Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Đề án quản trị chất lượng đối với các công ty xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp trong thời kỳ hội nhập TPP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.74 KB, 32 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, xuất khẩu sản phẩm ngành nông nghiệp đóng vai trò quan trọng đối
với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Phát triên nông nghiệp là một trong những nhân
tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là đối với
nền kinh tế đang phát triển. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) và đến nay nước ta đang bước vào giai đoạn thực thi mạnh mẽ các cam kết
quốc tế giúp cho môi trường pháp lý minh bạch hơn, bình đẳng hơn, mức độ mở cửa cao hơn
thì cơ hội phát triển nhanh trong nông nghiệp là rất lớn và khá toàn diện. Đối với Việt Nam,
TPP được coi là đòn bẩy kinh tế để tìm tòi, áp dụng những giải pháp phát triển đột phá. Nông
nghiệp cần nắm bắt nhanh, thích ứng kịp thời để biến cơ hội TPP thành hiệu quả thiết thực.
Thực tế cho thấy, trong giai đoạn vừa qua, hàng nông sản của Việt Nam gặp rất nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận thị trường thế giới do vướng phải hàng rào kỹ thuật thương mại và
biện vệ sinh an toàn thực phẩm. Giá trị nông sản của chúng ta còn quá ít so với các nước trên
thế giới? Hiện nay, thị trường xuất khẩu nông – thủy sản lớn nhất của Việt Nam là Trung
Quốc, chiếm đến 38% đây là một thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng không quá khó
khăn, thay vào đó mức giá thấp hơn 2 đến 3 lần so với các thị trường khó tính như Nhật Bản,
EU, Mỹ . Xuất phát từ sự cạnh tranh tự do, hàng hóa muốn tiêu thụ tốt phải đáp ứng được yêu
cầu của người tiêu dùng, Như vậy để nông sản Việt Nam vươn ra thế giới việc giải quyết bài
quản lý chất lượng sản phẩm nông nghiệp là vấn đề cấp bách.

2


CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG SẢN
PHẨM NGHÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM.
1.1 Khái niệm và vai trò của quản trị chất lượng.


1.1.1 Khái niệm và bản chất của quản trị chât lượng.
Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa (ISO) trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000 đã đưa ra định
nghĩa về chất lượng: “Chất lượng là mức độ thỏa mãn của một tập hợp các thuộc tính đối với
các yêu cầu”. Định nghĩa này thể hiện sự thống nhất giữa các thuộc tính nội tại khách quan
của sản phẩm với đáp ứng nhu cầu chủ quan của khách hàng.
Theo Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO 9000 thì: Quản trị chất lượng là một hoạt
động có chức năng quản lý chung nhằm mục đích đề ra chính sách, mục tiêu, trách nhiệm, và
thực hiện chúng bằng biện pháp như hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo
chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ 1 hệ thống chất lượng.
Mục tiêu của quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp là đảm bảo chất lượng phù hợp
với yêu cầu của khách hàng với chi phí thấp nhất. Đó là sự kết hợp giữa nâng cao những đặc
tính kinh tế - kỹ thuật hữu ích của sản phẩm đồng thời giảm lãng phí và khai thác mọi tiềm
năng để mở rộng thị trường. Thực hiện tốt công tác quản trị chất lượng sẽ giúp các doanh
nghiệp phản ứng nhanh với nhu cầu thị trường, mặt khác cũng góp phần giảm chi phí trong
sản xuất kinh doanh. Thực chất của quản trị chất lượng không chỉ là hoạt động quản trị chung
mà còn là các hoạt động kiểm tra, kiểm soát trực tiếp từ khâu thiết kế triển khai đến sản xuất
sản phẩm, mua sắm nguyên vật liệu, kho bãi, vận chuyển, bán hàng và các dịch vụ sau bán
hàng.
1.1.2 Nguyên tắc chủ yếu của quản trị chất lượng.
8 nguyên tắc quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000:2000
Nguyên tắc 1: Định hướng khách hàng
Nội dung: Doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng của mình và vì thế cần hiểu các nhu cầu
hiện tại và tương lai của khách hàng, để không những đáp ứng mà còn phấn đấu vượt cao hơn
sự mong đợi của khách hàng.
Nguyên tắc 2: Sự lãnh đạo

3


Nội dung: Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất đồng bộ giữa mục đích và đường lối của doanh

nghiệp. Lãnh đạo cần tạo ra và duy trì môi trường nội bộ trong doanh nghiệp để hoàn toàn lôi
cuốn mọi người trong viêc đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp.
Nguyên tắc 3: Sự tham gia của mọi người
Nội dung: Con người là nguồn lực quan trọng nhất của một doanh nghiệp và sự tham gia đầy
đủ với những hiểu biết và kinh nghiệm của họ rất có ích cho doanh nghiệp.
Nguyên tắc 4: Tiếp cận theo quá trình
Nội dung: Kết quả mong muốn sẽ đạt được một cách hiệu quả khi các nguồn và các hoạt
động có liên quan được quản lý như một quá trình.
Nguyên tắc 5: Quản lý theo hệ thống
Nội dung: Việc xác định, hiểu biết và quản lý một hệ thống các quá trình có liên quan lẫn
nhau đối với mục tiêu đề ra sẽ đem lại hiệu quả của doanh nghiệp.
Nguyên tắc 7. Quyết định dựa trên sự kiện
Nội dung: Mọi quyết định và hành động của hệ thống quản lý hoạt động kinh doanh muốn có
hiệu quả phải được xây đựng dựa trên việc phân tích dữ liệu và thông tin.
Nguyên tắc 8. Quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng
Nội dung: Doanh nghiệp và người cung ứng phụ thuộc lẫn nhau, và mối quan hệ tương hỗ
cùng có lợi sẽ nâng cao năng lực của cả hai bên để tạo ra giá trị.

1.2 Một số hệ thống quản lý chất lượng.
Hệ thống quản trị chất lượng ISO 9000:
Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (The International Organization for Standardization, viết tắt ISO)
là cơ quan thiết lập tiêu chuẩn quốc tế bao gồm các đại diện từ các tổ chức tiêu chuẩn quốc
gia của hơn một trăm nước trên thế giới. Với xu thế hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới, các doanh nghiệp đứng trước những cơ hội to lớn và những thách thức gay gắt. Để cạnh
tranh thắng lợi, doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải nâng cao năng suất và chất

4


lượng sản phẩm. Năng suất và chất lượng là hai mặt của vấn đề cạnh tranh. Cải tiến chất

lượng chính là con đường ngắn nhất và bền vững nhất dẫn đến việc nâng cao năng suất. Cùng
với việc đầu tư chiều sâu về kỹ thuật, công nghệ; mở rộng sản xuất ; việc áp dụng thành công
các thành tựu tiên tiến của khoa học quản lý trên cơ sở các tiêu chí của ISO 9000 sẽ giúp
chúng ta rút ngắn dần khỏang cách với khu vực và thế giới.
Mỗi tổ chức với vai trò là người cung ứng có năm nhóm người có liên quan về lợi ích là :
khách hàng, nhân viên, lãnh đạo, bên cung ứng phụ và xã hội.
Bên cung ứng cần thỏa mãn những mong muốn và nhu cầu của tất cả những người có liên
quan về lợi ích của mình.
Người có liên quan

Mong muốn hoặc nhu cầu

Khách hàng

Chất lượng sản phẩm

Nhân viên

Thỏa mãn về sự nghiệp

Lãnh đạo

Hiệu quả đầu tư

Bên cung ứng phụ

Tiếp tục khả năng lãnh đạo

Xã hội


Sự quản lý có trách nhiệm

Bảng 8.1. Mong muốn của những người có liên quan
Các tiêu chuẩn của ISO 9000 được xây dựng dựa trên cơ sở những triết lý:
- Hệ thống chất lượng quản trị quyết định chất lượng sản phẩm.
- Làm đúng ngay từ đầu là chất lượng nhất, tiết kiệm nhất.
- Quản trị theo quá trình và ra quyết định dựa trên sự kiện, dữ liệu.
- Lấy phòng ngừa làm chính.
Hệ thống quản trị chất lượng TQM (Total Quality Management).
Theo ISO 9000, Quản lý chất lượng đồng bộ là cách quản lý một tổ chức tập trung vào chất
lượng, dựa vào sự tham gia của tất cả các thành viên của nó, nhằm đạt được sự thành công
lâu dài nhờ việc thỏa mãn khách hàng và đem lại lợi ích cho các thành viên của tổ chức đó và
cho xã hội.
Cơ sở của phương pháp TQM là ngăn ngừa sự xuất hiện của các khuyết tật, trục trặc về chất
lượng ngay từ đầu. Sử dụng các kỹ thuật thống kê, các kỹ năng của quản lý để kiểm tra, giám
sát các yếu tố ảnh hưởng tới sự xuất hiện các khuyết tật ngay trong hệ thống sản xuất từ khâu

5


nghiên cứu, thiết kế, cung ứng và các dịch vụ khác liên quan đến quá trình hình thành nên
chất lượng.
Hệ thống quản lý chất lượng theo mô hình TQM là một hệ thống quản lý được xây dựng trên
cơ sở các triết lý sau :
(1) Không thể đảm bảo chất lượng, làm chủ chất lượng nếu chỉ tiến hành quản lý đầu ra của
quá trình mà phải là một hệ thống quản lý bao trùm, tác động lên toàn bộ quá trình.
(2) Trách nhiệm về chất lượng phải thuộc về lãnh đạo cao nhất của tổ chức. Để có được
chính sách chất lượng phù hợp, hiệu quả, cần có sự thay đổi sâu sắc về quan niệm của ban
lãnh đạo về cách tiếp cận mới đối với chất lượng. Cần có sự cam kết nhất trí của lãnh đạo về
những hoạt động chất lượng. Điều nầy rất quan trọng trong công tác quản lý chất lượng của

bất kỳ tổ chức nào. Muốn cải tiến chất lượng trước hết phải cải tiến công tác quản trị hành
chính và các hoạt động hỗ trợ khác.
(3) Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng con người, yếu tố quan trọng nhất trong
các yếu tố hình thành nên chất lượng sản phẩm. Đào tạo, huấn luyện phải là nhiệm vụ có tầm
chiến lược hàng đầu trong các chương trình nâng cao chất lượng.
(4) Chất lượng phải là mối quan tâm của mọi thành viên trong tổ chức. Do vậy hệ thống
quản lý chất lượng phải được xây dựng trên cơ sở sự thông hiểu lẫn nhau, gắn bó cam kết vì
mục tiêu chung là chất lượng công việc. Điều nầy sẽ tạo điều kiện tốt cho việc xây dựng các
phong trào nhóm chất lượng trong tổ chức, qua đó lôi kéo mọi người vào các hoạt động sáng
tạo và cải tiến chất lượng.
(5) Hướng tới sự phòng ngừa, tránh lập lại sai lầm trong quá trình sản xuất, tác nghiệp thông
qua việc khai thác tốt các công cụ thống kê để tìm ra nguyên nhân chủ yếu để có các biện
pháp khắc phục, điều chỉnh kịp thời và chính xác.
(6) Để tránh những tổn thất kinh tế, phải triệt để thực hiện nguyên tắc làm đúng ngay từ đầu.
Hệ thống quản lý chất lượng GMP và HACCP
Để giải quyết vấn đề đó có nhiều hệ thống đảm bảo vệ sinh và an toàn chất lượng thực phẩm
đã được ra đời. Đó là Hệ thống thực hành sản xuất tốt - GMP “Good Manufacturing
Practice” và Hệ thống phân tích, xác định và kiểm soát các mối nguy hại trọng yếu – HACCP

6


Thực hành sản xuất tốt (GMP) là cách đề cập mang tính hệ thống đối với tất cả các yếu tố,
các điều kiện sản xuất đảm bảo cho quá trình chế biến thực phẩm có chất lượng. Hệ thống
này đặt ra những đòi hỏi cơ bản trong thiết kế xây dựng và quản lý hệ thống sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp chế biến thực phẩm phải đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh an toàn
thực phẩm từ vị trí đặt doanh nghiệp, kiến trúc, cấu trúc xây dựng các nhà xưởng, công trình
và phương tiện trong doanh nghiệp, đến việc xử lý phụ phẩm và chất thải và yêu cầu về tuyển
chọn, sử dụng lao động nhằm đảm bảo không gây nhiễm bẩn các thực phẩm sản xuất ra
HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Point ) là hệ thống quản lý chất lượng dựa

trên cơ sở phân tích các mối nguy và các điểm kiểm soát trọng yếu. Đó là công cụ phân tích
nhằm bảo đảm an toàn vệ sinh và chất lượng thực phẩm. HACCP bao gồm những đánh giá có
hệ thống đối với tất cả các bước có liên quan trong quy trình chế biến thực phẩm, đồng thời
xác định những bước trọng yếu đối với an toàn chất lượng thực phẩm. Công cụ này cho phép
tập trung nguồn lực kỹ thuật, chuyên môn vào những bước chế biến có ảnh hưởng quyết định
đến an toàn chất lượng thực phẩm. Phân tích HACCP sẽ đưa ra danh mục những điểm kiểm
soát trọng yếu CCPs cùng với những mục tiêu phòng ngừa, các thủ tục theo dõi, giám sát và
những tác động điều chỉnh từng điểm kiểm soát trọng yếu. Để duy trì an toàn, chất lượng liên
tục cho sản phẩm, các kết quả phân tích sẽ được lưu giữ. Phương pháp nghiên cứu HACCP
phải thường xuyên thay đổi tùy thuộc vào những thay đổi của quá trình chế biến.
Hệ thống HACCP
Các nguyên tắc xây dựng HACCP bao gồm 7 nguyên tắc cơ bản sau:
- Phân tích mối nguy và các biện pháp phòng ngừa.
- Thiết lập các ngưỡng tới hạn. Đây là các mức độ đặt ra và mức sai biệt có thể chấp nhận
được để đảm bảo cho các điểm CCPs nằm trong vòng kiểm soát được.

- Thiết lập các biện phắc khắc phục kịp thời. Tiến hành những hoạt động điều chỉnh một khi
các quan trắc theo dõi cho thấy một điểm CCP nào đó bị trệch ra khỏi vòng kiểm soát.
- Thiết lập hệ thống kiểm tra đánh giá. Tiến hành những thủ tục thẩm tra xác nhận để khẳng
định là hệ thống HACCP hoạt động hữu hiệu.
- Giám sát điểm kiểm soát tới hạn.

7


- Thiết lập bộ hồ sơ và tài liệu liên quan đến các nguyên tắc và quá trình vận dụng những
nguyên tắc này.
1 số hệ thống quản lý chất lượng khác được ứng dụng trong nông nghiệp như:
GAEC: Good Agricultural and Environmental Condition,
GFP: Good Farming Practice,

GMP: Good Manufacturing Practice
EUREPGAP: European System Related to Good Agricultural Practice

1.3 Hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam.
Hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam là các tiêu chuẩn do Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng
của Việt Nam đề ra và được coi là chuẩn của quốc gia. Hệ thống tiêu chuẩn cảu Việt Nam
gồm: Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) và Tiêu chuẩn cơ sở (TCCS). Hệ thống tiêu chuẩn Việt
Nam hiện hành gồm khoảng 6000 TCVN.
Hệ thống TCVN hiện hành có những ưu điểm cơ bản sau:
‒ Hệ thống TCVN đã góp phần quan trọng trong việc phục vụ nhu cầu
sản xuất kinh doanh, quản lý kinh tế xã hội, ...
‒ Về cơ bản, Hệ thống TCVN đã được xây dựng và phát triển sát thực các
đối tượng cần thiết, được bổ sung kịp thời các tiêu chuẩn thuộc các đối
tượng theo yêu cầu quản lý cấp bách,...
‒ Được soát xét kịp thời để loại ra khỏi Hệ thống các TCVN đã quá lạc
hậu hoặc không còn cần thiết hoặc thuộc các đối tượng có thể quản lý
dưới dạng các văn bản khác, hoặc cấp khác.
‒ Số lượng TCVN hoàn toàn phù hợp hoặc tương đương với các tiêu
chuẩn quốc tế, khu vực và nước ngoài ngày một nhiều hơn. Nếu năm
2000 Việt Nam có 1300 TCVN tương đương với TCQT và TCNN, thì đến hết
tháng 12/2006 con số này là 2077.
‒ Tính đồng bộ các nội dung (loại) tiêu chuẩn được chú trọng.
‒ Thủ tục và phương pháp xây dựng TCVN luôn được cải tiến.

8


Thủ tục xây dựng TCVN đã được cải tiến nhiều lần, lần cuối cùng vào năm 1993 và hiện nay
đang áp dụng thủ tục gần giống với thủ tục xây dựng tiêu chuẩn quốc tế ISO.
Những vấn đề cần khắc phục:

Mặc dù có một số ưu điểm đã nêu trên, nhưng hệ thống TCVN hiện nay thực sự chưa đáp
ứng được nhu cầu đổi mới hiện nay và còn có một số tồn tại như sau:
‒ Hệ thống TCVN thực sự chưa được áp dụng rộng rãi, thực sự chưa phát
huy được hiệu quả và hiệu lực cao.
‒ Trình độ khoa học kỹ thuật của nhiều TCVN còn thấp, và lạc hậu cần
phải soát xét thay thế.
‒ Số lượng tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận còn chiếm tỷ trọng chưa
cao trong hệ thống TCVN .

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG
TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP
2.1. Khái quát về ngành nông nghiệp Việt Nam
2.1.1 Giới thiệu chung về ngành nông nghiệp Việt Nam
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai để trồng
trọt và chăn nuôi để tạo ra lương thực, thực phẩm cho con người và nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến nông sản.

• Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn với nhiều sản phẩm khác nhau, được phân chia
theo các chuyên ngành như:
- Nông nghiệp thuần bao gồm các tiểu ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ
- Lâm nghiệp bao gồm các tiểu ngành: trồng rừng, khai thác gỗ, lâm sản ngoài gỗ,
dịch vụ lâm nghiệp. Chuyên ngành này có chức năng xây dựng rừng, quản lý bảo vệ rừng,
khai thác lợi dụng rừng, chế biến lâm sản và chức năng môi trường như: phòng chống
thiên tai và hình thành các đặc điểm văn hóa, xã hội của nghề rừng.
- Thủy sản bao gồm các tiểu ngành: nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản ở các vùng
biển ven bờ, sông, hồ, các thung lũng có nước

• Theo trình độ phát triển, ngành nông nghiệp có hai loại hình, gồm:
9



- Nông nghiệp tự cung tự cấp. Ở trình độ này, nông nghiệp sử dụng các đầu vào hạn
chế và sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ tiêu dùng tại chỗ cho chính gia đình của mỗi
người nông dân. Không sử dụng cơ giới hóa và các tiến bộ kỹ thuật.
- Nông nghiệp hàng hóa. Ở trình độ này, quá trình sản xuất nông nghiệp được
chuyên môn hóa ở tất cả các khâu, gồm cả sử dụng máy móc, thiết bị cơ giới trong canh
tác trồng trọt, chăn nuôi và trong chế biến sản phẩm tươi sống làm ra. Nông nghiệp hàng
hóa sử dụng nguồn đầu vào lớn hơn so với nông nghiệp tự cung tự cấp, bao gồm các loại
hóa chất diệt sâu, diệt cỏ, phân bón hóa học, chọn lọc, áp dụng các giống mới và cơ giới
hóa cao; sản phẩm làm được thương mại hóa, bán ra trên thị trường trong nước và xuất
khẩu; sản xuất nông nghiệp hàng hóa tạo ra việc làm ở nhiều công đoạn nối tiếp nhau nên
tạo việc làm và thu nhập cho nhiều người tham gia vào các công đoạn của quá trình này.
Cơ cấu ngành nông nghiệp là mối quan hệ tỷ lệ về số lượng và giá trị giữa các
chuyên ngành, tiểu ngành bộ phận. Nói cách khác, cơ cấu ngành nông nghiệp phản ánh
quan hệ tỷ lệ về giá trị sản lượng, quy mô sử dụng đất của các chuyên ngành, tiểu ngành
cấu thành nên ngành nông nghiệp. Các chuyên ngành, tiểu ngành này được xem xét trên
các quy mô: tổng thể nền kinh tế, vùng và tiểu vùng. Cơ cấu ngành nông nghiệp thể hiện
vị thế của từng chuyên ngành, tiểu ngành trong mối quan hệ với toàn ngành nông nghiệp
(qua các tỷ lệ khác nhau tham gia vào ngành nông nghiệp) trong một thời gian nhất định.
Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, các chuyên ngành, tiểu ngành có mối quan hệ mật thiết
với nhau, hỗ trợ nhau phát triển trong phạm vi về không gian, thời gian và trên cơ sở điều
kiện hạ tầng kinh tế ở từng nơi
2.1.2 Đặc điểm của ngành nông nghiệp Việt Nam
2.1.2.1 Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt.
Đặc biệt trên cho thấy ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông
nghiệp. Thế nhưng ở mỗi vùng mỗi quốc gia có điều kiện đất đai và thời tiết – khí hậu rất
khác nhau. Lịch sử hình thành các loại đất, quá trình khai phá và sử dụng các loại đất ở
các địa bàn có địa hình khác nhau, ở đó diễn ra các hoạt động nông nghiệp cũng không
giống nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng … trên

từng địa bàn gắn rất chặt chẽ với điều kiện hình thành và sử dụng đất. Do điều kiện đất đai
khí hậu không giống nhau giữa các vùng đã làm cho nông nghiệp mang tính khu vực rất
rõ nét.

10


2.1.2.2 Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế
được.
Đất đai là điều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng nội dung kinh tế
của nó lại rất khác nhau. Trong công nghiệp, giao thông đất đai là cơ sở làm nền móng,
trên đó xây dựng các nhà máy, công xưởng, hệ thống đường giao thông để con người điều
khiến các máy móc, các phương tiện vận tải hoạt động.
Trong nông nghiệp, đất đai có nội dung kinh tế khác, nó là tư liệu sản xuất chủ yếu
không thể thay thế được. Ruộng đất bị giới hạn về mặt diện tích, con người không thể tăng
thê, theo ý muốn chủ quan, nhưng sức sản xuất ruống đất là chưa có giới hạn, nghĩa là con
người có thể khai thác chiều sâu của ruộng đất nhằm thoả mãn nhu cầu tăng lên của loài
người về nông sản phẩm. Chính vì thế trong quá trình sử dụng phải biết quý trọng ruộng
đất, sử dụng tiết kiệm, hạn chế việc chuyển đất nông nghiệp sang xây dựng cơ bản, tìm
mọi biện pháp để cải tạo và bồi dưỡng đất làm cho ruộng đất ngày càng màu mỡ hơn, sản
xuất ra nhiều sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích với chi phí thấp nhất trên đơn vị sản
phẩm.
2.1.2.3 Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống – cây trồng và vật nuôi.
Các loại cây trồng và vật nuôi phát triển theo quy luật sinh học nhất định (sinh
trưởng, phát triển và diệt vong). Chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay
đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp đến phát triển và diệt vọng. Chúng
rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác
động trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm
cuối cùng. Cây trồng và vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản xuất
trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản

xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất sau. Để chất lượng giống cây trồng
và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường xuyên chọn lọc, bồi dục các giống hiện có, nhập
nội những giống tốt, tiến hành lai tạo để tạo ra những giống mới có năng suất cao, chất
lượng tốt thích hợp với điều kiện từng vùng và từng địa phương.
2.1.2.4 Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao.
Đó là nét đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp, bởi vì một mặt thì quá
trinh sản xuất nông nghiệp là quá trình tái sản xuất kinh tế gắn liền với quá trình tái sản
xuất tự nhiên, thời gian hoạt động và thời gian sản xuất xen kẽ vào nhau, song lại không

11


hoàn toàn trùng hợp nhau, sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp. Tính thời vụ trong
nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xoá bỏ được, trong quá trình sản xuất chỉ tìm cách hạn
chế nó. Mặt khác do sự biến thiên về điều kiện thời tiết – khí hậu, mỗi loại cây trồng có sự
thích ứng nhất định với điều kiện đó, dẫn đến những mùa vụ khác nhau.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng – loại cây xanh có vai trò cực kỳ to
lớn là sinh vật có khả năng hấp thu và tàng trữ nguồn năng lượng mặt trời để biến từ chất
vô cơ thành chất hữu cơ, tạo nguồn thức ăn cơ bản cho con người và vật nuôi. Như vậy,
tính thời vụ có tác động rất quan trọng đối với nông dân. Tạo hoá đã cung cấp nhiều yếu tố
đầu vào thiết yếu cho nông nghiệp, như: ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa, không khí. Lợi thế
tự nhiên đã ưu ái rất lớn cho con người, nếu biết lợi dụng hợp lý có thể sản xuất ra những
nông sản với chi phí thấp chất lượng. Để khai thác và lợi dụng nhiều nhất tặng vật của
thiên nhiên đối với nông nghiệp đòi hỏi phải thực hiện nghiêm khắc những khâu công việc
ở thời vụ tốt nhất như thời vụ gieo trồng, bón phân, làm cỏ, tưới tiêu. Việc thực hiện kịp
thời vụ cũng dẫn đến tình trạng căng thẳng về lao động đòi hỏi phải có giải pháp tổ chức
lao động hợp lý, cung ứng vật tư – kỹ thuật kịp thời, trang bị công cụ, máy móc thích hợp,
đồng thời phải coi trọng việc bố trí cây trồng hợp lý, phát triển ngành nghề dịch vụ, tạo
thêm việc làm ở những thời kỳ nông nhàn.
2.1.2.5 Nông nghiệp nước ta đang từ tình trạng lạc hậu, tiến lên xây dựng nền nông

nghiệp sản xuất hàng hóa theo định hướng XHCN không qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa.
Đặc điểm này cho thấy xuất phát điểm của nền nông nghiệp nước ta khi chuyển lên
xây dựng, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá là rất thấp so với các nước trong
khu vực và thế giới. Đến nay nhiều nước có nền kinh tế phát triển, nông nghiệp đã đạt
trình độ sản xuất hàng hoá cao, nhiều khâu công việc được thực hiện bằng máy móc, một
số loại cây con chủ yếu được thực hiện cơ giới hoá tổng hợp hoặc tự động hoá. Năng suất
ruộng đất và năng suất lao động đạt trình độ cao, tạo ra sự phân công lao động sâu sắc
trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tỷ lệ dân số và lao động nông nghiệp
giảm xuống cả tương đối và tuyệt đối. Đời sống người dân nông nghiệp và nông thôn được
nâng cao ngày càng xích gần với thành thị.
Trong khi đó, nông nghiệp nước ta với điểm xuất phát còn rất thấp, cơ sở vật chất
còn nghèo nàn, kết cấu hạ tầng nông thôn còn yếu kém, lao động thuần nông còn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng lao động xã hội, năng suất ruộng đất và năng suất lao động còn thấp.

12


Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, khẳng định phát triển nền nông nghiệp nhiều
thành phần và hộ nông dân được xác định là đơn vị tự chủ, nông nghiệp nước ta đã có
bước phát triển và đạt được những thành tựu to lớn, nhất là về sản lượng lương thực. Sản
xuất lương thực chẳng những trang trải được nhu cầu trong nước, có dự trữ mà còn dư
thừa để xuất khẩu. Bên cạnh đó một số sản phẩm khác cũng phát triển khá, như cà phê,
cao su, chè, hạt điều đã và đang là nguồn xuất khẩu quan trọng. Nông nghiệp nước ta đang
chuyển từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá. Nhiều vùng của đất nước đang chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng sản phẩm nông
nghiệp tăng sản phẩm phi nông nghiệp.
2.1.2.6 Nền nông nghiệp nước ta là nền nông nghiệp nhiệt đới, có pha trộn tính chất
ôn đới, nhất là ở miền Bắc và được trải rộng trên 4 vùng rộng lớn, phức tạp: trung du,
miền núi, đồng bằng và ven biển.

Đặc điểm này đem lại cho nông nghiệp nhiều thuận lợi cơ bản, đồng thời cũng có
những khó khăn rất lớn trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp.Thời tiết, khí hậu
của nước ta có những thuận lợi rất cơ bản. Đó là hàng năm có lượng mưa bình quân tương
đối lớn, đảm bảo nguồn nước ngọt rất phong phú cho sản xuất và đời sống, có nguồn năng
lượng mặt trời dồi dào (cường độ, ánh sáng, nhiệt độ trung bình hàng năm là 230C), cây
trồng và vật nuôi phong phú, đa dạng. Nhờ những thuận lợi cơ bản đó mà ta có thể gieo
trồng và thu hoạch quanh năm, với nhiều cây trồng và vật nuôi phong phú, có giá trị kinh
tế cao, như cây công nghiệp lâu năm, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, điều kiện thời tiết – khí hậu nước ta cũng có
nhiều khó khăn lớn, như: mưa nhiều và lượng mưa thường tập trung vào ba tháng trong
năm gây lũ lụt, ngập úng. Nắng nhiều thường gây nền khô hạn, có nhiều vùng thiếu cả
nước cho người, vật nuôi sử dụng. Khí hậu ẩm ướt, sâu bệnh, dịch bệnh dễ phát sinh và
lây lan gây ra những tổn thất lớn đối với mùa màng
2.1.3 Tỷ trọng ngành nông nghiệp Việt Nam
Trong giai đoạn 2005 – 2015, nền kinh tế thế giới và Việt Nam có nhiều biến động
khiến hoạt động sản xuất trong nước gặp nhiều khó khăn, lạm phát tăng cao… Tuy nhiên,
ngành nông nghiệp vẫn đóng góp bình quân trên 17% GDP (dù năm 2010 và 2011 tỷ lệ
này có giảm xuống còn 16,43% và 16,13%). Có mức đóng góp như vậy nhưng tổng vốn
đầu tư cho nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 13,8% GDP trong năm 2000, giảm còn 7,5%
vào năm 2005, còn 6,45% vào năm 2008, 6,15% vào năm 2010 và chỉ ở mức 5,98% trong

13


năm 2011. Trong năm 2011, tổng vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp cũng chỉ đáp ứng
được 40% nhu cầu của toàn ngành và năm 2012, vốn đầu tư cho nông nghiệp có tăng
nhưng cũng chỉ đáp ứng 50 - 60% nhu cầu của khu vực nông nghiệp.
Tỷ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP từ năm 2010-2014
Năm


2010

2011

2012

2013

2014

Tỷ lệ đóng góp vào
GDP (%)

16.43

16.13

17.65

18.38

18.12

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nướccác năm 2012, 2013 và 2014
Đóng góp của các khu vực
Tốc độ tăng so với năm trước %

vào tăng trưởng năm 2014
(Điểm phần trăm)


Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

5.25

5.42

5,98

5,98

và 2.68

2.64

3,49

0,61

và 5.75

5.43

7,14

2,75


5.90

6.57

5,96

2,62

Tổng số
Nông, lâm
nghiệp
thuỷ sản
Công
nghiệp
xây dựng
Dich vụ

Nguồn: Tổng cục thống kê
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2014 theo giá so sánh 2010 ước tính
đạt 830 nghìn tỷ đồng, tăng 3,9% so với năm 2013, bao gồm: Nông nghiệp đạt 617,5 nghìn tỷ
đồng, tăng 2,9%; lâm nghiệp đạt 23,9 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%; thủy sản đạt 188,6 nghìn tỷ
đồng, tăng 6,8%.
2.1.3.1 Tỷ trọng Nông nghiệp


Lúa gạo

14



Sản lượng lúa cả năm 2014 ước tính đạt gần 45 triệu tấn, tăng 955,2 nghìn tấn so với
năm trước, trong đó diện tích gieo trồng ước tính đạt 7,8 triệu ha, giảm 88,8 nghìn ha; năng
suất đạt 57,6 tạ/ha, tăng 1,9 tạ/ha. Nếu tính thêm 5,2 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương
thực có hạt năm nay ước tính đạt 50,2 triệu tấn, tăng 956 nghìn tấn so với năm 2013.
Trong sản xuất lúa, diện tích gieo trồng lúa đông xuân đạt 3116,5 nghìn ha, tăng 10,9
nghìn ha so với vụ đông xuân trước; sản lượng đạt hơn 20,8 triệu tấn, tăng 780,8 nghìn tấn do
năng suất đạt 66,9 tạ/ha, tăng 2,3 tạ/ha. Diện tích gieo trồng lúa hè thu đạt 2734,1 nghìn ha,
giảm 76,7 nghìn ha; sản lượng đạt 14,5 triệu tấn, giảm 93,1 nghìn tấn. Diện tích gieo trồng
lúa mùa đạt 1963,1 nghìn ha, giảm 23 nghìn ha so với vụ mùa năm 2013, trong đó các địa
phương phía Nam giảm hơn 20 nghìn ha do thực hiện chuyển đổi cơ cấu mùa vụ và cây
trồng. Tuy nhiên, do thời tiết thuận lợi nên năng suất lúa mùa cả nước ước tính đạt 49 tạ/ha,
tăng 1,9 tạ/ha và sản lượng ước tính đạt 9,6 triệu tấn, tăng 267,5 nghìn tấn. Sản lượng lúa
mùa của các địa phương phía Bắc đạt 5,9 triệu tấn, tăng 269,3 nghìn tấn; năng suất đạt 49,9
tạ/ha, tăng 2,4 tạ/ha. Sản lượng lúa mùa của các địa phương phía Nam đạt 3,7 triệu tấn, xấp xỉ
năm trước; năng suất đạt 47,6 tạ/ha, tăng 1,2 tạ/ha.


Cây trồng khác
Sản lượng một số cây hàng năm giảm so với năm 2013 một mặt do điều kiện thời tiết
không thuận lợi ở các địa phương phía Bắc, mặt khác do giá bán và thị trường tiêu thụ không
ổn định ở các địa phương phía Nam. Ước tính sản lượng lạc cả năm đạt 454,5 nghìn tấn, giảm
37,4 nghìn tấn; đỗ tương đạt 157,9 nghìn tấn, giảm 10,3 nghìn tấn; đậu 165,6 nghìn tấn, giảm
3,4 nghìn tấn. Riêng sản lượng rau đạt 15,4 triệu tấn, tăng 792 nghìn tấn.
Cây công nghiệp lâu năm tiếp tục phát triển theo hướng thay đổi cơ cấu cây trồng phù hợp
với điều kiện canh tác của từng vùng để mang lại hiệu quả kinh tế cao, phục vụ tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu. Diện tích cho sản phẩm và sản lượng một số cây chủ yếu tăng so với năm
2013, trong đó diện tích chè ước tính đạt 132,1 nghìn ha, tăng 1,8%, sản lượng đạt 962,5 nghìn
tấn, tăng 2,8%; cà phê diện tích đạt 641,7 nghìn ha, tăng 0,7%, sản lượng đạt 1395,6 nghìn tấn,
tăng 1%; cao su diện tích đạt 977,7 nghìn ha, tăng 2%, sản lượng đạt 953,7 nghìn tấn, tăng 0,7%;
hồ tiêu diện tích đạt 83,8 nghìn ha, tăng 21,4%, sản lượng đạt 147,4 nghìn tấn, tăng 13%.


15


Sản lượng một số cây ăn quả đạt khá do thời tiết thuận lợi, trong đó sản lượng nho ước
tính đạt 20,7 nghìn tấn, tăng 7,8% so với năm 2013; cam đạt 572,9 nghìn tấn, tăng 7,7%; vải,
chôm chôm đạt 697,1 nghìn tấn, tăng 10,8%; xoài đạt 688,9 nghìn tấn, tăng 1,7%.


Chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc, gia cầm những tháng cuối năm có nhiều thuận lợi và phát triển tốt do
giá bán sản phẩm chăn nuôi luôn ở mức cao và ổn định, dịch bệnh được khống chế trong nhiều
tháng qua. Đàn trâu cả nước năm nay có 2,5 triệu con, giảm 1,9% so với năm 2013 do điều kiện
bãi chăn thả bị thu hẹp; đàn bò có 5,2 triệu con, tăng 1,5%, riêng chăn nuôi bò sữa tiếp tục tăng
nhanh, tổng đàn bò sữa năm 2014 của cả nước là 227,6 nghìn con, tăng 22,1% so với năm
2013; đàn lợn có 26,8 triệu con, tăng 1,9%; đàn gia cầm có 327,7 triệu con, tăng 3,2% (Đàn gà
246 triệu con, tăng 4,9%). Sản lượng thịt hơi các loại năm nay ước tính đạt khá, trong đó sản
lượng thịt trâu đạt 86,9 nghìn tấn, tăng 1,6%; sản lượng thịt bò đạt 292,9 nghìn tấn, tăng 2,6%;
sản lượng thịt lợn đạt 3,4 triệu tấn, tăng 3,1%; sản lượng thịt gia cầm đạt 875 nghìn tấn, tăng
5,3%.
Tính đến ngày 25/12/2014, dịch lợn tai xanh đã được khống chế; dịch bệnh khác chưa
qua 21 ngày còn ở các địa phương: Dịch cúm gia cầm ở tỉnh Quảng Ngãi; dịch lở mồm long
móng ở tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Hà Tĩnh và Đắk Nông.

2.1.3.2 Tỷ trọng Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung năm 2014 ước tính đạt 226,1 nghìn ha, tăng 6,1% so với
năm 2013, trong đó một số địa phương có diện tích rừng trồng mới tập trung nhiều: Nghệ An
16 nghìn ha; Quảng Nam 14,4 nghìn ha; Quảng Ngãi 14,2 nghìn ha; Tuyên Quang 13,8 nghìn
ha; Quảng Ninh 13,3 nghìn ha; Yên Bái 12,3 nghìn ha. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán cả
năm đạt 155,3 triệu cây, bằng 98,7% năm trước. Sản lượng gỗ khai thác đạt 6456 nghìn m 3,

tăng khá ở mức 9,3% so với năm 2013, chủ yếu do nhu cầu của thị trường tiêu thụ cả trong và
ngoài nước đều tăng cao. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng nhiều so với năm
trước: Quảng Nam tăng 51%; Quảng Ngãi tăng 49,5%; Thừa Thiên Huế tăng 31,2%; Quảng
Ninh tăng 23,3%; Bình Định tăng 19,6%; Quảng Trị tăng 11%. Tại một số địa phương, nhiều
nhà máy sản xuất sản phẩm từ gỗ đang thực hiện cơ chế liên doanh, liên kết với các hộ gia
đình để trồng rừng đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu nhằm bao tiêu sản phẩm.

16


Thời tiết nắng hạn kéo dài trong năm gây ra hiện tượng cháy rừng khá nghiêm trọng tại
một số địa phương ở khu vực miền núi phía Bắc và duyên hải miền Trung. Tổng diện tích rừng
bị thiệt hại năm 2014 là 4028 ha, tăng 105% so với năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy
3157 ha, tăng 173,1%; diện tích rừng bị chặt phá 871 ha, tăng 7,7%. Một số tỉnh có diện tích
rừng bị cháy nhiều: Yên Bái 692 ha; Bình Định 414 ha; Phú Yên 317 ha; Quảng Trị 236 ha;
Lai Châu 211 ha; Nghệ An 176 ha; Đà Nẵng 146 ha; Sơn La 119 ha; Bình Thuận 106 ha. Một
số địa phương có diện tích rừng bị chặt, phá nhiều: Đắk Nông 133 ha; Sơn La 109 ha; Lâm
Đồng 91 ha; Bắc Giang 89 ha; Đắk Lắk 83 ha.
2.1.3.3 Tỷ trọng Thủy sản
Sản lượng thuỷ sản năm 2014 ước tính đạt 6332,5 nghìn tấn, tăng 5,2% so với năm
trước, trong đó cá đạt 4571 nghìn tấn, tăng 4,5%; tôm đạt 790,5 nghìn tấn, tăng 9,3%.
Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng cả năm ước tính đạt 3413,3 nghìn tấn, tăng 6,1% so với
năm trước, trong đó cá 2449,1 nghìn tấn, tăng 4,1%; tôm 631,5 nghìn tấn, tăng 12,7%. Sản
lượng tôm nuôi tăng mạnh chủ yếu do nhiều địa phương thực hiện chuyển đổi phần lớn diện
tích nuôi tôm sú sang nuôi tôm thẻ chân trắng, đồng thời tăng diện tích nuôi thâm canh và bán
thâm canh, giảm dần diện tích nuôi quảng canh. So với năm trước, diện tích thu hoạch tôm sú
giảm 19 nghìn ha, diện tích thu hoạch tôm thẻ chân trắng tăng 28 nghìn ha. Sản lượng tôm thẻ
chân trắng tăng mạnh, ước tính đạt 349 nghìn tấn, tăng 36,3% so với năm trước, trong khi sản
lượng tôm sú thu hoạch trong năm đạt 252 nghìn tấn, giảm 8,7% so với năm 2013. Nuôi cá tra
tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng diện tích thả nuôi ở khu vực doanh nghiệp và giảm diện

tích thả nuôi ở khu vực hộ gia đình. Sản xuất cá tra có dấu hiệu được cải thiện khi giá cá tra
tăng so với năm 2013, diện tích thả nuôi đang dần trở lại ổn định. Sản lượng cá tra năm nay ước
tính đạt 1158,3 nghìn tấn, giảm 3,1% so với năm trước.
Khai thác thủy sản năm nay có nhiều thuận lợi về thời tiết với nắng ấm kéo dài, ít bão
nên sản lượng thủy sản khai thác năm nay tăng khá, ước tính đạt 2919,2 nghìn tấn, tăng 4,1%
so với năm trước, trong đó khai thác biển đạt 2711,1 nghìn tấn, tăng 4%. Nghề câu cá ngừ đại
dương đang được các ngành chức năng quan tâm và hỗ trợ trong áp dụng khoa học kỹ thuật,
cải tiến phương pháp thu câu của Nhật Bản, bảo quản sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả và
tính bền vững trong hoạt động khai thác.

17


2.2 Thực trạng xuất khẩu và quản lý chất lượng sản phẩm nông nghiệp
xuất khấu.
2.2.1 Thực trạng xuất khẩu một số nông sản chính.

Hình 1. Biểu đồ thể hiện Tỷ trọng xuất khẩu của một số mặt hàng nông, thủy sản
quan trọng.
(nguồn: bộ NN PTNN)
Trong số các mặt hàng xuất khẩu, có 10 mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu hơn 1
tỷ USD. Đó là những kết quả khả quan đánh dấu sự hồi phục và tăng trưởng trở lại của nông
nghiệp, đồng thời góp phần củng cố niềm tin cho toàn ngành vượt qua những thách thức có
thể gặp phải trong năm 2016 và những năm tiếp theo
Nếu như năm 2001 chỉ có mặt hàng thủy sản đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD thì
đến năm 2013 đã có 7 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD với tổng kim ngạch
xuất khẩu là 18,7 tỷ USD, chiếm 94,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nhóm hàng nông
sản, thủy sản. Cụ thể là thủy sản với kim ngạch xuất khẩu năm 2013 đạt 6,72 tỷ USD (chiếm
34% trong tổng xuất khẩu của cả nhóm), tiếp theo là gạo đạt 2,93 tỷ USD (chiếm 15%), cà
phê đạt 2,72 tỷ USD (chiếm 14%), cao su đạt 2,49 tỷ USD (chiếm 13%), hạt điều đạt 1,65 tỷ

USD (chiếm 8%), sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 1,10 tỷ USD (chiếm 6%).
2.2.2 Chất lượng nông sản xuất khẩu Việt Nam hiện nay.
Nước ta là một trong 3 nước có số lượng nhiều lô hàng nông thủy sản xuất khẩu bị trả về.
Đối với các thị trường châu Âu, Nhật Bản, Mỹ, nơi có những quy định hết sức khắt khe về vệ
sinh an toàn thực phẩm thì Việt Nam là một trong các nước có tỷ lệ sản phẩm bị từ chối nhập
khẩu cao nhất. Năng lực cạnh tranh với các mặt hàng vẫn còn rất yếu. Các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu nông sản thủy sản còn ít và năng lực còn thấp quy mô nhỏ. Năng lực cạnh tranh
quốc gia của Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá và xếp hạng thấp hơn so với nhiều
nước trong khu vực, vào mức trung bình thấp so với các nước ASEAN. Báo cáo Môi trường
kinh doanh 2014 của Ngân hàng Thế giới đánh giá, Việt Nam ở vị trí 99/189 nước, trong khi
Thái Lan xếp hạng 18 và Malaysia xếp hạng 6.

• Kim ngạch xuất khẩu

18


Kim ngạch xuất khẩu nông sản 6 tháng đầu năm nay ước đạt hơn 9,7 tỷ USD, giảm hơn
610 triệu USD so với cùng kỳ năm trước. Nhiều nông sản chủ lực như gạo, chè, trái cây, thủy
sản đều sụt giảm về số lượng, giá cả. Những tưởng nguyên nhân là do khách quan, kinh tế
các nước vẫn chưa bước qua khủng hoảng nên giảm nhập khẩu, nhưng đáng tiếc và đáng
trách hơn, nhiều nông sản bị khách hàng từ chối nhập, trả lại do vi phạm những quy định, tiêu
chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cụ thể, Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 2/2015 đạt 1,78 tỷ USD, đưa giá trị
xuất khẩu của ngành 2 tháng đầu năm 2015 lên 4,177 tỷ USD, giảm 1,9 % so với cùng kỳ
năm 2014. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 1,87 tỷ USD,
giảm 5,3%; Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 907 triệu USD, giảm 9,4%; Giá trị xuất khẩu
các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 1.046 triệu USD, tăng 8,9 so với cùng kỳ năm 2014. Cụ
thể, khối lượng xuất khẩu gạo 2 tháng ước đạt 526 nghìn tấn trị giá 243 triệu USD, giảm
33,1% về khối lượng và giảm 34,0% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu cà phê

ước đạt 242 nghìn tấn và 511 triệu USD, giảm 25,0% về khối lượng và giảm 16,4% về giá trị
so cùng kỳ năm 2014. Ước tính khối lượng xuất khẩu cao su đạt 137 nghìn tấn, giá trị đạt 202
triệu USD, tăng 30,5% về khối lượng nhưng giảm 6,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014.
Đây là những vấn đề cần phải xem xét.


Xuất khẩu thủy sản:
Năm 2014 xuất khẩu tôm đem lại những vui mừng đối với xuất khẩu thủy sản với sự bứt

phá về kim ngạch xuất khẩu so với các mặt hàng thủy sản khác với kim ngạch xuất khẩu lên
đến 4 tỷ USD đóng góp đến 60% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Tuy nhiên trong 7
tháng đầu năm nay, xuất khẩu tôm chỉ đạt 1,55 tỷ USD giảm 28,3% so với cùng kỳ năm
2014, xuất khẩu sang các thị trường lớn đều giảm trong đó thị trường Mỹ giảm mạnh đến
50% ( kim ngạch 313,6 triệu USD). Theo như nguyên nhân mà hiệp thủy sản Việt Nam đưa
ra, ngoài các nguyên nhân về mặt khách quan như nền kinh tế thế giới phục hồi chậm, nguồn
cung tôm tăng lên từ các thị trường sau khi dịch bệnh được khống chế… thì nguyên nhân
chính vẫn là do tôm Việt đã bộc lộ những hạn chế trước những biến động của thị trường từ
chất lượng đến các chính sách chưa đủ mạnh như chính sách về đầu tư cho con giống, cho
thức ăn chăn nuôi cho tổ chức làm cho giá tôm của Việt Nam cao hơn so với các nước trên
thị trường thế giới.

19


Các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm soát hàm lượng các chất vi lượng
trong thực phẩm cũng gây ra những khó khăn cho nông nghiệp Việt Nam thời gian qua. Năm
2010, Nhật Bản tăng cường kiểm soát Trifluralin và lại tiếp tục tăng cường kiểm tra
Enrofloxacin trong tôm Việt Nam trong năm 2011 với mức dư lượng cho phép thấp hơn 10
lần so với EU. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn, thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất khẩu
tôm Việt Nam trong những năm đấy. Đến giữa tháng 5/2012, Nhật Bản lại quyết định kiểm

tra 30% các lô tôm nhập khẩu từ Việt Nam đối với chỉ tiêu Ethoxyquin với mức giới hạn cho
phép là 0,01ppm (10ppb), nhưng lại không áp dụng kiểm tra đối với các nước xuất khẩu tôm
khác vào thị trường này như Thái Lan, In-đô-nê-xi-a,… Và mới đây, Tổng vụ Sức khỏe và
Người tiêu dùng - Ủy ban Châu Âu (EC) đã có thông báo tình hình các lô hàng thủy sản Việt
Nam bị cảnh báo chỉ tiêu hóa chất kháng sinh khi xuất vào EU.Có 16 cơ sở chế biến có liên
quan trong đó có mặt của cả những ông lớn trong ngành thủy sản đang niêm yết CP trên Sở
Giao dịch Chứng khoán. Cơ quan thẩm quyền của EU đề nghị Việt Nam phải có giải thích và
biện pháp khắc phục cho tình trạng trên trước ngày 09/01/2015. Sau thời hạn này EU có thể
áp dụng các biện pháp ngăn chặn: Cấm nhập khẩu từ 16 doanh nghiệp bị cảnh báo này hoặc
mạnh hơn ảnh hưởng đến xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU. Năm 2014, xuất khẩu tôm
sang EU tăng đến 72% so với cùng kỳ năm trước và là thị trường tiêu thụ tôm lớn thứ 3 của
Việt Nam.


Xuất khẩu gạo.
Theo Bộ NN&PTNT, hàng năm Việt Nam sản xuất tới 45 triệu tấn lúa (tương đương 26-

27 triệu tấn gạo), xuất khẩu từ 6-7 triệu tấn gạo, song thực tế những thương hiệu mang tên
gạo Việt lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay và cũng chưa có đủ độ “phủ” trên phạm vi toàn
cầu. Điểm yếu của sản phẩm gạo Việt Nam là sự thiếu đồng đều về chất lượng, chủ yếu phân
loại theo tỷ lệ tấm như 5%, 10%, 15% và 25%. Gạo Việt Nam có lợi thế trên phân khúc thị
trường gạo trắng, hạt dài, không có tên giống tại các nước như: Nam và Đông Nam Á, Trung
Đông và các nước châu Phi, châu Mỹ La tinh.
Khả năng tiếp cận và cạnh tranh với sản phẩm gạo Thái Lan tại các thị trường yêu cầu chất
lượng cao, đặc biệt là gạo thơm như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Thổ Nhĩ
Kỳ… còn rất hạn chế. Việt Nam hiện đứng vị trí thứ 3 thế giới về xuất khẩu gạo, trong đó
90% lượng xuất khẩu từ đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

20



Trong 6 tháng đầu năm nay, xuất khẩu nông sản của Việt Nam bị sụt giảm mạnh. Nguyên
nhân không phải do thị trường thu hẹp mà đáng tiếc hơn là do một số lô nông sản xuất khẩu
đã bị đối tác từ chối, trả lại do không đảm bảo chất lượng, tiêu chuẩn. Đây chính là hậu quả
của việc thiếu kiểm soát chặt chẽ vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trong nông nghiệp. Và
như thế sẽ làm thất tín với khách hàng cũng như không thể có được một nền nông nghiệp
phát triển bền vững.
Mới đây nhất, các đối tác châu Âu đã trả lại sản phẩm chè do tồn dư hoạt chất bảo vệ thực
vật vượt ngưỡng cho phép. Trước đó, quả thanh long - một mặt hàng nông sản có lượng xuất
khẩu khá lớn của nước ta cũng bị Mỹ cấm thông quan vì bị cho là có dư lượng thuốc bảo vệ
thực vật vượt quá mức quy định.
Thực trạng đáng tiếc này chính là tiếng chuông cảnh tỉnh cho ngành nông nghiệp, đặc biệt
trong lĩnh vực quản lý chất lượng nông lâm thủy sản. Việt Nam có tiếng và đứng đầu thế giới
trong việc xuất khẩu nhiều loại nông sản như gạo, chè, cà phê, thủy sản… đã nhiều năm nay.
Những câu chuyện nóng hổi về vệ sinh an toàn thực phẩm trong nước thời gian gần đây cùng
với câu chuyện nhiều lô hàng nông sản xuất khẩu bị trả về cho thấy, việc hướng tới một nền
sản xuất sạch ngày càng trở nên cấp bách. Việc hình thành được chuỗi liên kết để kiểm soát
chặt từ khâu sản xuất, chế biến, đến tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng.

2.3 Thực trạng quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam.
Theo tiến sĩ Roger H. Ford, một chuyên gia về nghiên cứu nông sản Việt Nam: “Cái yếu nhất
của ngành xuất khẩu Việt Nam nói chung là sự thiếu liên kết. Người sản xuất không liên kết
với người bán, và ngay cả những thành viên trong hiệp hội cũng không liên kết với nhau. Lợi
thế cạnh tranh bắt đầu với 1 chiến lược rõ ràng được chia sẻ trong chính liên kết ngành. Tấm
gương những quốc gia phát triên cho thấy tầm quan trọng của liên kết.


Ngành sản xuất trái cây Việt Nam
Điềm khó khăn trong ngành sản xuất trái cây là công nghệ sau thu hoạch lạc hậu, thiếu tổ


chức liên kết ngành, quy hoạch chung yếu kém, chất lượng sản phẩm thấp, không đồng bộ,
thiếu kiến thức thị trường, kỹ thuật trồng trọt thấp, thiếu vốn vay, năng suất lao động không
cao,..

21


Hiện nay chỉ một số doanh nghiệp lớn và các siêu thị có phương thức tồn trữ trái cây ở
nhiệt độ lạnh. Còn lại đa số các vựa thu mua trái cây cũng như nông dân và đều thu hoạch và
bán trái cây theo tập quán, không có quy trình bảo quản sau thu hoạch. Điều này gây hậu quả
không nhỏ đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Sản phẩm trái cây của nước ta, đặc
biệt trái cây các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long có nhiều lợi thế về chủng loại, sản lượng và
chất lượng của trái cây miền nhiệt đới nhưng việc bảo quản đến xuất khẩu vào các thị trường
lớn như Nhật, EU, Mỹ…chưa ngang tầm với sản lượng thu hoạch hàng năm. Tại thị trường
trong nước từ nhiều năm này giá bán trái cây giá bán trái cây vào thời điểm thu hoạch thường
bấp bênh do sản phẩm cùng chủng loại nhiều nhiều vào thời điểm thu hoạch, bình quân
khoảng 2 tháng/vụ, làm cho việc điều tiết tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Sản phẩm
trái cây được tiêu thụ ở dạng tươi là chủ yếu tại địa phương và trong nước, nên thường gây ứ
đọng, sản phẩm thường bị hư hỏng, đa số trái cây đều không qua khâu kiểm tra chất lượng và
vệ sinh an toàn thực phẩm. Thời gian gần đây vấn đề này được các nhà vườn rất quan tâm,và
đặc biệt các công trình nghiên cứu qui trình bảo quản trái cây sau thu hoạch đang cho kết quả
khả quan. Qui trình nghiên cứu bảo quản xoài được Sở khoa học và Công nghệ TP Cần Thơ
nghiệm thu năm 2014. Nông trường sông Hậu – nơi nghiên cứu hiện có 150000 cây xoài cát
Hòa Lộc, trung bình mỗi hộ 80 – 100 cây. Với sản lượng hàng năm lên đến hàng nghìn tấn
xoài sản phẩm. Để hướng tới quy trình thu hoạch và bảo quản xoài có qui mô của một phân
xưởng phân loại, đóng gói, bảo quản trái cây tươi chính qui, Nông trường đã hợp tác với Viện
nghiên cứu và Phát triển công nghệ sinh học nghiên cứu thành công qui trình bảo quản xoài
sau thu hoạch bằng công nghệ hiện đại, đảo bảo chất lượng tốt, kéo dài thời gian tồn trữ, đáp
ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Theo đánh giá của các nhà khoa học, những

nghiên cứu bảo quản trái cây sau thu hoạch có thể có thể áp dụng rộng rãi trong siêu thị vì nơi
đây có phòng lạnh và các điều kiện cần thiết bảo quản trái cây lâu dài. Ngoài ra khi trái cây
Việt Nam hướng đến thị trường xuất khẩu thì việc bảo quản trái cây sau thu hoạch là để kéo
dài thời gian tồn trữ trong quá trình vận chuyển là một yêu cầu bắt buộc.
Việc tổ chức hoạt động xuất khẩu của hầu hết các doanh nghiệp trong lĩnh vực rau, hoa
quả còn thiếu tính chuyên nghiệp. Chỉ có 1 số ít đơn vị tổ chức kinh doanh sản xuất, xuất
khẩu bài bản, chính qui theo các qui trình tiên tiến từ canh tác đến thu hái, chọn lựa, phân
loại, đóng gói bao bì, lưu kho bảo quản lạnh, dưỡng sinh, vận chuyển, giao hàng đến tay
người mua nước ngoài đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm như công ty liên
doanh của Hà Lan – Indonesia HATSFARM ở Đà Lạt hiện nay.

22




Ngành xuất khẩu thủy sản

Quy định về chất lượng sản phẩm thủy sản:
Thức ăn dùng trong nuôi thủy sản: Được quy đinh theo Quyết định số 50/2008/QĐ – TTg
ngày 7/3/2008 và Quyết định số 24/2007/QĐ-BTS ngày 18/10/2007 của Bộ Thủy Sản. Các
thức ăn này đều phải được Cục quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản – Bộ
Thủy sản kiểm tra và chứng nhận chất lượng.
Quy định về bảo quản thực phẩm bằng phương pháp hiếu xạ: Quyết định số
3616/2009/QĐ – BYT ngày 14 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Y Tế.
Quy định về danh mục chất cấm sử dụng: Như Aristolochia spp và các chế phẩm từ
chúng, Diethylstibestrol, Chlorpromazine… là các loại hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng
trong thức ăn, thuôc thú y, hóa chất, chất xử lý môi trường, chất tẩy rửa khử trùng, chất bảo
quản, nuôi trống thực vật dưới nước và lưỡng cư.
Quy định về mức dư lượng hóa chất: Quyết định số 07/2008/QĐ – BTS chỉ rõ dư lượng

tối đa, mục đích sử dụng và thời gian ngưng sử dụng các hóa chất và kháng sinh trước khi
thu hoạch.
Công tác kiểm tra quản lý chất lượng thủy sản:
Hiện các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam áp dụng hệ thống quản lý chất lượng như GMP
(quy phạm sản xuất tốt), SSOP (quy phạm vệ sinh tốt), HACCP, xây dựng hệ thống cảnh báo
môi trường thủy sản. Lĩnh vực vệ sinh an toàn thủy sản được cải thiện qua các hoạt động hội
nhập quốc tế với nhiều nước.
Sở Nông nghiệp và Nông thôn các tỉnh, Thành phố và Cục quản lý chất lượng Nông Lâm
Thủy sản chịu trách nhiệm tổ chức kiểm tra và công nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn thực
phẩm đối với các loại hình cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản.

CHƯƠNG 3: “TPP” – LỰC ĐẨY CHO QUẢN LÝ CHẤT
LƯỢNG SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP.
Việt Nam tham gia vào TPP - đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương đang là vấn
đề được xã hội quan tâm. Có thể nói với hàng loạt Hiệp định được ký kết trong thời gian qua,

23


đặc biệt là TPP, cơ hội thu hút vốn đầu tư ngoại, cơ hội tiếp cận các nhà đầu tư chiến lược
trên thị trường Quốc tế là rất lớn với các Doanh nghiệp Việt Nam.
Việc tham gia vào TPP mang lại những cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp của Việt
Nam:

Hình 2: Đánh giá tác động của các điều chỉnh thuế suất theo TPP đến các doanh nghiệp Việt
Nam.
(nguồn: khảo sát các DN V1000 và VNR500 do Vietnam Report thực hiện tháng 9/2015).
Có thể thấy nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp sẽ nhận được nhiều những tác động tích
cực của việc Việt Nam tham gia TPP


3.1 Cơ hội cho nghành nông ngiệp Việt Nam khi tham gia TPP.
Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận nguồn thị trường chung rộng lớn với gần 800 triệu người
tiêu dùng và 40% GDP toàn cầu. Với Hiệp định TPP được ký kết, một cơ hội rất rõ ràng nhìn
thấy là thị trường xuất khẩu rộng lớn hơn, thị trường chuỗi cung cấp mới sẽ được hình thành,
giúp Việt Nam giảm áp lực phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống hay bị thay đổi và
quan trọng hơn hầu hết các mặt hàng nông sản sẽ được giảm thuế suất xuống 0% theo lộ trình
sẽ giúp Việt Nam tăng lợi thế cạnh tranh so với các nước có cùng điều kiện sản xuất. Việt
Nam có lợi thế khi nhiều thành viên TPP là thị trường tiêu thụ nông sản lớn và đang có xu
hướng mở rộng hơn như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Singapore… Những thị trường này sẽ giúp
Việt Nam có cơ hội giảm áp lực phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống nhưng không

24


ootn định. Bên cạnh đó, trong thị trường rộng lớn TPP, Việt Nam còn có thể điều chỉnh linh
hoạt, tốt hơn cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu, hạn chế tình trạng được mùa mất giá.
Thứ hai, một cơ hội hết sức quý báu đó là ngành Nông nghiệp của chúng ta sẽ thu hút
được nhiều vốn ngoại, và các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài để hưởng ưu đãi thuế quan.
Việc thu hút yếu tố ngoại này sẽ giúp đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu ngành Nông nghiệp –
một chủ trương lớn của chính phủ Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh nhiều năm trở lại đây
nông nghiệp là lĩnh vực rất yếu về thu hút vốn đầu tư và đang ở trong tình trạng suy giảm
đáng lo ngại. Số liệu thống kê cho thấy tính chung trong cả năm 2014 chúng ta chỉ có khoảng
513 dự án FDI lớn, nhỏ đầu tư vào Nông nghiệp và lượng vốn FDI đầu tư vào Nông nghiệp
rất khiêm tốn, chỉ chiếm 1,4% tổng số vốn FDI đầu tư vào Việt Nam.

3.2 Thách thức cho nghành nông ngiệp Việt Nam khi tham gia TPP.
Khi hội nhập sâu rộng vào TPP, nông nghiệp Việt Nam cũng bộc lộ những yếu điểm.
Những mô hình sản xuất, canh tác nhỏ lẻ và manh mún của nông nghiệp Việt Nam sẽ gặp
nhiều trở ngại khi ra biển lớn. Theo số liệu thống kê hiện có khoảng 35 nghìn Doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực này chiếm một tỷ lệ ít ỏi là 1,01% tổng số Doanh nghiệp cả nước.

Điều đáng nói hơn, đây hầu hết là những Doanh nghiệp nhỏ và “siêu nhỏ”, cho nên rất khó
trong cạnh tranh. Sản xuất quy mô hộ là chính, công nghệ còn kém vì vậy sẽ có những mặt
hàng gặp rất nhiều khó khăn khi mở cửa. Mặt khcs chất lượng nông sản của Việt Nam còn
khá thấp so với nhiều nước như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Australia… và có thể bị lấn át ngay trên
sân nhà
Trong bảng xếp hạng V1000 – Top 1000 Doanh nghiệp nộp thuế TNDN lớn nhất Việt Nam
năm 2015 mới được Vietnam Report công bố mới đây cũng cho thấy số Doanh nghiệp Nông
nghiệp chiếm rất khiêm tốn, chỉ có 29 Doanh nghiệp và đóng góp chưa đến 2% vào tổng số
thuế của Bảng xếp hạng.

25


×