Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Ngoại giao văn hóa của việt nam nhìn từ góc độ quyền lực mềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 135 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THÁI GIAO THUỶ

NGOẠI GIAO VĂN HOÁ CỦA VIỆT NAM
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUYỀN LỰC MỀM

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THÁI GIAO THUỶ

NGOẠI GIAO VĂN HOÁ CỦA VIỆT NAM
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUYỀN LỰC MỀM

Chuyên ngành: QUAN HỆ QUỐC TẾ
Mã số: 60 31 02 06
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Nam Tiến

Thành phố Hồ Chí Minh – 2015


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin gửi đến PGS.TS Trần Nam Tiến, khoa Quan hệ quốc tế,


Trường ĐHKHXH&NV TPHCM lòng biết ơn chân thành nhất vì Thầy đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cám ơn đến cô TS Đào Minh Hồng, Trưởng khoa
Quan hệ quốc tế, Trường ĐHKHXH&NV TPHCM và thầy PGS.TS Hoàng
Khắc Nam, Trưởng khoa Quan hệ quốc tế, Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội
đã định hướng, động viên và khuyến khích tôi chọn đề tài này.
Để hoàn thành luận văn này, tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến các Thầy, Cô
giảng viên đã giảng dạy khoá Cao học 3 - Quốc tế học của khoa Quan hệ
quốc tế, những người đã truyền cho tôi kiến thức, kinh nghiệm và niềm say
mê về ngành Quan hệ quốc tế.
Cuối cùng, tôi không thể nào quên được tình cảm yêu thương từ gia đình,
bạn bè là những người đã luôn kề cận, động viên, chia sẻ mọi khó khăn và
tạo những điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
để hoàn thành luận văn trong khóa học này.
TP HCM, tháng 12 năm 2015
Nguyễn Thái Giao Thuỷ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………1
1. Tính cấp thiết của đề tài …………………………………... 1
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2

3.

Mục đích và nhiệm vụ của đề tài …………………………….6


4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……………………..……6

5.

Phương pháp nghiên cứu …………………………….………7

6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn …………………………………7

7.

Bố cục của luận văn …………………………………………8

Chương 1: LÝ LUẬN VỀ SỨC MẠNH MỀM VÀ NGOẠI

GIAO VĂN HÓA
1.1. Lý luận về Sức mạnh mềm (Soft Power)……………………9
1.1.1. Lịch sử ra đời và sự phát triển của Sức mạnh mềm….…9
1.1.2. Khái niệm Sức mạnh mềm trong Quan hệ quốc tế……….12
1.1.3. Biểu hiện của Sức mạnh mềm trong Quan hệ quốc tế......15
1.1.4. Vai trò của Sức mạnh mềm ……………….……………..…20
1.2. Ngoại giao văn hóa với tư cách là công cụ của Sức mạnh
mềm ở thế kỷ
XXI…………………………………………………………….…23
1.2.1. Khái niệm về Ngoại giao văn hóa………………….…...23
1.2.2. Vai trò của ngoại giao văn hóa……………………….…26
1.2.3. Ngoại giao văn hóa với tư cách là công cụ của Sức mạnh

mềm……………………………………………………………………...30
Chương 2: NGOẠI GIAO VĂN HÓA CỦA VIỆT NAM

TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
2.1. Những nhân tố tác động đến Ngoại giao văn hóa của Việt


Nam…….……………………………………………………….…37
2.1.1. Bối cảnh quốc tế ……………………………………………37
2.1.2. Bối cảnh khu vực……………………………………………42
2.1.3. Tình hình của Việt Nam……………………………………43
2.2. Ngoại giao văn hóa trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam……………………………………………………………….48
2.2.1. Đường lối đối ngoại của Việt Nam tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI (2011)…………………………………………………48
2.2.2. Vai trò của văn hóa trong sự phát triển kinh tế - xã hội
đất nước…………………………………………………………….….…52
2.2.3. Nhân tố văn hóa trong đường lối đối ngoại Việt Nam thời
kỳ Đổi mới………………………………………………………………..56
2.3. Quá trình triển khai Ngoại giao văn hóa với tư cách là Sức
mạnh mềm của Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI đến nay…………62
2.3.1. Các hướng triển khai chính của Ngoại giao văn hóa Việt
Nam từ đầu thế kỷ XXI đến nay…………………………………..…….62
2.3.2. Quá trình triển khai các hoạt động ngoại giao văn hóa
cấp Nhà nước…………………………………………………………...69
2.3.3. Quá trình triển khai các hoạt động ngoại giao văn hóa
nhân dân.…...................................................................................73
Chương 3: KẾT QUẢ, TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA

NGOẠI GIAO VĂN HOÁ TẠI VIỆT NAM

3.1. Kết quả ..................................................................................80
3.1.1. Thành tựu …………………………………………….80
3.1.2. Hạn chế …………………………………………………..85
3.2. Tác động của các nước đến quá trình hội nhập của Việt Nam
đối với khu vực và thế giới ………………………………………89


3.2.1. Với ASEAN ………………………………………………89
3.2.2. Với các nước lớn ………………………………………91
3.2.3. Phần còn lại của thế giới………………………………94
3.3. Triển vọng ………………………………………….………...96
3.3.1. Dự báo …………………………………….……………96
3.3.2. Tình hình thế giới từ nay cho đến năm 2020…………..97
3.3.3. Ngoại giao văn hóa của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
...……........102
KẾT LUẬN ……………………………………………………..108
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………..111


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ACMECS

ADB
AIDS

APEC
ARF
ASEAN
ASEM
BỘ VHTTDL


Ayeyawady-Chao
Phraya-Mekong
Economic Cooperation
Strategy
Asian Development
Bank
Acquired Immune
Deficiency Syndrome

Tổ chức hợp tác kinh tế chiến
lược Ba Giòng Sông

Asia-Pacific Economic
Cooperation
ASEAN Regional
Forum
Association of
Southeast Asian Nations
Asia–Europe Meeting

Hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương
Diễn đàn Khu vực ASEAN

CHXHCNVN
CLMV
EAS

Cambodia, Laos,

Myanmar, and Vietnam
East Asia Summit

Ngân hàng phát triển châu Á
Hội chứng suy giảm miễn dịch
mắc phải

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á
Hội nghị Á -Âu
Bộ Văn hóa – thể thao – du lịch
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Hợp tác giữa 4 nước Cam-puchia, Lào, Myanmar và Việt Nam
Hội nghị thượng đỉnh Đông Á

United Nations
Economic and Social
Council
EU
European Union
FRANCOPHONIE Organisation
internationale de la
Francophonie
FTA
Free Trade Agreement

Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên
Hiệp Quốc


GDP
GMS

Tổng sản phẩm quốc nội
Tiểu vùng Mêkông mở rộng

ECOSOC

IAEA

Gross domestic product
Greater Mekong
Subregion
International Atomic
Energy Agency

Liên minh Châu Âu
Tổ chứcc các nước nói tiếng Pháp
Hiệp định thương mại tự do

Cơ quan Năng lượng nguyên tử
quốc tế


International Monetary
Fund
Southern Common
Market
Mekong–Ganga
Cooperation


Quỹ Tiền tệ Quốc tế

NAFTA

North American Free
Trade Agreement

Hiệp định Thương mại Tự do Bắc
Mỹ

NATO

North Atlantic Treaty
Organization

Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương

ODA

Official development
Tổ chức hỗ trợ phát triển
assistance
purchasing power parity Tỉ giá sức mua

IMF
MERCOSUR
MGC


PPP

Thị trường chung Nam Mỹ
Hợp tác sông Hằng – sông Mê
Kông

Regional
Comprehensive
Economic Partnership
Southeast Asian Games

Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn
diện Khu vực

TPP

Trans-Pacific
Partnership

Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình
Dương

UAE

United Arab Emirates

UN

United Nations


các Tiểu Vương Quốc Ả Rập
Thống Nhất
Liên Hợp Quốc

UNDP

United Nations
Development
Programme
United Nations
Educational, Scientific
and Cultural
Organization
Vietnam Union of
Friendship Organization

Chương trình Phát triển Liên Hợp
Quốc

World Bank

Ngân hàng thế giới

RCEP

SEAGAMES

UNESCO

VUFO


WB

Đại Hội Thể Thao Đông Nam Á

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
văn hóa của Liên Hợp Quốc
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị
Việt Nam


WTO

World Trade
Organization

Tổ chức thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, ngoại giao văn hóa (Cultural Diplomacy) có vai trò
và ý nghĩa lớn lao cho sự phát triển xã hội bền vững. Văn hóa ngày càng thể hiện
rõ là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển lâu bền, vì mục tiêu nhân văn, vì
con người với cuộc sống đích thực và trong quan hệ giữa các quốc gia với nhau.
Thực tiễn cho thấy giao lưu văn hóa đã trở thành nhịp cầu nối liền các quốc
gia và có vai trò to lớn trong việc hòa giải dân tộc, đẩy lùi các cuộc xung đột,
chiến tranh về sắc tộc, tôn giáo; đồng thời thúc đẩy các nước tăng cường tình
đoàn kết, hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau, cùng hợp tác và phát triển.
Đẩy mạnh hoạt động ngoại giao văn hóa là “thời cơ vàng” để Việt Nam học

hỏi được nhiều điều hay, tiếp thu được nhiều điều tốt, chọn lọc được những tinh
hoa văn hóa của các quốc gia, dân tộc trên thế giới để làm giàu và phong phú
thêm bản sắc văn hóa Việt Nam, thực hiện đúng phương châm “Đưa văn hóa Việt
Nam ra thế giới và đưa văn hóa thế giới đến Việt Nam”. Đối với Việt Nam hiện
nay, tăng cường ngoại giao văn hóa là một trong những việc làm thiết thực để
góp phần thực hiện thắng lợi “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”1. Mặt khác, thực hiện tốt các
hoạt động ngoại giao văn hóa còn tạo ra chất xúc tác thúc đẩy ngoại giao chính trị
và ngoại giao kinh tế không ngừng phát triển, hướng đến quảng bá mạnh mẽ nền
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr. 83-84.

1


văn hóa Việt Nam, nhất là quảng bá các giá trị di sản văn hóa của dân tộc ta đến
với bạn bè quốc tế.
“Ngoại giao văn hóa là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân”. Muốn thực hiện
thành công nhiệm vụ quan trọng này, việc nâng cao nhận thức, tư tưởng cho toàn
xã hội về vai trò to lớn của ngoại giao văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế. Song song đó, cần phải làm cho mọi người, mọi ngành, mọi
cấp có nhận thức đúng là: “Ngoại giao chính trị giữ vai trò định hướng, ngoại
giao kinh tế là nền tảng vật chất và ngoại giao văn hóa chính là nền tảng tinh
thần của hoạt động đối ngoại”2. Đây là “thế chân kiềng” mà thiếu một trong ba

yếu tố đó sẽ trở thành lực cản cho công tác ngoại giao nói chung, hoạt động đối
ngoại của Đảng và Nhà nước nói riêng.
Với những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn chủ đề “Ngoại giao văn
hóa của Việt Nam nhìn từ góc độ quyền lực mềm” làm đề tài Luận văn Cao học
chuyên ngành Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu, bài viết về những vấn đề có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài của
luận văn, về cơ bản có thể chia thành một số mảng lớn như sau:
Về Cơ sở lý luận về những yếu tố dẫn đến sự hình thành và phát triển của
ngoại giao văn hóa trong đời sống chính trị, trong quan hệ quốc tế, đã có một
số công trình nghiên cứu của học giả trong nước và trên thế giới đề cập đến vấn
đề này. Cuốn Soft Power: The Means to Success in World Politics (Quyền lực
mềm: Phương tiện để đạt được thành công trong chính trị quốc tế, PublicAffairs,
2004) của Joseph S. Nye (nguyên Trợ lý Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ từ 19771979) nêu rõ những yếu tố cấu thành của quyền lực mềm, trong đó có văn hóa,
2

Quyết định số 208/2011/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược Ngoại giao Văn hóa đến năm 2020 của Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành vào ngày 14/2/2011.

2


các giá trị chính trị và chính sách của quốc gia, qua đó luận giải vai trò và tầm
quan trọng của ngoại giao văn hóa. Cuốn Culture in World Politics (MacMillan
Press, UK, 1998) do hai tác giả Dominique Jacquin-Berdal, Andrew Oros và
Marco Verweij đồng chủ biên đề cập đến vai trò của văn hóa, quyền lực của văn
hóa trong đời sống chính trị quốc tế, đặc biệt là trong giải quyết xung đột, mâu
thuẫn sắc tộc, gìn giữ hòa bình. Cuốn Đợt sóng thứ ba (Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1996) của học giả Alvin Toffler đề cập đến nền văn minh của thế giới hậu

công nghiệp, khi quyền lực thực sự của các quốc gia nằm trong khả năng sáng
tạo, sử dụng tri thức và công nghệ thông tin. Cuốn Quyền lực trong quan hệ quốc
tế-lịch sử và vấn đề (Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 2011) của tác giả Hòang
Khắc Nam đề cập sâu đến quyền lực và sử dụng quyền lực - vấn đề cốt lõi trong
quan hệ quốc tế, trong đó có quyền lực mềm, liên quan trực tiếp đến ngoại giao
văn hóa.
Đặc biệt, cuốn Ngoại giao văn hóa: Cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và
ứng dụng (Nxb Chính trị-Hành chính, Hà Nội, 2012) do tác giả Phạm Thái Việt
chủ biên đã đi sâu nghiên cứu làm rõ vai trò và chức năng của truyền thông đại
chúng và văn hóa đại chúng trong ngoại giao văn hóa, nhất là phân tích thực
trạng của việc sử dụng truyền thông cho ngoại giao văn hóa ở Việt Nam trên cơ
sở những phân tích thực tiễn ngoại giao văn hóa của một số quốc gia, lý thuyết
truyền thông và lý thuyết về văn hóa đại chúng và việc sử dụng các lý thuyết này
trong hoạt động ngoại giao văn hóa.
Về ngoại giao văn hóa trong chính sách đối ngoại Việt Nam đã có một số
công trình nghiên cứu như cuốn Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam (Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011) do tác giả Phạm Bình Minh chủ biên phân tích
rõ các yếu tố cấu thành trường phái ngoại giao Việt Nam, trong đó có yếu tố văn
hóa. Cuốn Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp Đổi mới (1975-2002) (Học
viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2002) do Vũ Dương Huân chủ biên đã nêu một

3


cách đầy đủ, toàn diện về ngoại giao Việt Nam hiện đại, trong đó có những yếu tố
làm cơ sở cho việc hình thành ngoại giao văn hóa Việt Nam. Cuốn Chính sách
đối ngoại đổi mới của Việt Nam: 1986-2010 (Nxb Thế giới, Hà Nội, 2012) của
tác giả Phạm Quang Minh nêu những đổi mới về nhận thức, phương châm, hình
thức và cách tiếp cận trong 8 quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cơ sở hình thành
ngoại giao văn hóa Việt Nam. Cuốn Giao thoa văn hóa và chính sách ngoại giao

văn hóa Việt Nam (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012) do Lê Thanh Bình chủ
biên phân tích tương đối kỹ về giao thoa văn hóa và ý nghĩa của nó trong xây
dựng chính sách ngoại giao văn hóa. Cuốn Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa
các nền văn hóa - một góc nhìn từ Việt Nam (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2008), nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nam đã đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống và tương đối toàn diện về sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn
hóa; phân tích những đặc trưng, cơ hội và thách thức, dự báo những chiều hướng
phát triển của văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
hiện nay.
Về dự báo triển vọng của ngoại giao văn hóa Việt Nam trong thời gian
tiếp theo, có thể kể đến các cuốn sách như: Cuốn Cục diện thế giới đến 2020
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012) do Phạm Bình Minh chủ biên phân tích,
đánh giá cục diện khu vực, thế giới và dự báo sự vận động của nó trong thời gian
tới, trong đó có những yếu tố tác động đến ngoại giao văn hóa. Cuốn Trật tự thế
giới sau Chiến tranh Lạnh: Phân tích và dự báo do Viện Thông tin Khoa học xã
hội xuất bản năm 2001 tập hợp những 9 nghiên cứu về trật tự thế giới sau Chiến
tranh Lạnh, những vấn đề được dư luận quan tâm, trong đó có sức mạnh mềm.
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu có liên quan có giá trị như cuốn
Mấy vấn đề văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay (Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1993) do Vũ Khiêu chủ biên, cuốn Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

4


2001) của Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sĩ Quý, cuốn Giá trị truyền
thống trước thách thức của toàn cầu hóa (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002)
của Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên nêu và phân tích những vấn đề
đặt ra giữa phát triển và bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống; về sự lựa
chọn con đường phát triển, những vấn đề đặt ra giữa văn hóa và kinh tế, giữa văn

hóa và chính trị, mối quan hệ giữa văn hóa truyền thống với sự phát triển, vấn đề
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và mở cửa hội nhập, tiếp thu văn hóa
nhân loại. Cuốn Xây dựng nhân cách văn hóa: Những bài học kinh nghiệm trong
lịch sử Việt Nam (Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2012) của học giả Hòang
Tuấn Anh và các nhà nghiên cứu Nguyễn Chí Bền, Từ Thị Loan, Vũ Anh Tú đã
phân tích những đặc trưng giá trị văn hóa tinh thần, nhân cách con người Việt
Nam, những yêu cầu đặt ra cho thời kỳ mới, xây dựng cơ sở nền tảng để phát huy
ngoại giao văn hóa. Ngoài ra, còn một số nghiên cứu, bài viết về ngoại giao văn
hóa cũng như là ngoại giao văn hóa trong chính sách đối ngoại Việt Nam trên các
báo, tạp chí chuyên ngành.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước nêu trên khá
đa dạng, là các tài liệu rất hữu ích để tham khảo về lý luận và thực tiễn, đồng thời
cũng là nguồn tham khảo rất có giá trị về phương pháp nghiên cứu cũng như cách
thức xử lý vấn đề đặt ra trong nội dung luận văn. Nhiều công trình nghiên cứu và
phân tích sâu về chính sách và thực tiễn ngoại giao văn hóa của Việt Nam, qua đó
cũng làm rõ những nhân tố tác động, những mục tiêu chiến lược mà chính sách
ngoại giao văn hóa của Việt Nam hướng tới. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay
chưa các công trình nghiên cứu chuyên sâu về đặc điểm, vị trí, vai trò, hoạt động,
xu hướng vận động của ngoại giao văn hóa trong đời sống chính trị của các quốc
gia trong quan hệ quốc tế đương đại nói chung, đối với Việt Nam nói riêng. Trên
cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu đi trước, luận văn “Ngoại giao văn
hóa của Việt Nam nhìn từ góc độ quyền lực mềm” sẽ góp phần bổ khuyết cho

5


những thiếu hụt nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu vai trò của ngoại giao văn hóa - sức mạnh mềm

trong thế kỷ XXI trong nền kinh tế thị trường, đề xuất một số giải pháp mang tính
định hướng góp phần gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa tinh thần dân tộc Việt
Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Một là, nghiên cứu về những cơ sở lý luận và cách tiếp cận về ngoại giao
văn hóa - sức mạnh mềm ở thế kỷ XXI.
- Hai là, phân tích những chính sách và hoạt động của nhà nước Việt Nam
về ngoại giao văn hóa.
- Ba là, đưa ra những kết quả, tác động và triển vọng của ngoại giao văn hóa
với quan hệ quốc tế của Việt Nam từ nay cho đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ đặt ra, luận
văn nghiên cứu chính sách và hoạt động của ngoại giao văn hóa Việt Nam và ảnh
hưởng của nó đến việc mở rộng quan hệ trên các lĩnh vực đối ngoại, hội nhập
quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Ngoại giao văn hóa, là một đề tài rộng và là một
khái niệm tương đối mới với các nước trên thế giới, dù Ngoại giao giao văn hóa
đã được nhiều nước sử dụng như Sức mạnh mềm trong các hoạt động đối ngoại.
Trong những năm gần đây, mặc dù khái niệm về Ngoại giao văn hóa mới
được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam nhưng thực tế thì Ngoại giao văn hóa đã tồn
tại cách đây hàng nghìn năm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của
ông cha ta. Tuy nhiên, các tài liệu hiện có chỉ mới giới thiệu một cách khái quát

6


về Ngoại giao văn hóa. Vì vậy, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu về mối liên hệ
giữa Ngoại giao văn hóa và Sức mạnh mềm của Việt Nam từ thập niên đầu thế kỷ
XXI, bắt đầu từ Đại hội Đảng lần IX (2001) đến nay. Đề tài cũng đưa ra sự tác

động của thế giới và khu vực đến quá trình hội nhập của Việt Nam như thế nào
và triển vọng phát triển của Việt Nam ra sao trong tương lai?
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng phương pháp quan hệ quốc tế kết hợp với các phương
pháp nghiên cứu truyền thống và liên ngành để luận giải và phân tích một số cơ
sở khoa học của các nguồn tài liệu nhằm hoàn thành tốt các mục tiêu tác giả luận
văn đã đề ra.
- Phương pháp phân tích: Căn cứ vào các cấp độ để phân tích ngoại giao
văn hóa trong quan hệ quốc tế ở thời kỳ Toàn cầu hóa.
- Phương pháp lịch sử: Thông qua việc xem xét sự vận động của lịch sử để
rút ra bài học kinh nghiệm cho các hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam.
- Phương pháp phân tích lợi ích: Phương pháp này sẽ làm rõ hơn về lợi ích
chính sách của nhà nước về ngoại giao.
- Phương pháp phân tích chính sách: Từ các chính sách đối nội, đối ngoại
của các nước sẽ giúp Việt Nam có các chiến lược để nâng cao vị thế của mình
trong các mối quan hệ quốc tế.
- Phương pháp xử lý thông tin: thu nhập và xử lý thông tin để nêu ra những
chính sách và hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam với các nước.
- Phương pháp quan sát: phương pháp này giúp cho người nghiên cứu thông
qua các phương tiện truyền tải thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp để đưa ra một số
kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động ngoại giao văn hóa trong hội nhập quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Góp phần nhận thức về những cơ sở lý luận, khái niệm của sức mạnh mềm
gắn quá trình Toàn cầu hóa và đặc biệt là gắn với quá trình hội nhập quốc tế của

7


Việt Nam thông qua việc tìm hiểu chính sách và quá trình triển khai chính sách
đối ngoại của Việt Nam.

- Góp phần cung cấp những khuyến nghị về chính sách, hoạt động ngoại
giao văn hóa của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế thời gian tới.
- Nội dung của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
giảng dạy và nghiên cứu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm ba chương chính sau:
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ SỨC MẠNH MỀM VÀ NGOẠI GIAO VĂN
HÓA. Trong xu thế Toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, vì thế, đối thoại, giao
lưu và hợp tác là những phương tiện hữu hiệu để phát triển và bảo vệ nền văn hóa
dân tộc. Ngoại giao văn hóa ngày nay được xem như là sức mạnh mềm không thể
thiếu được trong chính sách đối ngoại của mọi quốc gia.
Chương 2: NGOẠI GIAO VĂN HÓA CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21. Ngoại giao văn hóa đã góp phần quan trọng để Việt
Nam hoàn thành các nhiệm vụ ngoại giao một cách thuyết phục và hiệu quả nhất.
Cùng ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa đã tích cực
quảng bá hình ảnh Việt Nam, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước, góp
phần thiết thực vào công cuộc bảo vệ tổ quốc, xây dựng và bảo vệ kinh tế đất
nước.
Chương 3: KẾT QUẢ, TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA NGOẠI
GIAO VĂN HÓA TẠI VIỆT NAM. Với sự ra đời của Chiến lược ngoại giao văn
hóa đến năm 2020 ban hành theo Quyết định số 208/QĐ-TTg ngày 14/2/2011 của
Thủ tướng Chính phủ, trong thời gian tới, nhân tố văn hóa cũng như ngoại giao
văn hóa sẽ góp phần quan trọng để Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ ngoại giao
một cách nhân văn, thuyết phục, hiệu quả.

8


Chương 1.


LÝ LUẬN VỀ SỨC MẠNH MỀM VÀ NGOẠI GIAO VĂN HÓA
1.1. Lý luận về Sức mạnh mềm (Soft Power)
Sức mạnh mềm (Soft Power - còn gọi là Quyền lực mềm, Thực lực mềm) là
khả năng tác động đến người khác để đạt được kết quả mong muốn thông qua
cách cuốn hút, hấp dẫn họ thay vì ép buộc hay mua chuộc. Đối với một quốc gia,
sức mạnh mềm tồn tại ngay trong văn hóa, các giá trị và chính sách của quốc gia
đó. Một chính sách khôn khéo phải biết kết hợp cả hai nguồn sức mạnh cứng và
sức mạnh mềm như một công cụ quảng bá sức mạnh của một quốc gia và cũng là
một yếu tố cần thiết cho việc phát triển của quốc gia đó.3
1.1.1. Lịch sử ra đời và sự phát triển của Sức mạnh mềm
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX tình hình thế giới đã có những thay
đổi quan trọng, mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp
đổ, Chiến tranh Lạnh kết thúc, thế giới dần có xu hướng chuyển từ đối đầu sang
đối thoại, hợp tác, cùng phát triển trong một thế giới Toàn cầu hóa… do đó mọi
ứng xử quốc tế cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp. Tiếp theo là cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997 làm cho kinh tế thế giới bước vào thời kỳ trì
trệ kéo dài, kéo theo sự suy sụp của các nền kinh tế “bong bóng” ở một số nước
như: Nhật Bản, Hàn Quốc… buộc những nước này cũng phải đi tìm con đường
mới để phát triển. Đây cũng chính là thời kỳ công nghệ thông tin và văn hóa đại
chúng phát triển mạnh, mở ra một thị trường sản xuất và tiêu thụ văn hóa rộng
lớn trên phạm vi toàn thế giới (ca nhạc, điện ảnh, truyền thông…).
Trong thời đại đối thoại thay cho đối đầu thì vai trò của sức mạnh quân sự
cũng dần thay đổi, vũ khí hạt nhân với sức mạnh huỷ diệt vô cùng tàn bạo có vai
trò răn đe đối phương nhưng không phải lúc nào cũng có thể được sử dụng trong
3

Joseph S. Nye Jr, Soft power: The Means to Success in World Politics, NY: Public Affairs, Perseus Book Group,
2004, tr.x.


9


chiến tranh, bởi các nước lớn buộc phải tính đến sự tàn phá khủng khiếp mà nhân
loại phải trả một khi chúng được một trong hai phe đem ra sử dụng. Hơn nữa,
việc sử dụng sức mạnh quân sự ngày càng trở nên tốn kém hơn, vì vậy những
nước tư bản công nghiệp phát triển hay thường tập trung vào tăng cường cho sự
phồn vinh của đất nước. Các quốc gia ở lục địa châu Âu vốn đã bị tàn phá bởi ba
cuộc chiến tranh Pháp - Đức trong vòng một thế kỷ nên họ có khuynh hướng đi
tìm các giải pháp hòa bình để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột.
Trước bối cảnh thế giới mới, các nước đều đang có sự tìm tòi những phương
thức ứng xử quốc tế mới, không phải đối đầu mà là đối thoại, cùng với sử dụng
quyền lực cứng (quân sự, kinh tế…) còn phải tìm cách phát huy quyền lực mềm,
tức là phát huy sức mạnh của hệ giá trị về văn hóa, về thể chế xã hội, về chính
sách quốc gia (đối nội lẫn đối ngoại) để cạnh tranh với các quốc gia khác.
Thực tế, khái niệm Sức mạnh mềm xuất hiện trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh
với ý nghĩa ban đầu là việc một quốc gia sử dụng các nguồn lực như văn hóa,
nghệ thuật, giáo dục… để hấp dẫn đối phương khi quốc gia đó không muốn, hoặc
không thể sử dụng các sức mạnh truyền thống khác như sử dụng ưu thế sức mạnh
quân sự để đe doạ hoặc tấn công một quốc gia khác nhằm đạt được các mục đích
của mình. Một số học giả sau khi nghiên cứu đã cho rằng ở một mức độ nhất định
thì sức mạnh mềm giống như một diễn biến hòa bình, đó là đều có sự xâm lược
về văn hóa, ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai lên văn hóa, con người, tư tưởng, ý
thức bản địa.
Vươn lên trở thành siêu cường duy nhất từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ
hai, Mỹ đã từng bước thiết lập và củng cố một trật tự thế giới mới do Mỹ chi
phối. Đặc biệt, từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, với sự sụp đổ của Liên Xô và
khối các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Mỹ càng mạnh hơn và gần như
không còn đối thủ cạnh tranh xứng tầm trong một thời gian dài. Sức mạnh toàn
diện và vượt trội của Mỹ đã tạo cho họ một vị thế bá chủ có ảnh hưởng sâu rộng


10


đến trật tự quốc tế và nhiều nước trên thế giới. Nhìn ở góc độ sức mạnh mềm, Mỹ
đã tạo dựng khá thành công sức mạnh này trong thực hiện mục tiêu duy trì vị thế
siêu cường trên thế giới của mình và đặc biệt là trong quan hệ với các nước. Điển
hình như các giá trị, văn hóa, giáo dục Mỹ được các nước đón nhận thì chính
sách ngoại giao của Mỹ cũng sẽ tự nhiên được các nước này tiếp nhận. Những
năm 1990 của thế kỷ XIX, Hollywood, Coca Cola, Mc’Donald… ra đời và dần
giữ vai trò quan trọng trong xu thế toàn cầu hóa. Có thể nói, ngày nay, văn hóa
Mỹ đã có mặt tại hầu hết các nước trên thế giới, trở thành một phần tất yếu,
không thể thiếu trong cuộc sống của các nước này.
Sau Mỹ, với vai trò là nước Châu Á duy nhất trong G7 và sức mạnh kinh tế
vững mạnh Nhật Bản là một ví dụ sống động nhất với việc cố gắng gia tăng ảnh
hưởng văn hóa của mình theo hai phương thức là phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của quốc gia này ra thế giới, tiếp thu thành tựu văn hóa từ bên ngoài
để xây dựng các giá trị mới và phát triển nền văn hóa của chính quốc gia đó. Ví
dụ như: hòa giải xung đột quốc tế ở Campuchia năm 1991, tham gia vào các
chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc…4
Mặc dù, sức mạnh mềm đã được các nước sử dụng nhiều trong quan hệ quốc
tế, nhưng trước đó chưa có nhà nghiên cứu nào nghiên cứu sâu về nó để có thể
đưa ra khái niệm về sức mạnh mềm. Phải đến năm 1990, Giáo sư Đại học
Harvard (Mỹ) là Joseph S. Nye lần đầu tiên đưa ra khái niệm “Sức mạnh mềm”
(Soft Power) trong cuốn sách Bound to Lead: The Changing Nature of American
Power (Nhất định lãnh đạo: diễn biến của bản chất sức mạnh nước Mỹ) và trong
bài viết Soft Power (Sức mạnh mềm) đăng trên Tạp chí Foreign Policy (Chính
sách đối ngoại). Tháng 4/2004, một tác phẩm mới của Joseph Nye ra đời với tựa
đề Soft Power: The Means to Success in the World Politics (Sức mạnh mềm: Con
đường giành thắng lợi trong chính trị thế giới) càng làm cho thế giới bàn luận sôi

4

Hòang Khắc Nam, “Quyền lực trong quan hệ quốc tế: Lịch sử và vấn đề”, Nxb VHTT, HN 2012, tr.66.

11


nổi. Kể từ đó, trào lưu nghiên cứu và ứng dụng sức mạnh mềm ngày càng được
phát triển rộng rãi trên thế giới.
1.1.2. Khái niệm Sức mạnh mềm trong Quan hệ quốc tế
Từ xa xưa, trong quan hệ quốc tế, bên cạnh việc sử dụng “Sức mạnh cứng”
được xem là biện pháp chính yếu và truyền thống, các nước cũng đã biết sử dụng
“Sức mạnh mềm”. Đặc biệt, các cường quốc thường sử dụng “sức mạnh mềm” để
thực hiện mục tiêu nô dịch, trói buộc các nước khác trong vòng ảnh hưởng của
mình. Ngày nay, trong bối cảnh xu thế hòa bình hợp tác và xu thế toàn cầu hóa
trở thành dòng chảy chính của quan hệ quốc tế, việc sử dụng “sức mạnh cứng”
không còn là chọn lựa tối ưu của các quốc gia, “sức mạnh mềm” được quan tâm
và nhấn mạnh nhiều hơn, không những bởi nó phù hợp với xu thế thời đại, mà
còn bởi tính chất “lạt mềm buộc chặt”, ít tốn kém hơn nhằm đạt đến mục đích của
mình.
Trước hết, đây là một khái niệm trong chính trị học, được nhắc đến lần đầu
tiên vào năm 1973 trong cuốn Quyền lực và thịnh vượng: Kinh tế chính trị của
quyền lực quốc tế (Power and Wealth: The Political Economy of International
Power) của học giả Klaus Knorr. Sau đó, "Sức mạnh mềm" (Soft Power) là một
khái niệm mới do Giáo sư Joseph S. Nye thuộc Đại học Harvard của Mỹ đề ra
vào năm 1990 trong cuốn sách Bound to Lead: The Changing Nature of
American Power: “Sức mạnh mềm là khả năng khiến người khác muốn cái bạn
muốn, do đó họ sẽ tự nguyện làm điều đó mà không phải bị ép buộc hoặc mua
chuộc.”5 Đến năm 1999, ông đưa ra một khái niệm cụ thể hơn “Sức mạnh mềm là
kết quả lý tưởng có được thông qua sức hấp dẫn của văn hóa và ý thức hệ chứ

không phải sức mạnh cưỡng chế của một quốc gia, có thể làm cho một người
khác tin phục đi theo mình, hoặc tin theo các tiêu chuẩn hành vi hay chế độ do
mình định ra để hành xử theo ý tưởng của mình. Ở mức độ rất lớn, sức mạnh
5

Joseph S.Nye Jr, “Soft Power”, Foreign Policy, No. 80, Twentieth Anniversary (Autumn, 1990), pp. 153-171.

12


mềm dựa vào sức thuyết phục của thông tin.”6
Sau đó, khái niệm sức mạnh mềm được nhiều người đón nhận và bàn luận
sôi nổi hơn trong quyển sách Soft Power: The Means to Success in World Politics
của Joseph S. Nye xuất bản năm 2004 tại New York. Trong tác phẩm này, ông đã
chia sức mạnh tổng hợp quốc gia thành hai loại hình: Sức mạnh cứng và Sức
mạnh mềm. Sức mạnh cứng được hiểu là tổng hòa các yếu tố chiếm vị trí chi
phối, bao gồm tài nguyên cơ bản (như diện tích đất đai, dân số, tài nguyên tự
nhiên), sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế và sức mạnh khoa học-kỹ thuật, còn
sức mạnh mềm là sức mạnh hội tụ quốc gia, mức chấp nhận văn hóa và trình độ
tham dự tổ chức quốc tế, là sức mạnh để người khác làm theo ý muốn của mình
một cách tự nguyện, nó bắt nguồn từ sức thu hút của văn hóa và hình thái ý thức.
Ông khẳng định: “Sức mạnh mềm là khả năng đạt những điều mong muốn bằng
sức hấp dẫn hơn là sự ép buộc hay bằng các khoản mua chuộc, sức mạnh mềm
được tạo nên từ sức hấp dẫn của một quốc gia thông qua văn hóa, các tư tưởng
chính trị và các chính sách của quốc gia đó. Khi các chính sách của một quốc gia
được các quốc gia khác thừa nhận là hợp lý thì sức mạnh mềm của quốc gia đó
được nâng lên.”7
Sau Joseph S. Nye, nhiều học giả đã quan tâm nghiên cứu và đưa ra một số
khái niệm khác về sức mạnh mềm. Theo tác giả Kurlantzich: “Sức mạnh mềm là
khả năng một quốc gia thuyết phục và gây ảnh hưởng đối với nước khác không

phải bằng đe dọa hay cưỡng ép mà bằng sức hấp dẫn của xã hội, giá trị, văn hóa
và thể chế của chính quốc gia đó. Sức hấp dẫn này có thể được truyền đạt bằng
nhiều phương tiện, bao gồm văn hóa đại chúng, ngoại giao nhân dân và cá nhân,
cách nhà lãnh đạo quốc gia tham gia vào các tổ chức đa quốc gia và các diễn đàn

6

Joseph S.Nye Jr, “Redefining The National Interest”, Foreign Affair, 7-8/1999, p. 35.
Joseph S. Nye Jr, Soft Power: The Means to Success in World Politics, NY: Public Affairs, Persues Book Group,
2004, p. 10.
7

13


quốc tế, hoạt động kinh tế quốc ngoại và lực hấp dẫn của nền kinh tế mạnh.”8
Một định nghĩa khác cho rằng: “Sức mạnh mềm là khả năng khuyến khích người
khác thực hiện những gì mình muốn họ làm thông qua sự lựa chọn của riêng
họ.”9
Như vậy, định nghĩa một cách đơn giản thì sức mạnh mềm là sức mạnh dựa
trên những ảnh hưởng vô hình và gián tiếp như văn hóa, giá trị và ý thức hệ. Cốt
lõi của sức mạnh mềm chính là sức hấp dẫn, bất cứ điều gì tạo được sự lôi cuốn
đối với người khác khiến người khác tin và làm theo thì điều đó đã tạo nên sức
mạnh.10 Sức mạnh mềm có bốn đặc điểm chính như sau:
Thứ nhất, sức mạnh mềm có tính truyền thống vì văn hóa có nguồn gốc sâu
xa trong lịch sử, nó bao gồm lối tư duy, hệ tư tưởng, truyền thống văn hóa, phong
tục tập quán, chế độ xã hội, kinh tế, lối sống… là kết quả của phương thức sản
xuất của các xã hội.
Thứ hai, sức mạnh mềm có khả năng lan toả nhanh và cạnh tranh mạnh mẽ
nhờ công nghệ thông tin và internet vượt qua biên giới quốc gia, chủng tộc,

không gian, thời gian thúc đẩy tiến bộ xã hội tác động đến lối sống, chuẩn mực
hành vi của con người. Trong quan hệ quốc tế hiện đại, nhiều loại sức mạnh mềm
tương tác lẫn nhau dẫn đến cạnh tranh. Tuy nhiên, sức mạnh mềm đồng thời hấp
dẫn và thúc đẩy lẫn nhau, học tập, mô phỏng lẫn nhau và tự điều chỉnh, đây chính
là một yếu tố tích cực của sức mạnh mềm.
Thứ ba, sức mạnh mềm có tính khả biến. Sức mạnh mềm mang tính động
chứ không tĩnh, là hệ thống thường xuyên thay đổi khác với tính dân tộc. Chẳng
hạn như: chiến lược quốc gia, ngoại giao, giáo dục, chiến lược chính phủ hay
quản lý nhà nước thường chỉ cần thời gian ngắn để hình thành và phát triển.
Thứ tư, là tính tương thuộc của sức mạnh mềm. Sức mạnh mềm có thể bổ
8

Joshua Kurlantzick, “The Decline of American Soft Power”, Current History, No. 104 (December 2005), pp.
419-424.
9
Havard Business Essential, “Power Influence and Persuation”, Havard Business Press, 2005, p. 8.
10
Vũ Dương Huân, Ngoại giao và công tác ngoại giao, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 317.

14


sung và phát triển cùng với các đặc tính khác của một quốc gia. Vì vậy, các nước
đều sử dụng sức mạnh mềm trong việc xây dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia.11
Qua các định nghĩa trên, có thể thấy sức mạnh mềm chỉ là một phần của sức
ảnh hưởng bởi vì sức ảnh hưởng còn có thể được tạo ra bằng sức mạnh cứng. Sức
mạnh mềm rộng hơn văn hóa vì văn hóa chỉ là một trong những nguồn quan
trọng tạo nên sức mạnh mềm. Sức mạnh mềm không chỉ là sức thuyết phục, mà
sức mạnh mềm là khả năng lôi cuốn và hấp dẫn khiến người khác tự nguyện quy
thuận và noi gương. Có thể khái quát một định nghĩa chung cho sức mạnh mềm

như sau: “Sức mạnh mềm là khả năng bằng sự hấp dẫn của mình thuyết phục
người khác thay đổi suy nghĩ và hành vi một cách tự nguyện”.
1.1.3. Biểu hiện của Sức mạnh mềm trong Quan hệ quốc tế
Trong những năm gần đây, thuật ngữ Sức mạnh mềm được sử dụng khá phổ
biến và ngày càng được nhiều người quan tâm, bởi nó thể hiện một tư tưởng mới
không dựa vào sức mạnh quân sự, chính trị mà dựa vào quan niệm giá trị văn hóa
để triển khai mức độ ảnh hưởng, tham dự sự vụ quốc tế. Sức mạnh mềm của một
quốc gia được xây dựng trên nền tảng văn hóa, các giá trị và chính sách quốc gia.
Nó được thể hiện thông qua các yếu tố như hình ảnh, uy tín của đất nước và lãnh
đạo, năng lực giao tiếp, nhất là khả năng thuyết phục của những người thực thi
quyền lực, mức độ cởi mở của xã hội, sức hấp dẫn, quyến rũ, đặc biệt là của nền
văn hóa. Với một quốc gia có hai kênh chủ yếu triển khai quyền lực mềm trong
quan hệ quốc tế. Kênh thứ nhất là trực tiếp thông qua hoạt động ngoại giao của
chính phủ. Kênh thứ hai là thông qua các hoạt động của các tổ chức phi chính
phủ (bao gồm cả các doanh nghiệp) và sự giao lưu giữa các cộng đồng dân cư
của các quốc gia, Hiện nay, sức mạnh mềm đã trở thành chủ đề nóng trong việc
nâng cao sức cạnh tranh quốc gia và quản lý khu vực trong phạm vi quốc tế, là
khái niệm không thể thiếu trong phân tích thời sự chính trị quốc tế, cạnh tranh
11

Võ Thị Mai Thuận, Sức mạnh mềm Nhật Bản những năm đầu thế kỷ 21, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Quốc
tế học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012.

15


sức mạnh mềm trở thành một hình thái cơ bản của cạnh tranh sức mạnh tổng hợp
quốc gia. Sức mạnh mềm trong quan hệ quốc tế của một quốc gia dựa trên ba
nguồn lực chính: nền văn hóa (ở những điểm thu hút), giá trị về chính trị (áp
dụng trong và ngoài nước), và chính sách đối ngoại (khi được cho là hợp pháp

và phù hợp với đạo đức).12
Văn hóa là tài nguyên quan trọng hàng đầu và sức cạnh tranh văn hóa là nội
dung cốt lõi của sức mạnh mềm. Vì vậy, việc nhận diện sức mạnh mềm với văn
hóa, văn hóa bao gồm các giá trị và tập tục vốn đem lại ý nghĩa trong một xã hội,
văn hóa có nhiều biểu hiện khác nhau là vô cùng quan trọng. Thường văn hóa
được phân biệt thành văn hóa cao cấp như văn chương, nghệ thuật và giáo dục,
vốn rất thu hút giới trí thức, và văn hóa đại chúng vốn nhằm giải trí đại đa số
quần chúng.
Khi văn hóa của một quốc gia bao gồm những giá trị phổ quát và các chính
sách của họ quảng bá các giá trị và quyền lợi mà các quốc gia khác đồng chia sẻ,
nền văn hóa sẽ giúp gia tăng khả năng quốc gia đó có thể đạt được ước muốn của
mình thông qua các mối quan hệ mang tính thu hút và nghĩa vụ mà nó hình thành,
những giá trị hẹp hòi và các nền văn hóa cục bộ hiếm khi tạo ra được sức mạnh
mềm. Hoa Kỳ có lợi thế từ một nền văn hóa phổ quát, Josef Joffe nhà biên tập
người Đức đã từng đưa ra luận điểm là sức mạnh mềm của Hoa Kỳ còn rộng lớn
hơn cả các tài sản quân sự và kinh tế gộp lại. “Văn hóa Mỹ cho dù là bình dân
hay cao cấp, đều tỏa sáng mãnh liệt; điều này chỉ xảy ra trước đây dưới thời Đế
chế La Mã - nhưng ở đây có một khuynh hướng mới mẻ, thế lực về văn hóa của
La Mã và Liên Xô trước đây dừng lại tại biên giới quân sự của họ. Trong khi đó,
sức mạnh mềm của Hoa Kỳ thống trị trên một đế chế rộng lớn mà nơi đó mặt trời
không bao giờ lặn.”13
12

Joseph S. Nye (2004), “The Changing Nature of Power” (Chapter 1) in J.S. Nye, Soft Power: The Means to
Success in World Politics, New York: Public Affairs, pp. 1-32.
13
Joseph Joffe (2001), “Who’s Afraid of Mr Big?”, The National Interest, Summer 2001, p. 43.

16



×