ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TRẦN HOÀNG HẠNH
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2007
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:
60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN KIM ĐỈNH
HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
Chương 1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG (1986 - 1996) ......................................................................... 7
1.1. Tổng quan về Thành phố Đà Nẵng ................................................................ 7
1.1.1. Lược sử hình thành ............................................................................. 7
1.1.2. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội ................................................. 9
1.1.3. Truyền thống văn hóa - giáo dục ...................................................... 14
1.2. Thực trạng phát triển giáo dục đào tạo Thành phố Đà Nẵng từ năm 1986
đến năm 1996 .................................................................................... 15
Chương 2. ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO
DỤC ĐÀO TẠO (1997 - 2007)............................................................... 23
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển giáo dục đào tạo
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ..... 23
2.2. Chủ trương phát triển giáo dục đào tạo của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
từ năm 1997 đến năm 2002............................................................... 33
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng ................................. 33
2.2.2. Quá trình tổ chức thực hiện............................................................... 38
2.3. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lãnh đạo phát triển giáo dục đào tạo
từ năm 2002 đến năm 2007............................................................... 45
2.3.1. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lãnh đạo phát triển giáo dục
đào tạo ............................................................................................... 45
2.3.2. Thành tựu giáo dục đào tạo Thành phố Đà Nẵng từ năm
2002 đến năm 2007 ........................................................................... 53
Chương 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KHUYẾN NGHỊ.................................. 68
3.1. Một số kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng đối với
sự nghiệp giáo dục đào tạo ............................................................... 68
3.1.1. Thành ủy Đà Nẵng vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng
sát hợp với thực tiễn lãnh đạo phát triển giáo dục đào tạo
của thành phố .................................................................................... 68
3.1.2. Phát huy mọi nguồn lực cho sự nghiệp giáo dục đào tạo ................. 73
3.1.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp giáo dục
đào tạo ............................................................................................... 76
3.2. Một số đề xuất, khuyến nghị ........................................................................ 82
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 87
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 93
QUY ƯỚC VIẾT TẮT
BCHTW:
Ban Chấp hành Trung ương
CTQG:
Chính trị quốc gia
CN - XD:
Công nghiệp - xây dựng
CNXH:
Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSVN:
Cộng sản Việt Nam
GDĐT:
Giáo dục đào tạo
HĐND:
Hội đồng nhân dân
Nxb:
Nhà xuất bản
TW:
Trung ương
THCS:
Trung học cơ sở
THPT:
Trung học phổ thong
UBND:
Ủy ban nhân dân
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
XMC:
Xóa mù chữ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hơn tám mười năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
sự nghiệp giáo dục đào tạo nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trong
quá trình đó Đảng luôn chú trọng sự nghiệp “trồng người” vì lợi ích của quốc
gia, dân tộc.
Trong bước chuyển của thời đại sang nền kinh tế tri thức, giáo dục đào
tạo và khoa học công nghệ đã ngày càng trở thành yếu tố trực tiếp của lực
lượng sản xuất hiện đại. Giáo dục đào tạo không những là động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội mà còn là một trong những cột đỡ chính của kinh tế
- xã hội. Ngoài ra, giáo dục đào tạo còn có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc
hình thành lý tưởng, đạo đức, nhân cách của con người Việt Nam, của thế hệ
tương lai vì một xã hội tiến bộ, văn minh mà chúng ta mong muốn xây dựng.
Hòa chung vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Thành
phố Đà Nẵng sau khi trở thành thành phố trực thuộc TW (từ ngày 1/1/1997)
với sức sống mới, khí thế làm ăn mới của một thành phố lớn ở khu vực duyên
hải miền Trung đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, an ninh quốc phòng. Sớm nhận thức được vị trí, vai trò của giáo dục
đào tạo Đảng bộ thành phố đã lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo có những
bước phát triển vững chắc vì mục tiêu “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài”.
Cùng với sự phát triển về quy mô, đa dạng hóa các loại hình trường,
lớp, phương thức đào tạo, cơ sở vật chất được tăng cường, chất lượng giáo
dục của thành phố từng bước được nâng cao và Đà Nẵng đã trở thành trung
tâm giáo dục đào tạo của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển giáo dục đào tạo, Thành phố Đà Nẵng còn nhưng
hạn chế và đối mặt với nhiều vấn đề mới nảy sinh cần phải khẩn trương, tích
cực tháo gỡ, khắc phục nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để góp phần tổng kết sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
trong sự nghiệp giáo dục đào tạo từ năm 1997 đến năm 2007, chúng tôi đã
chọn nội dung: “Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục
đào tạo từ năm 1997 đến năm 2007” làm đề tài luận văn thạc sĩ ngành Lịch
sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan điểm của Đảng về giáo dục đào tạo và thực trạng giáo dục đào
tạo ở các địa phương là một vấn đề rộng lớn, phong phú và sâu sắc thu hút
được sự chú ý của nhiều nhà lãnh đạo quản lý và các chuyên gia.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp giáo dục
nước nhà, Người thường nói “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết
phải có con người xã hội chủ nghĩa”, muốn vậy trước hết phải làm tốt công
tác giáo dục. Người đã viết cuốn “Bàn về công tác giáo dục”, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1972. Trong cuốn sách này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu bật vai trò
cực kỳ quan trọng của công tác giáo dục, phản ánh sự cần thiết của một nền
giáo dục dưới chế độ xã hội chủ nghĩa; Vạch ra phương hướng cơ bản cho
chiến lược con người, chiến lược phát triển giáo dục ở nước ta trong suốt mấy
chục năm qua và cả thời gian sắp tới.
- Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng đã có các tác phẩm,
bài viết về giáo dục đào tạo như: Cuốn “Về vấn đề giáo dục đào tạo” của
đồng chí Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Cuốn sách
này đã nêu lên vai trò của giáo dục đào tạo và khẳng định để sự nghiệp giáo
dục phát triển mạnh mẽ cần có sự nhận thức đúng đắn, sâu sắc của toàn
Đảng, toàn dân và có được những chính sách hữu hiệu.
2
Bài “Phát triển mạnh mẽ giáo dục đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp
công nghiệp hóa đất nước” của đồng chí Đỗ Mười - đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu Giáo dục (tháng 1/1996) khẳng định: muốn đưa sự nghiệp công
nghiệp hóa đất nước nhanh chóng đến thắng lợi thì dứt khoát phải phát triển
mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Những tài liệu này là một hệ thống quan điểm, tư tưởng khoa học về
quản lý phát triển giáo dục đào tạo. Đó chính là cơ sở tư tưởng và lý luận cho
đường lối, chính sách giáo dục đã và đang tiến hành ở nước ta, cho nền khoa
học giáo dục Việt Nam, cho việc xây dựng và phát triển nhà trường Việt Nam
mới, cho chiến lược xây dựng con người mới của đất nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
- Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu về giáo dục đào tạo như:
“Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI” của GS.TS Phạm Minh
Hạc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Cuốn sách này đã trình bày tính
chất của nền giáo dục, nguyên lý, nội dung, hệ thống giáo dục nước ta qua
các giai đoạn lịch sử; phân tích mối quan hệ giữa giáo dục và phát triển
nguồn lực, các nguồn lực phát triển giáo dục và phương hướng phát triển
giáo dục trong thời gian tới. Cũng bàn về giáo dục, cuốn sách “Nhân tố mới
về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” do GS.TS Phạm Minh Hạc chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002 cũng đã nêu bật được những chuyển biến tích cực về chất lượng dạy và
học; có được những kết quả này là do sự cải tiến về phương pháp của cả thầy
lẫn trò, phong trào học tập trong nhân dân được đẩy mạnh. Từ đó xuất hiện
những nhân tố mới, những kinh nghiệm hay để góp phần thực hiện thắng lợi
đường lối giáo dục đào tạo của Đảng.
Đã có nhiều luận văn nghiên cứu, tổng kết thực tiễn về giáo dục đào
tạo ở từng địa phương trong cả nước như:
3
+ “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo sự nghiệp phát triển giáo dục đào
tạo trong thời kỳ đổi mới (1997 - 2006)” của Phạm Thị Thiết.
+ “Đảng bộ thị xã Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo sự nghiệp giáo
dục đào tạo (1986 - 2000)” của Tường Thúy Nhân.
+ “Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn lãnh đạo thực hiện chiến lược phát triển
giáo dục đào tạo (1991 - 2001)” của Trần Văn Dũng.
+ “Đảng bộ Đồng Tháp với chiến lược phát triển giáo dục (1976 1996)” của Lê Vũ Hùng.
+ “Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông
(1991 - 2001)” của Nguyễn Sĩ Hà.
Những luận văn trên phong phú, đa dạng về nội dung và phạm vi
nghiên cứu nhưng đều nhằm tìm phương hướng cho sự phát triển giáo dục
đào tạo của từng địa phương cũng như của cả nước.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu có hệ
thống về Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lãnh đạo phát triển sự nghiệp giáo dục
đào tạo từ năm 1997 đến năm 2007.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu của luận văn
Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng về phát triển giáo
dục đào tạo của địa phương từ năm 1997 - 2007 từ đó rút ra những nhận xét
và đề xuất một số khuyến nghị phục vụ cho sự nghiệp giáo dục đào tạo của
thành phố.
* Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn trình bày một cách có hệ thống quá trình lãnh đạo của Đảng
bộ Thành phố Đà Nẵng trong việc vận dụng đường lối phát triển giáo dục đào
tạo của Đảng vào thực tiễn địa phương từ năm 1997 đến năm 2007.
4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng trong lĩnh vực phát triển
giáo dục đào tạo thể hiện ở những chủ trương biện pháp và tổ chức thực hiện
của Đảng bộ Thành phố từ năm 1997 đến năm 2007.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu vai trò lãnh đạo của Thành phố Đà
Nẵng đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo của Thành phố.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu trong 10 năm từ năm 1997 đến
năm 2007.
- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu
- Hệ thống văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến
năm 2007 liên quan đến đề tài.
- Các văn kiện của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, báo cáo hàng năm của
Ủy ban nhân dân, Sở Giáo dục đào tạo Thành phố Đà Nẵng, báo cáo hàng
năm của các quận, huyện tiêu biểu.
- Một số công trình nghiên cứu khảo sát, đánh giá có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận mác-xít và những quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo, phương pháp
nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp lịch sử, phương pháp logic
và sự kết hợp hai phương pháp đó.
Cùng với các phương pháp so sánh, thống kê, tổng hợp… để trình bày
kết quả nghiên cứu làm rõ nội dung nêu trên.
5
6. Đóng góp của luận văn
- Trình bày có hệ thống chủ trương của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
về giáo dục đào tạo trong thời kì (1997 - 2007). Trên cơ sở đó luận văn xây
dựng các khuyến nghị để phát triển giáo dục đào tạo của Thành phố Đà Nẵng
trong thời kỳ mới.
- Khẳng định những thành tựu về giáo dục đào tạo của Thành phố Đà
Nẵng sau mười năm trở thành thành phố trực thuộc TW.
- Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng dạy
lịch sử Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 6 tiết:
Chƣơng 1: Thực trạng phát triển giáo dục đào tạo Thành phố Đà Nẵng
(1986 - 1996).
Chƣơng 2: Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục
đào tạo (1997 - 2007).
Chƣơng 3: Bài học kinh nghiệm và khuyến nghị.
6
Chƣơng 1
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1986 - 1996)
1.1. Tổng quan về Thành phố Đà Nẵng
1.1.1. Lược sử hình thành
Đà Nẵng là một thành phố trực thuộc TW, nằm ở vùng duyên hải Nam
Trung Bộ Việt Nam. Là một trong những đô thị lớn của Việt Nam, Đà Nẵng
đã và đang khẳng định vị trí của mình trong tiến trình phát triển của cả nước.
Theo ngôn ngữ Chăm, địa danh Đà Nẵng có nghĩa Đà Nẵng là “sông
lớn” hay “cửa sông cái”, chỉ một vùng đất ở Nam đèo Hải Vân, quanh cửa
sông Hàn. 2000 đến 3000 năm trước, vùng đất này cũng như phần lớn vùng
đồng bằng ven biển miền Trung cũng có một nền văn hóa, có tên Sa Huỳnh.
Năm 1306 là mốc lịch sử đánh dấu vùng đất Đà Nẵng, bắt đầu sát nhập vào
lãnh thổ quốc gia Đại Việt, thuộc đạo Hóa Châu (gần Thừa Thiên và vùng đất
từ đèo Hải Vân đến bắc sông Thu Bồn) và Đà Nẵng được ghi trên các bản đồ
vẽ từ thế kỷ XVII trở đi. Cho đến thế kỷ XIX, địa danh Đà Nẵng là tên gọi
của một vùng lãnh thổ gắn liền với một cửa biển, một vịnh nước, bao quát
một vùng dân cư nằm trên tả ngạn sông Hàn.
Cuối thế kỷ XVI, khi Hội An (Quảng Nam) đang phát triển rực rỡ như
một cảng thị buôn bán với nước ngoài quan trọng nhất của nước ta thì Đà Nẵng
được coi là một “tiền cảng” hay “cảng tạm dừng” của các nhà hàng hải và
thương nhân. Trong con mắt của họ, Hội An là cửa ngõ của Đà Nẵng còn Đà
Nẵng là cái sân sau của Hội An. Nhưng thế kỷ XVIII trở về sau, khi Hội An bắt
đầu sa sút thì họ lại dồn sự quan tâm của mình cho Đà Nẵng với nhưng tiềm
năng ưu việt của một hải cảng lớn. Năm 1773, sứ đoàn của Anh do Ma-cát- nây
dẫn đầu trên đường qua Trung Hoa đã cập bến Đà Nẵng và một nhân viên
7
trong sứ đoàn này đã ghi lại nhận xét của mình khi đặt chân tới cửa biển này:
“Vịnh Đà Nẵng xứng đáng mang danh hải cảng lớn hơn là Vịnh, đó là một
trong những cảng lớn và vững chắc nhất được thấy trong khu vực mà sứ đoàn
đi qua” [43, tr.28]. Từ đó các tàu thuyền của Nhật Bản, Trung Hoa và châu Âu
đã chọn Đà Nẵng là nơi giao dịch hàng hóa chủ yếu và Đà Nẵng trở thành một
hải cảng quan trọng bậc nhất ở miền Trung Việt Nam lúc bấy giờ.
Đà Nẵng trong cái nhìn chiến lược của thực dân Pháp, nếu làm chủ được
Đà Nẵng thì chắc chắn sẽ khống chế được con đường giao thương quốc tế lúc
bấy giờ và thôn tính Việt Nam, lấy Việt Nam làm bàn đạp có thể mở rộng thị
trường và thuộc địa ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và ngày 28/3/1930,
Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Nam được thành lập, đánh
dấu một mốc son quan trọng, mở ra thời kỳ đấu tranh của nhân dân Đà Nẵng
theo ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cùng với nhân dân cả
nước, nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã
đánh thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay sau khi giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Quảng Nam Đà Nẵng, nhân dân Đà Nẵng nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh,
phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xây dựng thành phố ngày càng giàu đẹp
văn minh. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng những thành quả của công cuộc
khôi phục và phát triển thành phố, nhất là từ sau thời kỳ đổi mới (1986) đến
nay đã và đang khẳng định con đường đi lên của mình trong tương lai. Ngày
6/11/1996 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết tách
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và Thành phố Đà Nẵng
trực thuộc TW.
8
Ngày 15/7/2003, Đà Nẵng được chính phủ công nhận là đô thị loại 1,
mở ra một cơ hội mới cho thành phố phát triển, xứng đáng là trung tâm kinh
tế - xã hội lớn nhất miền Trung - Việt Nam.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
a, Điều kiện tự nhiên
Thành phố Đà Nẵng có diện tích tự nhiên là 1.255,53 km2; bao gồm
sáu quận nội thành (Hải Châu, Thanh Khê, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Liên
Chiểu, Cẩm Lệ), một huyện ngoại thành (Hòa Vang) và một huyện đảo
(Trường Sa). Phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía Nam và Tây giáp
tỉnh Quảng Nam. Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển
của Tây Nguyên và các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các
nước vùng Đông Bắc Á thông qua hành lang kinh tế Đông - Tây với điểm kết
thúc là cảng biển Tiên Sa. Nằm ngay trên một trong những tuyến đường biển
và đường hàng không quốc tế Thành phố Đà Nẵng có một vị trí địa lý đặc
biệt thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững. Ngoài ra, Đà Nẵng
là trung tâm của ba di sản văn hóa thế giới nổi tiếng là cố đô Huế, Phố cổ Hội
An và Thánh địa Mỹ Sơn. Đồng thời chính yếu tố vị trí địa lý này cũng đặt ra
những thách thức phải vượt qua để phát triển nhanh nền kinh tế, nhất là nền
kinh tế mũi nhọn theo thế mạnh đặc thù có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội Thành phố Đà Nẵng và vùng trọng điểm miền Trung - Tây
Nguyên.
Đà Nẵng nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng gió mùa nhiệt đới, chia
thành hai mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 1 đến tháng 9, còn lại là mùa mưa.
Nhiệt độ trung bình là 25,6OC, lượng mưa trung bình hằng năm là 1.992mm,
số giờ nắng trung bình hằng năm là 2.198 giờ, độ ẩm không khí trung bình
hằng năm là 82%, hướng gió thịnh hành là Đông Bắc - Tây Nam, bão thường
xuất hiện từ tháng 7 đến tháng 11 hàng năm, cấp bão lớn nhất lên đến 11, 12.
9
Về sông ngòi có sông Hàn, sông Cẩm Lệ, Túy Loan, Vĩnh Điện, Cu
Đê. Tổng trữ lượng nước trên 11 tỷ m3.
Địa hình Thành phố Đà Nẵng vừa có đồng bằng vừa có núi, vùng núi
cao và dốc tập trung ở phía Tây và Tây Bắc, từ đây có nhiều dãy núi chạy dài
ra biển, một số đồi thấp xen kẽ vùng đồng bằng ven biển hẹp. Hệ thống sông
ngòi ngắn và dốc, bắt nguồn từ phía Tây, Tây bắc và tỉnh Quảng Nam. Đồng
bằng ven biển là vùng đất thấp chịu ảnh hưởng của biển bị nhiễm mặn, là
vùng tập trung nhiều cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, quân sự, đất ở
và các khu chức năng của thành phố.
b, Đặc điểm kinh tế - xã hội
Cùng với sự phát triển đi lên của cả nước nói chung thì tình hình kinh
tế - xã hội của Thành phố Đà Nẵng cũng đã có những bước chuyển biến
mạnh mẽ không ngừng. Tuy chỉ mới thay da đổi thịt trong hơn mười năm trở
lại đây nhưng Đà Nẵng đã từng bước khẳng định được vị trí trung tâm của
mình ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Với những lợi thế về mặt địa lý,
tiềm năng kinh tế, năng lực cạnh tranh trong thu hút đầu tư, giải quyết các
vấn đề an sinh xã hội. Toàn Đảng, toàn dân thành phố đã và đang hướng tới
mục tiêu tự tin vững bước trong quá trình phát triển chung của cả nước với
mục tiêu chính là xây dựng thành phố trở thành một đô thị văn minh, hiện đại
phát triển bền vững.
Năm 2009, Thành phố Đà Nẵng có 777.216 người, dân số 6 quận nội
thành chiếm 78,94%, dân số trong độ tuổi lao động chiếm 53,5%. Tổng số
lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân của thành phố là 303.305
người. Lao động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 30,21%; lao động công nghiệp
và xây dựng chiếm 37,96%; lao động dịch vụ chiếm 37,96%. Số lao động
chưa có việc làm chiếm khoảng 6%.
10
Từ năm 1997 đến nay, cơ cấu ngành của thành phố đã có sự chuyển
dịch mạnh theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành
công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Sự chuyển dịch này là phù hợp với xu thế
chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy
nhiên, điều này chỉ là rất bình thường do Đà Nẵng là một đô thị lớn, phát
triển theo hướng là trung tâm công nghiệp, dịch vụ của khu vực
Năm 1997, năm đầu tiên trở thành đơn vị trực thuộc TW, kinh tế thành
phố đạt mức tăng trưởng kinh tế khá, ở mức 12,7%. Tuy nhiên, cuối năm
1997, cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á đã tác động xấu đến kinh tế nước ta,
bên cạnh đó do tác động của cơn lũ gây thiệt hại nặng nề nên tốc độ tăng
trưởng của thành phố giảm mạnh trong năm 1998 và tăng chậm trong 2 năm
1999 - 2000 (9,5% và 9,9%). Kết quả cả giai đoạn 1997 - 2000, tốc độ tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP, giá cố định 1994) chỉ đạt bình quân
10,2%/năm, trong đó thủy sản nông lâm tăng 3,1%, công nghiệp xây dựng
tăng trong đó GDP tăng từ 35,2% năm 1997 lên 41,3% năm 2000. GDP bình
quân đầu người năm 2000 đạt trên 430 USD/người, tăng gấp 1,45 lần so với
năm 1997. Giá trị săn xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 8,47%/năm.
Từ năm 2001, thành phố từng bước phát huy nhân tố cơ chế mới, huy
động nguồn lực đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất, vượt qua ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính, khắc phục thiên tai... đưa kinh tế tăng trưởng mạnh
trở lại với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 12% vào năm 2001. Đến năm
2002 là 12,56% và năm 2003 trở thành đô thị loại 1. Thành phố Đà nẵng là
trung tâm của khu vực miền Trung - Tây Nguyên đã từng bước hoàn thiện
môi trường đầu tư, môi trường sản xuất kinh doanh theo hướng mở rộng và
nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh tế
tiếp tục tăng trưởng nhanh (năm 2003 là 13,26% ; 2004 là 13,84%; năm 2005
là 14%).
11
Bảng 1.1. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội Thành phố Đà nẵng (2001 - 2005)
Thực hiện 5 năm
Tốc độ
tăng
Chỉ tiêu
ĐVT
2001
2002
2003
2004
2005
BQ
(%)
1. GDP (giá cố
Tỷ
3.804,9
4.282,9
4.823,4
5.462,8
6.224,9
%
12,23
12,56
13,26
13,84
14
USD
493
565
687
796
950
100
100
100
100
100
27,18
24,54
23,45
22,18
20,6
- Xây dựng
28,76
36,73
38,25
39,78
41
- Dịch vụ
44,06
38,74
38,30
38,04
38,4
236,52
247,03
260,85
309,35
500
định)
- Tốc độ tăng
trưởng
2. GDP bình
quân đầu ngƣời
đồng
13,18
3. Cơ cấu GDP
- Nông - lâm thủy sản
- Công nghiệp
4. Kim ngạch
xuất khẩu
%
Tr.
USD
14,21
Nguồn: Báo cáo tổng kết 5 năm kinh tế - xã hội UBND TP Đà Nẵng
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 13,18%, Thành phố Đà nẵng là
một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của cả nước.
Tổng giá trị GDP của thành phố năm 2005 gấp 1,64 lần so với năm
2001. Năm 2005 GDP của thành phố là 6.224,96 tỉ đồng chiếm 0,8% so với
cả nước.
Cơ cấu kinh tế của thành phố chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Tỷ trọng GDP của
công nghiệp tăng từ 28,7% (2001) lên 41% (2005); ngành dịch vụ từ 44,06%
(2001) giảm xuống còn 38,4% (2005); ngành nông nghiệp từ 27,18% (2001)
12
giảm xuống còn 20,06% (2005). Ngành thủy sản - nông - lâm có xu hướng
chuyển dịch đúng hướng, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp thuần túy, tăng hàm
lượng công nghiệp dịch vụ trong nội bộ sản xuất ngành, chuyển đổi cơ cấu
theo hướng tăng cây thực phẩm, cây ăn quả, rau sạch và tỷ trọng ngành chăn
nuôi. Mức sống của người dân thành phố được tăng lên, GDP bình quân tăng
từ 493 USD (2001) lên 950 USD (2005).
Bảng 1. 2. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội Thành phố Đà Nẵng (2006 - 2007)
Chỉ tiêu
ĐVT
2006
2007
GDP (giá cố định)
Tỷ đồng
6776,12
7545,443
Tốc độ tăng trưởng
%
11,2
13,2
333,559
346,806
3248,366
3543,741
3194,193
3654,896
GDP bình quân
Tr. Đồng
Cơ cấu GDP
-
Nông nghiệp
-
Công nghiệp xây dựng
-
Dịch vụ
%
Nguồn: Niên giám thống kê 2006, 2007 Thành phố Đà Nẵng.
Năm 2006 cùng với những thách thức của quá trình hội nhập kinh tế và
biến động giá làm cho nhịp độ phát triển bị chậm lại. Năm 2006 tốc độ tăng
GDP chỉ đạt 11,2%. Năm 2007, được sự chỉ đạo kịp thời của chính quyền
thành phố đã tập trung chỉ đạo, chủ động nắm bắt cơ hội, đề ra các giải pháp,
chương trình hành động thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đưa
kinh tế - thành phố tăng trưởng trở lại ở mức 13,2%.
Đà Nẵng trung tâm của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, là nơi tập
trung các cơ quan nghiên cứu các cơ sở đào tạo của cả khu vực. Trình độ dân
trí và trình độ kỹ thuật nguồn nhân lực của Thành phố Đà Nẵng tương đối
cao so với trung bình của cả nước, lao động trình độ đại học chiếm khoảng
14,5%, lao động trình độ trung học chiếm 7,5%, công nhân kỹ thuật khoảng
13
25,1%. Tỷ lệ cơ cấu lao động giữa các ngành công nghiệp, dịch vụ, nông
nghiệp là 31,8% - 42, 5% - 19,4%.
Cơ sở hạ tầng: Thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn đầu tư mạnh cho cơ
sở hạ tầng phục vụ thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Hệ thống tài chính tín dụng: số lượng các ngân hàng và chi nhánh ngân
hàng đầu tư tại Đà Nẵng tương đối nhiều và đa dạng, bên cạnh có còn có các
công ty tài chính và quỹ hổ trợ phát triển cho các doanh nghiệp trong đầu tư.
Hệ thống thanh toán nhanh và tiện dụng.
Y tế, giáo dục cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu của người dân địa
phương và khu vực lân cận cả vế số lượng và chất lượng.
Về chính trị, Đà Nẵng giữ vững và đảm bảo trật tự an toàn cho nhân
dân cũng như môi trường đầu tư và phát triển của các thành phần kinh tế.
1.1.3. Truyền thống văn hóa - giáo dục
Vùng văn hóa xứ Quảng được hình thành trong tổng thể vùng văn hóa
miền Trung, dựa trên nền tảng văn hóa Sa Huỳnh và nền văn hóa Chămpa rực
rỡ, từ xa xưa đã hiện hữu trên mảnh đất Hóa Châu - vùng đất cực Nam của
Đại Việt (từ phía Nam Thừa Thiên Huế đến bờ Bắc sông Thu Bồn hiện nay).
Vì thế, khi nói đến giá trị văn hóa Xứ Quảng, không chỉ những người Quảng
Nam - Đà Nẵng mà còn bao gồm những con người thuộc các dân tộc sống
trên mảnh đất này từ thuở khai hoang, dựng nghiệp cho đến nay đã đồng tâm
hiệp lực tạo nên diện mạo đặc trưng của một vùng.
Quảng Nam - Đà Nẵng là vùng đất học nổi tiếng, sản sinh ra nhiều
khoa bảng, nhiều nhà tri thức cho đất nước. Trong khoảng 100 năm từ năm
1817 - 1918 tại 32 kì thi hương ở Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng có
tất cả 252 người đỗ liên tiếp trong 32 khoa, chiếm 27,7% số người trong
trường này, bằng 5,95% số người đỗ trong cả nước. Quảng Nam - Đà Nẵng
còn có 39 người đỗ đại khoa gồm 14 tiến sĩ và 25 phó bảng trong số 558
14
khoa bảng trong cả nước, xếp hàng thứ 6 trong đó có một Hoàng nguyên đình
giáp là Phạm Như Xương, 2 trường hợp song nguyên là Phạm Ngũ Thứ và
Huỳnh Thúc Kháng vừa đỗ hương nguyên vừa đỗ hội nguyên. Tiếp nối
truyền thống hiếu học của cha ông, tuổi trẻ Quảng Nam - Đà Nẵng không
ngừng học tập, khẳng định mình.
Tính cách của con người Đà Nẵng và truyền thống văn hóa lâu đời là
cơ sở tạo nên tinh thần dũng cảm, năng động, sáng tạo, luôn nhạy bén với cái
mới của nhân dân thành phố, giúp họ có được những cách làm sáng tạo,
những đề xuất quan trọng, để vượt qua những thời điểm khó khăn nhất.
Truyền thống của địa phương sẽ giúp cho học sinh Đà Nẵng sớm tiếp thu
được tinh hoa của thời đại trước những biến thiên của lịch sử, góp phần xây
dựng và phát triển thành phố qua các thời kỳ.
1.2. Thực trạng phát triển giáo dục đào tạo Thành phố Đà Nẵng từ
năm 1986 đến năm 1996
Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước chuyển rất quan trọng
trong nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Quán triệt chủ trương đổi mới của TW Đảng, hội
nhập vào công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội của cả nước và tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng, Thành ủy Đà Nẵng lãnh đạo công cuộc đổi mới giáo dục ở
Đà Nẵng, vận dụng sáng tạo phù hợp với những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương. Tư tưởng chỉ đạo của Thành ủy là đổi mới về kinh tế
phải đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề về văn hóa - xã hội, an ninh, quốc
phòng; đề ra những chủ trương, biện pháp chăm lo, xây dựng, phát huy nhân
tố con người trong tình hình mới.
Chủ trương lớn bao trùm toàn bộ quá trình đổi mới giáo dục đào tạo từ
1986 - 1996 của Thành phố Đà Nẵng là chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc dân
15
từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lần thứ XIV (10/1986) với tinh
thần nhìn thẳng vào sự thật, sau khi phân tích đầy đủ, đúng đắn những
nguyên nhân dẫn đến thực trạng kinh tế - xã hội của địa phương đã đề ra
nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát cho những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Xác định đúng vị trí, vai trò của phát triển
giáo dục đào tạo trong việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn và hình
thành cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp ở địa phương. Nghị quyết Đại hội
nhấn mạnh phải đầu tư thích đáng cho công trình phúc lợi, trong đó có trường
học; xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, gắn chặt với yêu cầu,
nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong thời kỳ
đổi mới. Vì nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, với bản chất nhân đạo, ưu việt
“Tất cả vì con người”, đặc biệt đối với tuổi thơ - mầm non của tương lai, là
chủ nhân của đất nước, đồng thời để ngăn chặn sự giảm sút của giáo dục
mầm non, giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, cần phải “Ra sức giáo dục
mầm non làm nền tảng cho giáo dục phổ thông”, “Bảo đảm cho tất cả trẻ em
trong độ tuổi quy định được vào học và học hết tiểu học, phấn đấu phổ cập
trung học cơ sở ở những vùng có điều kiện” [26, tr.16-17].
Đại hội Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lần thứ XV (10/1991) tiếp tục đề
ra nhiệm vụ: Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cả về số lượng, chất lượng,
phục vụ tốt cho 3 chương trình kinh tế lớn và phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần trong thành phố là nhiệm vụ hàng đầu, cấp bách của giáo
dục đào tạo. Vì vậy, cần sắp xếp hợp lý hệ thống trường chuyên nghiệp, dạy
nghề; đa dạng hóa các hình thức trường lớp và phương thức đào tạo; thực
16
hiện chặt chẽ quá trình tuyển sinh, đào tạo với bố trí, sử dụng nhằm tránh tình
trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, mất cân đối giữa các ngành đào tạo như trước
đây. Để hạn chế được mặt trái, mặt tiêu cực của kinh tế thị trường xâm nhập
vào nhà trường, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, vai trò
quản lý của chính quyền các cấp, sự kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, các lực
lượng xã hội trong việc chăm lo sự nghiệp giáo dục đào tạo; đồng thời cần
chú trọng đến giáo dục chính trị tư tưởng cho học sinh, sinh viên và đội ngũ
giáo viên.
Vận dụng đường lối đổi mới kinh tế - xã hội của Đảng, phù hợp với
đặc điểm của giáo dục đào tạo. Giáo dục đào tạo Thành phố Đà Nẵng đã tiến
hành đổi mới mục tiêu đào tạo về mặt xã hội cũng như về mặt nhân cách, đổi
mới cấu trúc hệ thống và cơ chế vận hành vừa thích hợp với điều kiện trước
mắt, vừa chuẩn bị tiền đề cho bước phát triển tiếp theo.
Sau 10 năm đổi mới, giáo dục đào tạo Thành phố Đà Nẵng trực thuộc
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã khắc phục những mặt khó khăn của mặt trái
cơ chế thị trường tác động và thu được những kết quả bước đầu sau đây:
Đã cải tiến một bước cấu trúc hệ thống giáo dục, đa dạng hóa các loại
hình trường, các loại hình giáo dục đào tạo, sắp xếp và phát triển mạng lưới
trường.
Các cấp bậc học trong cấu trúc hệ thống mới (theo Nghị định 90/CP)
hợp lý hơn về mặt tổ chức quá trình giáo dục đào tạo và phục vụ nhu cầu xã
hội. Ngoài hệ thống các trường công có thêm các loại trường bán công, dân
lập, tư thục. Bên cạnh các loại hình giáo dục đào tạo chính quy, loại hình phi
chính quy phát triển mạnh.
Mạng lưới trường phổ thông mở rộng trên khắp các xã, phường, cơ sở
vật chất được cải thiện. Các xã miền núi thuộc huyện Hòa Vang có trường
nội trú dành cho học sinh các dân tộc ít người.
17
Hệ thống giáo dục đại học và chuyên nghiệp mở rộng hơn trước cả về
quy mô, ngành nghề và loại hình đào tạo. Các trường đại học, cao đẳng trên
địa bàn được sắp xếp lại, hình thành Đại học Đà Nẵng trong đó có Đại học
Sư phạm.
Nhờ có mạng lưới giáo dục đó, nhu cầu học tập của cá nhân và xã hội
được đáp ứng thuận lợi.
Quy mô giáo dục đào tạo phát triển ở mọi cấp học, bậc học
Từ năm 1993 hiện tượng giảm sút quy mô được ngăn chặn. So với năm
học 1990 - 1991, năm học 1995 - 1996 quy mô đào tạo của mẫu giáo tăng 1,3
lần, phổ thông tăng 1,25 lần, trung học chuyên nghiệp tăng 1,22 lần, đại học
tăng 2,7 lần. Thành phố Đà Nẵng đã hoàn thành chương trình xóa mù chữ và
phổ cập tiểu học. Nhiều phường, xã của Đà Nẵng đủ tiêu chuẩn công nhận
phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người biết chữ trong nhân dân được nâng lên
đạt mức 96%; tỷ lệ trẻ em đi học trong độ tuổi phổ cập tiểu học và số học
sinh các cấp đều tăng. Một phong trào học tập rộng rãi trong nhân dân phát
triển hướng về nhu cầu nhân lực như phong trào học nghề ngắn hạn, tin học,
ngoại ngữ, quản trị kinh doanh.
Bước đầu đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đào tạo
Đã có đổi mới xu hướng vừa gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thế giới. Nội dung giáo dục
đào tạo được cải tiến để bao hàm những kiến thức hiện đại về khoa học, công
nghệ và quản lý; Những kiến thức mang tính chất đặc thù của đất nước,
truyền thống văn hóa dân tộc. Nội dung dạy học đã được tăng cường theo
hướng làm cho kiến thức lĩnh hội được ở nhà trường có tác dụng thiết thực
đối với cuộc sống, tạo điều kiện cho người tốt nghiệp tự tin, tự tạo việc làm.
Học sinh, sinh viên năng động tích cực và chủ động học tập hơn trước.
18
Chất lượng giáo dục đào tạo đã có nhiều chuyển biến về các mặt giáo
dục chính trị, phẩm chất đạo đức. Kiến thức về hướng nghiệp, ngoại ngữ,
nhạc, họa, tin học, thể dục, thể thao, quốc phòng được tăng cường. Hiệu quả
giáo dục tăng lên rõ rệt. Số lượng học sinh khá giỏi và học sinh đạt giải quốc
gia tăng lên hàng năm.
Nhiều ngành học, cấp học đã tổ chức thi chọn giáo viên, học sinh giỏi
với kết quả cụ thể năm học 1995 - 1996 có 20 giáo viên đạt dạy giỏi cấp
thành phố, 146 học sinh giỏi bậc phổ thông cơ sở và trung học cấp thành phố,
7 học sinh giỏi cấp quốc gia. Một số đơn vị đạt tiên tiến hoặc khá. Các hoạt
động dạy và học luôn gắn với chương trình và quy chế chuyên môn nên các
kỳ thi tốt nghiệp đạt tỷ lệ khá: giáo dục phổ thông đạt 89,6% tốt nghiệp tiểu
học, 94,2% tốt nghiệp trung học cơ sở và có 81,5% thi vào lớp 10; bổ túc văn
hóa đạt 92% tốt nghiệp tiểu học và 93% tốt nghiệp trung học cơ sở; Giáo dục
chuyên nghiệp đạt 35,7%; tốt nghiệp cao đẳng, đại học đạt 40,35%; tốt
nghiệp trung học chuyên nghiệp và tốt nghiệp ở cơ sở dạy nghề đạt 54,31%.
Những thành tích đó bắt nguồn từ những thành quả ổn định phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân trong 10 năm đổi mới kinh tế đã
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giáo dục đào tạo; Đảng, Nhà nước và
chính quyền địa phương đã hết sức quan tâm và đổi mới chính sách giáo dục
thể hiện tập trung thực hiện Nghị quyết TW 4 khóa VII; các cấp ủy Đảng,
chính quyền, đoàn thể và nhân dân nhận thức rõ hơn vai trò của giáo dục đối
với tương lai của đất nước, đã vượt nhiều khó khăn, tích cực tổ chức thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục. Đội ngũ
giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và học sinh, sinh viên đã có những cố
gắng lớn lao, phần lớn giáo viên có nhiều tâm huyết, phấn đấu với nghề trong
đó có nhiều tấm gương hy sinh tận tụy vì sự nghiệp giáo dục trong hoàn cảnh
hết sức khó khăn thiếu thốn. Những thành tích nói trên của ngành giáo dục
19
đào tạo là to lớn, đã góp phần làm nên thành tựu chung của thành phố trong
những năm đầu đổi mới.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển giáo dục đào tạo những gì mà
ngành đạt được là còn quá ít ỏi, có mặt còn hạn chế, thậm chí “một số mặt
giảm sút” [27, tr.5] như:
Nội dung giáo dục đào tạo chưa toàn diện, trí dục chưa gắn chặt với
đức dục, thể dục và mỹ dục. Chưa đạt được tiến bộ cần thiết về nội dung,
phương pháp và phương tiện giáo dục. Chương trình, nội dung giáo dục còn
nặng và còn tách rời cuộc sống. Nhiều phần nội dung đại học và chuyên
nghiệp còn lạc hậu. Phương tiện giảng dạy, thí nghiệm, thực tập, nghiên cứu
thiếu thốn.
Chất lượng giáo dục ở các bậc học còn thấp nhất là chất lượng của hệ
không chính quy. Hiệu quả giáo dục chính trị đạo đức còn thấp, phẩm chất
chính trị của một bộ phận sinh viên, học sinh sa sút đáng lo ngại.
Phương pháp giảng dạy chậm được cải tiến, nặng lý thuyết xem nhẹ thực
hành, chưa khơi dậy tính chủ động và sáng tạo của học sinh, sinh viên. Tiêu cực
xuất hiện ngày càng nhiều làm hạn chế tính công bằng xã hội trong giáo dục như
việc dạy thêm thiếu tổ chức, thiếu công bằng với học sinh, tư tưởng “học chơi,
thi giả, đỗ thật”, nhất là đối với học sinh bổ túc văn hóa. Chất lượng đào tạo còn
thấp và hiệu quả sử dụng chưa cao, hiện tượng sắp xếp, phân bổ giáo viên ở các
ngành học, bậc học, môn học chưa thống nhất và hợp lý dẫn đến “chỗ thừa, chỗ
thiếu”, học sinh sau khi được đào tạo, đặc biệt các ngành kinh tế làm việc kém
hiệu quả.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Nền kinh tế chưa thoát
khỏi sự ràng buộc của cơ chế cũ, lạm phát, khủng hoảng kinh tế - xã hội còn
nghiêm trọng; đời sống của đại đa số nhân dân lao động và những người
hưởng lương nhà nước còn gặp nhiều khó khăn; Công tác quản lý giáo dục có
20
nhiều mặt yếu kém, bất cập; Cơ chế quản lý của ngành giáo dục đào tạo chưa
hợp lý; Phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ
động, sáng tạo của người học.
*
*
*
Trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn, giáo dục đào tạo Thành phố Đà
Nẵng trong 10 năm (1986 - 1996) sau đổi mới đã đạt được những chuyển
biến bước đầu đúng hướng, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và xây
dựng được điều kiện, tạo ra nhân tố mới cần thiết cho sự phát triển. Giáo dục
đào tạo Thành phố Đà Nẵng đã đạt được nhiều thành tích và trở thành một
trong những lá cờ đầu của giáo dục đào tạo tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Ngành giáo dục đào tạo thành phố đã huy động các nguồn lực theo phương
châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để đầu tư xây dựng cơ sở trường
học, từng bước giải quyết sức ép về tăng quy mô. Chất lượng giáo dục luôn
được chú trọng; tỷ lệ học sinh đủ điều kiện lên lớp, học sinh khá, giỏi cuối
cấp và học sinh giỏi cấp quốc gia khá ổn định. 100% xã, phường trên địa bàn
thành phố đã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù
chữ; quận Liên Chiểu đã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở. Đội
ngũ giáo viên từng bước được chuẩn hóa và khắc phục dần tình trạng thiếu
giáo viên các cấp học, ngành học. Thành phố đã có 9 giáo viên được phong
tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú, 290 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi và
127 cán bộ, giáo viên đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua.
Tuy nhiên, nhìn lại quá trình thực hiện các chủ trương phát triển giáo
dục của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1986 - 1996, có thể thấy
ngành giáo dục đào tạo Đà Nẵng cũng còn có những thiếu sót như đề ra mục
tiêu quá cao (phổ cập THPT) khi chưa có đủ điều kiện.
21