ nữ Việt Nam trong thời kì phong kiến. nó chứng tỏ nét tiến bộ trong
tư tưởng nhà nước Việt Nam phong kiến ở thế kỷ XV và cũng được nhiều nhà sử
gia, nhà nghiên cứu luật pháp trong nước và quốc tế đánh giá cao.
Không khỏi phủ nhận những thành tựu đạt được của bộ luật Hồng Đức, bộ luật
được đánh giá rất cao, bộ luật phong kiến được coi là độc đáo, chẳng những trong
lịch sử Việt Nam mà cả trong lịch sử nói chung bởi nó có những điều khoản quy
định quyền lợi của người phụ nữ.
Bên cạnh những điểm tiến bộ nhất định thì bộ luật Hồng Đức vẫn còn có những
tư tưởng phong kiến lạc hậu ăn sâu hàng nghìn năm đè nặng trách nhiệm, nghĩa vụ
lên vai người phụ nữ. Đó là nghĩa vụ tòng phu, nghĩa vụ chung thủy của người vợ
và chế độ tài sản.
+ Nghĩa vụ tòng phu là khái niệm suy rộng của nghĩa vụ theo chồng, hết lòng vì
chồng, gia đình chồng của người vợ trong gia đình. Theo quan điểm của nho giáo,
người vợ phải phụ thuộc vào chồng, phải kính phục, phải tôn trọng và nghe lời
chồng, không được làm trái ý chồng. Người vợ không được ghen tuông, cậy thế lấn
át chồng, đánh chồng. Sự phục tùng buộc người vợ phải thực hiện đầy đủ, trọn vẹn
các nghĩa vụ với các thành viên trong gia đình chồng. Sự phụ thuộc này còn buộc
người vợ phải gánh chịu những hậu quả xấu do hành vi phạm tội mà người chồng
11
gây ra (quy định tại điều 331,504,481, 482, 476, 479, 483, 484….. trong Quốc
Triều Hình Luật).
+ Nghĩa vụ chung thủy chỉ đặt ra đối với người vợ nhưng không được đặt ra đối
với người chồng, người chồng đương nhiên có quyền đa thê. Sự chung thủy này
đảm bảo chắc chắn con sinh ra là của chồng họ. Đó là mục đích chính của hôn
nhân phong kiến, “sinh con nối dõi” tông đường. Vì vậy hành vi ngoại tình bị trừng
phạt nghiêm ngặt, cụ thể tại điều 401 luật Hồng Đức.
+ Chế độ tài sản: việc quy định chế độ tài sản của vợ chồng nói chung và tài
sản của vợ hoặc chồng nói riêng trong pháp luật phong kiến chưa rõ ràng mà mới
chỉ dự liệu trong một số trường hợp riêng rẽ. Bộ luật Hồng Đức không có một chế
định cụ thể nào đề cập đến tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân mà chỉ dự
liệu một số trường hợp khi vợ hoặc chồng chết ( điều 374, 375, 376). Vậy nên
người vợ vô năng lực đặt dưới sự quản lý của người chồng.
12
KẾT LUẬN
Quốc Triều hình luật hay còn gọi là Lê Triều hình luật, Luật Hồng đức là một
bộ luật điển hình, hoàn thiện nhất trong lịch sử nhà nước pháp luật phong kiến Việt
Nam. Bộ luật chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp lý
hoàn thiện hơn so với các bộ luật cùng thời; có những điểm tiếp cận với kỹ thuật
pháp lý hiện đại , làm cho nhiều nhà nghiên cứu đã "đi từ sự ngạc nhiên này đến sự
ngạc nhiên khác" .
Một trong những điểm đặc sắc nhất của Quốc triều hình luật là việc bảo vệ
quyền lợi phụ nữ, khẳng định vai trò, vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Đây là chính sách pháp luật rất tiến bộ, đậm tính nhân văn, tân kỳ vượt lên trên
những quan niệm, trật tự xã hội đương thời, vượt xa các bộ luật phong kiến trước
đó, cùng thời và kể cả sau này.
Bộ luật nhà Lê đã có tác động xã hội và hiệu lực thực tế trong hơn ba trăm sáu
mươi năm, các quy định của luật đã đi sâu vào ý thức, hành vi, thành những thói
quen, khuôn mẫu ứng xử của người dân Việt. Nhiều quy định của luật đã trở thành
tập quán, phong tục, bởi chính những quy định đó đã được xây dựng trên cơ sở tập
quán, phù hợp với phong tục tập quán dân tộc. Nhiều chế độ nhà nước sau này vẫn
dựa theo những quy định hay tinh thần chung của Bộ Luật nhà Lê để giải quyết các
tranh chấp về hôn nhân, gia đình, thừa kế...
Chế độ phong kiến và lễ giáo phong kiến trọng nam khinh nữ đã vùi dập người
phụ nữ, quy định cho họ một địa vị xã hội - pháp lý rất thấp kém, bất bình đẳng với
nam giới. Sự tồn tại của người phụ nữ dường như vô nghĩa "Nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô". Song những tư tưởng và thái độ đối xử bất công đó đã gặp phải sự
phản đối, yêu cầu đòi giải phóng phụ nữ. Trong chiều sâu tâm thức của người Việt
nam, câu ca dao mang tính triết lý "Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra" đã thể hiện lòng tôn kính, yêu thương, thấm đượm tính nhân
văn, trân trọng vai trò của người mẹ, người phụ nữ của nhân dân ta.
Trong xã hội cổ truyền Việt nam, phụ nữ có vai trò rất quan trọng trong đời
sống lao động, chiến đấu, bồi dưỡng các thế hệ măng non. Trong khuôn khổ của
quan niệm nho giáo đương thời, các quy định của Luật Hồng Đức về phụ nữ tất
yếu không thoát khỏi những điểm tiêu cực. Tuy vậy, tính nhân văn, tiến bộ và sự
13
dũng cảm của nhà làm luật thời bấy giờ lại được lịch sử ghi nhận ở việc vệ quyền
lợi của người phụ nữ, không chỉ trong hôn nhân, gia đình mà còn trong nhiều lĩnh
vực quan hệ xã hội khác. Quan điểm tiến bộ và nhân văn của nhà làm luật chính là
sự ghi nhận một thực tế lịch sử về vai trò của người phụ nữ. Trong quan niệm nho
giáo, người phụ nữ bao giờ cũng rơi vào địa vị rất thấp kém, song bộ luật lại quy
định một số quyền lợi nhất định cho người phụ nữ: ưu đãi trong việc áp dụng các
biện pháp trừng phạt, theo đó khi bị tội đồ và lưu, nam phạm nhân bao giờ cũng
phạt thêm một trượng thì nữ phạm nhân chỉ phải chịu năm mươi roi thay thế. Với
các điều luật quy định bộ luật Hồng Đức đã ghi nhận một cách bình đẳng sự đóng
góp của người phụ nữ trong tài sản chung và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp trong
quan hệ hôn nhân - gia đình.
Bộ luật Hồng Đức thể hiện được giá trị và vị thế của mình trong lịch sử dân tộc
bởi những tiến bộ vượt trội của nó, đặc biệt là tư tưởng tiến bộ về vai trò to lớn của
người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Qua đó dần xóa bỏ được quan niệm trọng
nam khinh nữ, để xây dựng một xã hội công bằng, nam nữ bình đẳng.
14