Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Điều tra tình hình mắc bệnh lợn con phân trắng trên đàn lợn tại xã hồng phong huyện an dương thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.1 KB, 37 trang )

Phần I
THỰC TẬP THÚ Y TẠI CƠ SỞ
1.1. TÌM HIỂU VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI CỦA
XÃ HỒNG PHONG HUYỆN AN DƯƠNG
Hồng phong là một xã nằm ở phía tây huyện An Dương, đây là một địa
bàn chiến lược của huyện An Dương và thành phố Hải Phòng ,ở đó có đường
208 chạy qua rất thuận tiện cho việc lưu thông hàng hóa, một đầu là con đường
dẫn liền tới huyện An Dương, đầu kia nối với xã An Hòa.
Xã Hồng Phong gồm có 8 thôn cụm dân cư:
- Thôn Hỗ Đông
- Thôn Hạ Đỗ I
- Thôn Ha Đỗ II
- Thôn Đinh Ngọ I
- Thôn Đinh Ngọ II
- Thôn Hoàng Lâu I
- Thôn Hoàng Lâu II
- Thôn Đồng Xuân
Phía bắc giáp với xã Lê Thiện, phía Dông và phiá Nam giáp với xã Bắc
Sơn và xã Tân Tiến. Phía tây giáp với xã An Hòa, Hồng Phong là một xã nằm
trong vùng hạ lưu của sông Lạch Tray bên kia là xã Thanh huyện An Lão.
Điều kiện tự nhiên:
Tổng diện tích đất canh tác của xã là : 304,23 ha, trong đó:
- Diện tích đất cấy trồng là: 285,47 ha
- Diện tích cấy lúa: 259,95 ha
- Diện tích cây xuân hè:25,52 ha
- Diện tích không cấy: 18,76 ha
- Điều kiện kinh tế xã hội:
- Cơ cấu mùa vụ, Lúa đông xuân, hè thu cây rau màu màu vụ đông
1



- Mạng lưới thú y xã gồm : 6 cộng tác viên thú y trong đó có một đồng chí là
trưởng ban thú y xã trình độ là trung cấp và cao đẳng:
- Tổng lương thực: 1486 tấn đạt 40,17% so với kế hoạch năm.
- Năng suất luá 57,15 ta/ha đạt 42% so với kế hoạch
- Bình quân lương thực đầu người 128kg/người/tháng.
- Tổng giá trị bằng thóc 1486 tấn =10.402triệu.
- Tổng thu nhập cây xuân hè 3.000.000 đồng/sào.
- Tổng thu nhập toàn xã/năm là 116 triệu đồng
- Bình quân thu nhập đầu người là: 9.850.000đồng/ năm.
1.1.2 Tình hình chăn nuôi và công tác thú y của xã:
Tổng đàn gia súc là 3.360 con. Trong đó đàn lợn nái là 326 con.
Hồng phong là một xã có nền chăn nuôi rất phát triển, đặc biệt là số lượng
chăn nuôi gia cầm lớn đứng đầu cả huyện ,toàn xã khoảng 20 mươi trang trại
lớn nhỏ chăn nuôi gia súc, . Đáp ứng một phần nào nhu cầu tiêu thụ của thành
phố Hải Phòng và các tỉnh thành lân cận khác. Phong trào chăn nuôi phát triển
như vậy một phần do ban chỉ đạo của xã rất quan tâm chú trọng tới côngtác
phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc và gia cầm. Vì vậy nhiều năm trở lại
đây tình hình dịch bệnh luôn ổn định,xã không có dịch bệnh nào xảy ra.
Hàng tháng xã tổ chức phun thuốc khử trùng tiêu độc ở khu chợ , bãi rác,
khu chăn nuôi nhiều đông dân cư, những hộ chăn nuôi nhỏ lẻ đều được cấp
thuốc về để phun vừa phòng chống được dịch bệnh mà còn đảm bảo vệ sinh môi
trường.
- Mạng lưới công tác thú y tại xã Hồng phong.
Hiện nay công tác thú y của xã Hồng phong - huyện An Dương được thống
nhất và xuyên suốt từ huyện xuống cơ sở. Ban thú y của xã hoạt động trực tiếp
dưới sự chỉ đạo của Trạm thú y huyện. Hàng tuần Trạm thú y vẫn tiến hành họp
giao ban đưa ra các ý kiến đánh giá và công tác thú y tại các thôn, tình hình dịch
bệnh và các biện pháp phòng chống dịch. Do vậy có thể thấy mạng lưới thú y tại
xã hoạt động rất tích cực có trách nhiệm và đạt hiệu quả cao trong công tác
phòng chống dịch bệnh.

2


Đội ngũ cán bộ thú y xã gồm có 6 người đa số là trình độ sơ cấp, trung cấp
và cao đẳng. Vì vậy mà trình độ chuyên môn còn hạn chế nhiều, hiểu biết người
dân chưa cao, nên việc kiểm tra tình hinh dịch bệnh , kiểm soát giết mổ trên địa
bàn xã còn nhiều hạn chế.
Thuốc thú y: hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại thuốc rất phong phú
và đa dạng. Đặc biệt xã Hồng Phong có Hai đại lý lớn và 4 cơ sở bán thuốc nhỏ
lẻ cũng đủ cung ứng một phần nào cho các hộ chăn nuôi ở địa phương
Bảng 1.1: Cơ cấu đàn lợn của xã qua các năm từ năm 2011 – 2013
Năm

Tổng số nái

Tổng số lợn

Tổng số lợn

Tổng

theo dõi
2011
2012

(con)
370
350

(con)

3600
1860

thịt (con)
1760
1542

(con)
5730
3752

2013

326

1716

1318

3.360

Qua bảng 1.1 cho thấy từ năm 2011đến 2013số đầu lợn của xã có xu
hướng giảm dần. Năm 2011là 5730 con, năm 2013 là 3360 con, như vậy đã
giảm đi 58,6%. Tổng số lợn nái năm 2011, 2012, 2013, tương ứng là 370,
350,326 số đầu nái giảm đồng thời giảm số lợn con. Lợn con để nuôi của 3
năm: 2011, 2012, 2013, tương ứng là 5730, 3752, 3360; cũng giảm đi 58,6%. Số
đầu lợn của xã giảm như vậy là do một số hộ chăn nuôi chuyển sang kinh doanh
mặt hàng nông sản.
1.1. 3 Công tác vệ sinh phòng bệnh
Vệ sinh phòng bệnh cho đàn lợn:

Vệ sinh phòng bệnh nhằm nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn luôn là vấn
đề được đặc biệt quan tâm. Cùng với việc vệ sinh thức ăn, nước uống, vật nuôi,
dụng cụ chăn nuôi, sinh sản… thì việc vệ sinh chuồng trại, cải tạo tiểu khí hậu
chuồng nuôi luôn được các hộ chú trọng, thiết kế và xây dựng chuồng nuôi theo
đúng tiêu chuẩn kỹ thuật đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông.
Sau mỗi lứa lợn, chuồng trại đều được tẩy uế bằng phương pháp: rửa sạch ô nhốt
lợn, để khô sau đó phun thuốc sát trùng như Han – iodine, Benkocid, và để
trống chuồng nuôi.Với lợn con tuyệt đối không tắm rửa để tránh lạnh và ẩm ướt,
3


định kỳ tiêu độc ở các chuồng nuôi lợn nái, bằng thuốc sát trùng, các hộ còn
thường xuyên tiến hành vệ sinh môi trường xung quanh như việc dọn cỏ, phát
quang bụi rậm, diệt chuột, thu dọn phân hằng ngày ở các ô chuồng...
Hiện nay các hộ chăn nuôi theo hình thức truyền thống còn rất ít chủ yếu là
chuyển dần theo hình thức chăn nuôi công nghiệp. Đây là hình thức chăn nuôi
vừa rút ngắn được thời gian chăm sóc mà hiệu quă kinh tế lai cao, thời gian
xuất chuồng sớm
* Phòng bệnh cho lợn con bằng vacxin:
Việc phòng bệnh bằng vacxin luôn được các hộ chăn nuôi chú trọng đặt lên
hàng đầu với mục tiêu phòng hơn chống. Chính vì vậy việc theo dõi và thực
hiện lịch tiêm phòng vacxin chính xác là rất quan trọng. Quy trình phòng bệnh
bằng vacxin cho đàn lợn được thể hiện qua bảng 1.2
Bảng 1.2: Quy trình sử dụng vacxin và các chế phẩm thú y phòng bệnh
cho lợn con tại các cơ sở chăn nuôi trên địa bàn xã
STT

Phòng bệnh

Liều


tuổi

lượng

( ngày)

(ml)

Cách dùng
Tiêm bắp hoặc

1

Dextran Fe

Thiếu sắt

1-3

2,0

2

Vác-xin Myco Pac

Viêm phổi

10; 25


1,0

Tiêm dưới da

3

Vác-xin dịch tả

Dịch tả lợn

21; 45

2,0

Tiêm dưới da

4

Vác-xin tụ - dấu

45; 60

3,0

Tiêm dưới da

18; 25

1,0


Tiêm dưới da

60

2,0

Tiêm dưới da

5
6

4

Tên chế phẩm

Ngày

Tụ huyết trùng
và đóng dấu lợn

Vác-xin phó

Phó thương hàn

thương hàn

lợn

Vác-xin LMLM


Lở mồm long
móng

tiêm dưới da


- Quy trình tiêm phòng cho lợn hậu bị:
Tiêm vacxin dịch tả lợn: cho lợn 6,5 – 7,0 tháng tuổi.
Tiêm vacxin Tụ - Dấu lợn: cho lợn 6,5 – 7,0 tháng tuổi.
- Tiêm phòng cho lợn nái chửa: Tiêm vacxin phòng tiêu chảy Litter Guard
cho lợn con qua việc tiêm phòng cho lợn mẹ trước khi đẻ 15 ngày. Liều tiêm
2ml/con.
- Với nái rạ: Tiêm vacxin phòng tiêu chảy Litter Guard cho lợn con qua việc
tiêm phòng cho lợn mẹ trước khi đẻ 15 ngày, liều tiêm 2ml/con.
- Tiêm phòng cho lợn nái nuôi con:
Sau đẻ 12 – 14 ngày: Tiêm phòng vacxin Dịch tả lợn với liều 2ml/con.
Tiêm phòng vacxin Tụ - Dấu, với liều 3ml/con.
Sau đẻ 17 – 19 ngày: Tiêm phòng vacxin Farrowsure (phòng các bệnh
lepto, đóng dấu, parvo), với liều 2ml/con. Tiêm phòng vacxin LMLM, với liều
2ml/con
Tiêm ADE hàng tháng, liều 5ml/con.
Tiêm vacxin dịch tả lợn, Farrowsure, Tụ - dấu vào tháng 3 và tháng 9 hàng
năm.
Trong những năm gần đây tình hình dịch bệnh nhiều diễn biến rất phức tạp
và gây thiệt hại nhiều cho người chăn nuôi . vì vậy việc tiêm phòng vắc xin rất
được bà con nông dân và những hộ chăn nuôi nhiều chú trọng ,quan tâm hơn về
công tác tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm. Mỗi năm ở xã tiêm phòng chia
làm hai đợt, đợt 1 vào tháng 3, 4 đợt 2 vào tháng 8,9. Vắc xin tiêm phòng chủ
yếu là Chi Cục Thú Y nhập của công ty thuốc thú y TW 1 và được bảo quản tại
trạm thú y huyện. Khi có lịch tiêm phòng cán bộ thú y xã lên trạm thú y nhận

vac xin về triển khai tiêm phòng.
1.1.4. Tình hình dịch bệnh của lợn
Nhìn chung, do sử dụng vacxin có mức độ bảo hộ cao, công tác phòng
bệnh chặt chẽ, phòng được nhiều bệnh nên các bệnh được tiêm phòng hầu như
không xảy ra. Các bệnh như viêm phổi, tiêu chảy vẫn thường xuyên xảy ra hàng
năm nhưng với tỷ lệ thấp và khả năng điều trị khỏi cao. Đạt được kết quả này là
5


do đống góp một phần không nhỏ của người cán bộ thú y luôn di sâu đi sát tư
vấn hướng dẫn cho bà con chăn nuôi . Thường xuyên mở lớp tập huấn kiến thức
chăn nuôi cách phòng và trị bệnh cho đàn gia súc, gia cầm , vì vây mà các cán
bộ thú y sớm phát hiện và điều trị kịp thời khi bệnh còn ở mức độ chưa trầm
trọng với các loại thuốc có tác dụng như Enrovet 5% và 10% điều trị tiêu chảy,
Ampidexalone đặc trị viêm dạ dày – ruột và các bệnh đường hô hấp, OTC- vet
điều trị viêm đường sinh dục, Tylan 200 điều trị viêm phổi…
Mặc dù vấn đề phòng bệnh luôn luôn được quan tâm nhưng vẫn có một tỷ
lệ lợn mắc một số bệnh: tiêu chảy, viêm phổi, viêm khớp, viêm da, viêm đường
sinh dục, bại liệt… một số bệnh này phát ra có tính theo mùa và tỷ lệ nhiễm
bệnh thấp. Trong quá trình thực tập tại xã Hồng Phong huyện An Dương, tôi tiến
hành điều tra tình hình mắc bệnh trong 3 năm 2011,2012, 2013 của lợn con từ
sơ sinh đến 21 ngày tuổi. Kết quả điều tra tình hình mắc bệnh của lợn con sơ
sinh được trình bày ở bảng 1.3.
Bảng 1.3: Một số bệnh thường gặp trên đàn lợn con theo mẹ
tại xã Hồng Phong huyện An Dương

Tên bệnh

Năm theo dõi
Năm 2012

(n = 3752)

Năm 2011
(n = 5370)
Tỷ lệ
Số con mắc
Số con mắc
(con)
(con)
(%)

Năm 2013
(n = 3360)

Tỷ lệ
(%)

Số con mắc
(con)

Tỷ lệ
(%)

Tiêu chảy

735

13,6

520


13,8

461

13,7

Viêm phổi

250

4,6

165

4,3

148

4,4

Các bệnh khác

95

1,7

62

1,5


55

1,6

1160

19,9

747

19,6

932

19,7

Tổng

Qua bảng 2.3 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh của đàn lợn con theo mẹ có xu
hướng giảm. Tỷ lệ mắc bệnh qua các năm 2011, 2012, 2013 tương ứng là
19,9%; 19,6,%; 19,7% điều đó cho thấy công tác phòng và trị bệnh tương đối tốt
và hiệu quả.
6


Hội chứng tiêu chảy ở đàn lợn con theo mẹ qua các năm: năm 2011là
735/5370 chiếm tỷ lệ 13,6%, năm 2012 là 520/3752 chiếm 13,8%, năm 2013 là
461/3360 chiếm 13,7%.
Nguyên nhân gây ra tiêu chảy ở lợn con ngoài nguyên nhân nhiễm khuẩn,

ký sinh trùng, nội khoa còn phụ thuộc vào phương thức chăn nuôi, chế độ dinh
dưỡng, thời tiết khí hậu và vệ sinh chuồng trai..
Bệnh viêm phổi hằng năm vẫn xảy ra nhưng tỷ lệ thấp hơn nhiều so với
bệnh tiêu chảy. Tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi trong 3 năm gần đây có giảm nhưng
không đáng kể, năm 2011là 250 con chiếm tỷ lệ 4,6%; năm 2012là 165 con chiếm
4,3%; năm 2012 là 148 con chiếm 4,4%. Bệnh viêm phổi thường gặp ở lợn hậu
bị, lợn nái, ở lợn con theo mẹ thấp. Thực tế, Ở cơ sở xã có tỷ lệ mắc bệnh viêm
phổi ở lợn con theo mẹ thấp là do chế độ chăm sóc và vệ sinh thú y tốt hơn,
Ngoài ra một số bệnh như viêm da, ghẻ, viêm khớp, sốt… vẫn xảy ra
nhưng với tỷ lệ thấp chúng tôi đưa vào nhóm các bệnh khác. Tỷ lệ mắc bệnh
năm 2011 là 1,7%; năm 2012 là 1,5%; năm 2013 là 1,5%. Các bệnh này điều trị
kịp thời thì kết quả khỏi bệnh cũng rất cao. Ngược lại nếu bệnh không được điều
trị sớm thì bệnh sẽ trở lên trầm trọng hơn, do đó làm ảnh hưởng đến khả năng
tăng trọng của lợn con, lợn còi cọc chậm lớn, chi phí thú y cao.
Như vậy qua 3 năm điều tra lợn con mắc bệnh của xã chúng ta thấy. Những
năm gần đây các bệnh thông thường xảy ra ở lợn con là tiêu chảy, viêm da, viêm
phổi… trong đó hội chứng tiêu chảy ở lợn con chiếm tỷ lệ cao nhất, vì vậy cần
quan tâm hơn nữa tới bệnh này.
1.1.5 Công tác chẩn đoán bệnh
Trong thời gian thực tập tại cơ sở xã tôi gặp một số ca bệnh sau :
* Bệnh tiêu chảy lợn con.
- Nguyên nhân: do chế độ chăm sóc nuôi dưỡng lợn mẹ trong thời gian
mang thai không tốt lợn con sinh ra yếu sức đề kháng giảm,
Do thời tiết thay đổi đột ngột
Do nền chuồng thường xuyên ẩm ướt, bầu vú lợn mẹ không sạch
- Triệu chứng điển hình : lợn con ỉa phân trắng sệt lỏng như sữa, mùi tanh, ở
hâụ môn và đuôi có dính phân. Mùi phân tanh khó chịu nhiều con ỉa chảy nặng
7



mất nhiều nước dẫn đến gầy sút nhanh, chân đi run run và ăn ít.
- Điều trị:
Hộ lý : vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, nền chuồng chuồng luôn khô dáo
+ Dùng thuốc uống : Neo-te-sol thuốc bột ngày uống hai lần
Liều lg/8kgTT/ lần
+ Dùng thuốc tiêm : Enrofloxacin ngày tiêm hai lần
+ liều lượng 1ml/10kgTT/lần
Kết hợp VTMB1 : 2-3 ml/con/ lần, liệu trình 3-5 ngày


Bệnh sưng phù đầu lợn con
+ Nguyên nhân : do một loai trực khuẩn đường ruột sinh ra độc tố gây
rung huyết. Lợn con sau cai sữa do ăn quá nhiều thức ăn so với nhu cầu cầu của
cơ thể nên một phần thức ăn không tiêu hóa hết đưa xuống ruột tạo điều kiện
cho E.coli dung huyết phát triển và gây bệnh.
+ Triệu chứng : Bệnh thường xảy ra đột ngột, lợn con có biểu hiện mí
mắt sưng, mắt nhắm, khe mắt có nhử, tiếng kêu khàn do sưng thanh quản, lợn đi
loạng choạng. Đôi khi thấy lợn bị tiêu chảy nhẹ, xuất huyết ra cổ da, da bụng,
chỏm tai, mũi. Trong đàn con to khỏe thường mắc trước,do những con to khỏe
ăn nhiều hơn.
+ Điều trị: Cách ly lợn ốm cho lợn nhịn ăn từ 1-2 ngày, chỉ cho uống
nước sạch và men tiêu hóa để tăng nhu động ruột đẩy vi khuẩn ra ngoài
+ Dùng kháng sinh Coliflox: 1ml/ 5kgTT/ lần
Tiêm ngày 2 lần, liệu trình 3-5 ngày
* Bệnh đường đường hô hấp:
+ Nguyên nhân: Do tác nhân gây bệnh chính là Mycoplasma.
Do thời tiết thay đổi các vi khuẩn ký sinh sẵn ở đường hô hấp trỗi dậy gây
bệnh như tụ cầu Staphylococcus, liên cầu khuẩn streptocococcus.
+ Triệu chứng: Lợn ho, lúc đầu ho từng tiếng, thường ho vào ban đêm và
buổi sáng, sau ho từng cơn, có con khịt mũi, chảy nước mũi hắt hơi. Lợn sốt nhẹ

hoặc không sốt lông xù kém ăn hoặc bỏ ăn.
+ Điều trị: Dùng kháng sinh đặc trị Tiamulin: 1,5ml/10kgTT/ lần.
8


Enrovet liều lượng: 1ml/20kg TT/ngày
Kết hợp với VTMB1 và VTMC, Anagil liệu trình 3-5 ngày.


Bệnh viêm tử cung lợn nái.
+ Nguyên nhân: chủ yếu là do vi khuẩn xâm nhập vào tử cung lợn nái
trong thời gian động dục hoặc do thụ tinh nhân tạo sai kỹ thuật.
Triệu chứng: Bệnh thường xảy ra vào những ngày đầu sau khi đẻ. Âm hộ
sưng đỏ, chất dịch từ trong âm hộ lợn nái có màu vàng, đặc sánh, đôi khi có lẫn
máu, mùi tanh thối khắm, lợn mẹ bỏ ăn, ăn ít kèm theo sốt.
+ Điều trị: Vệ sinh sạch sẽ, thụt rửa tử cung bằng dung dịch thuốc tím
0,1%. Rửa cơ quan bộ phận sinh dục bên ngoài, âm đạo, sau đó dùng dùng vòi
dẫn tinh quản cho qua cổ cổ tử cung để bơm dung dịch này vào trong tử cung
lợn nái hàng ngày. Trước khi thụt rửa ống cao su , bình chứ dung dịch thụt rử
phải sạch sẽ, đun sát trùng.
Tiêm thuốc điều trị: Dùng dung dịch tiêm Lincomycin 10%, liều lượng
1,5ml/10kgTT, dùng liên tục 3-5 ngày.



Bệnh viêm vú lợn nái
+ Nguyên nhân: Do nhiễm trùng từ ngoài qua núm vú gây viêm. Do trong
quá trình cắt lanh cho lợn con không đúng kỹ thuật, khi bú lợn con cắn vú làm
xây sát nhiễm trùng.
Do lợn nái không trở mình khi cho con bú, chỉ cho con bú một hàng vú,

hàng vú bên kia căng sữa gây viêm
+ Triệu chứng: sau khi đẻ 1- 2 ngày thấy bầu vú lợn mẹ xuất hiện những
núm vú sưng đỏ, sờ vào thấy nóng, ấn vào có phản ứng đau, lợn nái ăn ít không
cho con bú.
Điều trị:
Lincomycin : 1,5ml/10kg TT
Bcomplex

: 5ml/con

A nagil

: 3ml/con

Hoặc là :
Pennicillin

: 20.000UI/kgTT

Streptomycin : 40mg/kgTT
9


VTMB1

: 15ml/con
Phần II
TIÊU ĐỀ TÀI KHOA HỌC

2.1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Có thể nói chăn nuôi lợn là nghề truyền thống ở nước ta nhưng để chăn
nuôi lợn phát triển tốt hơn theo hướng gắn với thị trường, an toàn dịch bệnh, vệ
sinh thú y, bảo vệ môi trường nhằm nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả và
vệ sinh an toàn thực phẩm, các địa phương đang đẩy mạnh phát triển các sản
phẩm chăn nuôi có lợi thế và khả năng cạnh tranh, khuyến khích các tổ chức cá
nhân đầu tư chăn nuôi theo hướng trang trại, hỗ trợ tạo điều kiện cho các hộ
chăn nuôi truyền thống chuyển dần sang chăn nuôi trang trại và công nghiệp.
Cùng với việc chăn nuôi được mở rộng thì dịch bệnh là yếu tố đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả chăn nuôi. Một trong những bệnh gây thiệt hại
kinh tế cho các hộ chăn nuôi lợn sinh sản là bệnh phân trắng lợn con ở giai đoạn
sơ sinh đến 21 ngày tuổi. Bệnh xảy ra khắp nơi trên thế giới. Ở các nước đang
phát triển như Việt Nam bệnh xảy ra hầu như quanh năm, đặc biệt khi thời tiết
có sự thay đổi đột ngột (lạnh, ẩm, gió lùa) kết hợp với điều kiện chăm sóc nuôi
dưỡng không đảm bảo vệ sinh; lợn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố stress, lợn con
sinh ra không được bú sữa kịp thời hoặc do sữa đầu của mẹ thiếu không đảm
bảo chất lượng dinh dưỡng. Khi lợn con mắc bệnh nếu điều trị kém hiệu quả sẽ
gây còi cọc chậm lớn ảnh hưởng đến giống cũng như khả năng tăng trọng của
chúng, gây tổn thất lớn về kinh tế. Do đó, phòng tiêu chảy cho lợn con góp phần
làm tăng hiệu quả chăn nuôi lợn sinh sản, đảm bảo cung cấp con giống có chất
lượng tốt.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước về hội chứng tiêu chảy ở
lợn con và đưa ra các biện pháp phòng trị bệnh, góp phần không nhỏ trong việc
hạn chế những thiệt hại do tiêu chảy gây ra ở lợn con theo mẹ. Tuy nhiên sự
phức tạp của cơ chế gây bệnh, những tác động phối hợp của các nguyên nhân,
đặc điểm cơ thể gia súc non… đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc ứng dụng các
kết quả nghiên cứu. Vì thế các giải pháp đưa ra chưa thực sự đem lại kết quả
10


mong muốn. Hội chứng tiêu chảy ở lợn con theo mẹ vẫn là nguyên nhân gây

thiệt hại lớn cho các hộ chăn nuôi lợn.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Điều tra tình
hình mắc bệnh lợn con phân trắng trên đàn lợn tại xã Hồng phong huyện An
Dương thành phố Hải phòng
2.2. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI
- Tìm hiểu về tình hình chăn nuôi, vệ sinh phòng bệnh tại xã Hồng Phong
huyện An dương thành Phố Hải Phòng
- Điều tra tình hình mắc bệnh lợn con phân trắng ở giai đoạn theo mẹ.
- Triệu chứng mắc bệnh
- Ứng dụng một số phác đồ điều trị tiêu chảy ở lợn con theo mẹ.
2.3 TỔNG QUAN TÀI LIỆU :
+ Vài nét về bệnh lợn con phân trắng :
Ở nước ta bệnh xảy ra quanh năm nhưng chủ yếu vào mùa đông xuân, nhất
là sau những trận mưa lớn, những ngày có độ ẩm cao và khi thời tiết thay đổi đột
ngột.
Ở các hộ chăn nuôi tập trung bệnh xảy ra rất nhiều, mặc dù đã thực hiện tốt
các khâu về chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn con, lợn mẹ nhưng
bệnh vẫn xảy ra lúc lẻ tẻ, lúc ồ ạt gây thiệt hại kinh tế.
2.3.1. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh phân trắng lợn con đã và đang được rất nhiều tác giả nghiên cứu và
đưa ra những nhận định về nguyên nhân theo nhiều hướng khác nhau song tập
trung vào 2 hướng:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng bệnh phân trắng lợn con không phải bệnh
nhiễm trùng mà là chứng khó tiêu, hậu quả của các yếu tố ngoại cảnh như
thời tiết khí hậu, chất lượng sữa mẹ, vệ sinh chuồng trại, chăm sóc nuôi dưỡng
lợn con, lợn mẹ kém…gây nên.
- Quan điểm thứ 2 cho là bệnh nhiễm trùng đường tiêu hoá, chủ yếu do vi
khuẩn E.coli gây ra.
Gần đây nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bệnh do nhiều nguyên nhân phối
11



hợp, liên quan đến hàng loạt các yếu tố. Do đó việc phân chia nguyên nhân nào
là chính, nguyên nhân nào là phụ để có biện pháp điều trị hiệu quả.
Yếu tố ngoại cảnh
Trong điều kiện sinh lý bình thường có sự cân bằng giữa sức đề kháng của
cơ thể đối với các yếu tố gây bệnh. Khi sức đề kháng của cơ thể giảm, thì cân
bằng này mất đi, làm cho cơ thể rơi vào trạng thái bệnh lý.
Khi còn nằm trong bụng mẹ, sự cân bằng nhiệt của bào thai do thân nhiệt của
cơ thể mẹ quy định. Sau khi sinh ra cơ thể lợn con chưa thể bù đắp được lượng
nhiệt mất đi do ảnh hưởng của môi trường bên ngoài. Lúc này, các yếu tố bất lợi
làm giảm sức đề kháng của cơ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh phát sinh và
tiến triển. Trong những yếu tố về khí hậu thì yếu tố về nhiệt độ ẩm là quan trọng
nhất. Nhiệt độ 28oC- 30oC, độ ẩm từ 75%- 85% là thích hợp cho lợn con. Vì vậy
vào những tháng giao mùa, tháng mưa nhiều, độ ẩm cao 86%- 90%, nhiệt độ thay
đổi thất thường lợn con sẽ mắc bệnh nhiều, có khi tỷ lệ bệnh phân trắng lợn con
trong đàn 90% - 100%
Do vi khuẩn
Vi khuẩn E.coli
Vai trò của vi khuẩn gây tiêu chảy ở lợn con đã và đang được nhiều nhà
khoa học quan tâm. Nhưng trong đó vi khuẩn E.coli là nguyên nhân quan trọng
nhất trong hội chứng tiêu chảy của lợn con mới sinh và sau cai sữa . E.coli là
một loại trực khuẩn đường ruột sống ở ruột già, chỉ một vài giờ sau khi sinh và
tồn tại đến khi con vật chết. Theo Nguyễn Như Thanh (2001), thì bệnh lợn con
phân trắng là một hội chứng hay nói cách khác là một trạng thái lâm sàng đa
dạng, đặc biệt là viêm dạ dày ruột, tiêu chảy và gầy sút nhanh.
Salmonella có mặt trong thức ăn, nước uống, môi trường thiên nhiên và
trong cơ thể động vật, có khả năng gây bệnh khi gặp điều kiện thuận lợi.
Salmonella cũng đóng vai trò rất quan trọng trong nguyên nhân gây hội
chứng tiêu chảy ở lợn con vì vi khuẩn này là nguyên nhân gây bệnh phó thương

hàn ở lợn bao gồm Salmonelle cholera suis (chủng kunzendorf) và Salmonella
typhysuis (chủng Voldagsen) (Nguyễn Như Thanh, 2001).
12


13


Vi khuẩn Clostridium perfrigens
Một trong những nguyên nhân quan trọng khác đóng vai trò kế phát gây
bệnh là vi khuẩn yếm khí Cl.perfrigens hình thành độc tố gây dung huyết, gây
hoại tử tổ chức phần mềm và gây chết. Vi khuẩn có khả năng gây ra các chứng
nhiễm độc, viêm ruột xuất huyết trầm trọng ở lợn con.
Do virus
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu đến vai trò của virus. Một
đại diện của virus được chú ý nhiều trong hội chứng tiêu chảy của lợn đó là
Transmissble gastroenteritis virus (TGE). TGE (viêm dạ dày ruột truyền nhiễm),
là một bệnh có tính truyền nhiễm cao, biểu hiện đặc trưng là nôn mửa và tiêu
chảy nghiêm trọng, bệnh thường xảy ra ở các hộ chăn nuôikhi thời tiết rét lạnh.
Virus TGE xâm nhập chủ yếu qua đường tiêu hoá. Virus này gây bệnh cho lợn
ở các lứa tuổi khác nhau, ở lợn virus nhân lên mạnh nhất ở trong niêm mạc của
không tràng rồi đến hồi tràng, chúng không sinh sản trong dạ dày và kết tràng.
Một số virus như Cornavirus, paravirus, rotavirus và adenovirus đều có
tính hướng đến các tế bào ruột. Các tế bào niêm mạc ruột bị phá huỷ do lông
nhung bị teo dẫn đến sự tiêu hoá và hấp thu kém. Những chất không tiêu hoá
được trong ruột non sẽ kéo theo chất lỏng vào xoang ruột non. Khi được vận
chuyển vào ruột già, một số được tiêu hoá hoặc không tiêu hoá đều có thể tham
gia vào quá trình gây tiêu chảy.
Do ký sinh trùng
Các bệnh ký sinh trùng ở đường tiêu hoá cũng là nguyên nhân dẫn đến tiêu

chảy ở lợn con cũng như ở một số gia súc khác. Nguyên nhân này xảy ra chủ
yếu ở lợn lứa tuổi sau cai sữa, còn lợn con theo mẹ ít gặp hơn vì đa số tỷ lệ
nhiễm ký sinh trùng tăng theo độ tuổi của lợn.
Tác hại của ký sinh trùng là do chúng ký sinh, phát triển trong đường tiêu
hoá, cướp chất dinh dưỡng của cơ thể, tiết độc tố, quá trình bám dính và di hành
chúng làm tổn thương niêm mạc ruột, giảm sức đề kháng của cơ thể lợn.
Tất cả các yếu tố trên tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn xâm nhiễm, bội
nhiễm và gây bệnh.
14


Do độc tố nấm mốc
Độc tố nấm mốc với hàm lượng cao có thể gây chết hàng loạt gia súc, với
biểu hiện là nhiễm độc đường tiêu hoá, gây tiêu chảy dữ dội. Ngoài ra việc gây tiêu
chảy cho gia súc, độc tố nấm mốc còn gây độc trực tiếp cho người dùng thực phẩm
bị nhiễm nấm mốc hoặc gián tiếp từ những độc tố tồn dư trong thực phẩm.
Do điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng
Tình trạng sức khoẻ và chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng lợn mẹ ảnh hươmgr
đến dinh dưỡng bào thai và tích luỹ chất dinh dưỡng để tạo ra sữa trong giai
đoạn cuối. Việc nuôi dưỡng lợn nái chửa kỳ cuối rất quan trọng, nó quyết định
trọng lượng sơ sinh của lợn con - một trong những chỉ tiêu để nâng cao năng
suất của đàn nái sinh sản, đồng thời nói lên sức khoẻ của lợn con sơ sinh.
Các chất dinh dưỡng cung cấp cho lợn mẹ, ngoài việc đáp ứng nhu cầu
năng lượng và protein còn cung cấp các vitamin, khoáng, đặc biệt là protein tạo
kháng thể chống lại các vi khuẩn có hại.
Lợn con khi sinh không ngừng sử dụng protein để xây dựng các mô bào
mới trong quá trình phát triển, đồng thời khôi phục và tu bổ lại tế bào cũ. Vì vậy,
nếu khẩu phần ăn của lợn mẹ không đủ protein, thiếu khoáng đa lượng, vi lượng,
dẫn đến thiếu dinh dưỡng, lượng sữa giảm, chất lượng sữa giảm, ảnh hưởng đến
sức khoẻ của lợn con.

Thân nhiệt của lợn mới sinh ra là 38,9 oC– 39,1oC, nhưng sau 30 phút giảm
xuống còn 36,7oC- 37,1oC. Trong vòng 1 giờ sau khi sinh, nếu con vật được bú
sữa đầu thì sau 8- 12 giờ thân nhiệt của lợn con sẽ được ổn định trở lại, nếu lợn
con không được bú sữa đầu thì sự mất nhiệt sẽ là nguyên nhân gây bệnh phân
trắng lợn con.
Đặc điểm sinh lý lợn con
Khi mới sinh ra, cơ thể lợn con phát triển để dần hoàn chỉnh về cấu tạo,
chức năng hệ tiêu hóa và hệ miễn dịch. Lợn con trước một tháng tuổi không có
HCl tự do trong dịch vị vì lúc này lượng axit tiết ra và nhanh chóng liên kết với
dịch nhầy. Đây là điều kiện để vi sinh vật phát triển gây bệnh dạ dày - ruột ở lợn
con. Hơn nữa vì thiếu axit HCl nên pepsinogen tiết ra không trở thành pepsin hoạt
15


động được gây rối loạn tiêu hóa sữa, sữa bị kết tủa dưới dạng casein gây rối loạn
tiêu hóa, tiêu chảy màu phân trắng .
Một trong các nguyên nhân quan trọng nhất gây bệnh đường tiêu hóa là do
thiếu sắt. Khi còn là bào thai lượng sắt cần thiết được mẹ cung cấp. Khi ra ngoài
môi trường sống, sữa mẹ chỉ cung cấp được 1/6 lượng sắt mà cơ thể non yêu
cầu. Trong khi cơ thể sơ sinh cần tới 40- 50 mg sắt/ngày, nhưng lợn con chỉ nhận
được 1mg/ngày thông qua sữa mẹ. Vì vậy, cần bổ sung thêm ít nhất là 200250mg/con để lợn con tránh thiếu máu. Trong sữa mẹ không những chỉ thiếu sắt
mà còn thiếu cả Coban, Vitamin B12 tham gia vào quá trình tạo máu, tổng hợp và
hoạt hóa một số enzym. Do đó lợn con dễ sinh bần huyết, cơ thể suy yếu, sức đề
kháng giảm, lợn con dễ mắc bệnh phân trắng.
2.3.2. Cơ chế sinh bệnh
Khi bị bệnh, đầu tiên dạ dày giảm tiết dịch vị, nồng độ HCl giảm, làm giảm
khả năng diệt trùng và khả năng tiêu hóa protein. Khi độ kiềm trong đường tiêu
hóa tăng cao tạo điều kiện cho các vi khuẩn trong đường ruột phát triển mạnh,
làm thối rữa các chất chứa trong đường ruột và sản sinh nhiều chất độc. Những
sản phẩm trên kích thích vào niêm mạc ruột làm tăng nhu động ruột, con vật

sinh ra ỉa chảy. Khi bệnh kéo dài, con vật bị mất nước (do ỉa chảy) gây nên rối
loạn trao đổi chất trong cơ thể như nhiễm độc toan hoặc mất cân bằng các chất
điện giải, làm cho bệnh trở nên trầm trọng, gia súc có thể chết.
2.3.3. Triệu chứng của bệnh
Bệnh thường xảy ra ở lợn con, đặc biệt ở lợn mới sinh đến 21 ngày tuổi, có
con mắc sớm hơn, ngay sau khi sinh ra 1 đến 3 giờ và mắc muộn khi 4 tuần tuổi.
Lợn con mắc bệnh đa số thân nhiệt tăng sau 2 đến 3 ngày thì hạ xuống do
ỉa chảy mất nước nhiều. Trong 1 đến 2 ngày đầu mắc bệnh lợn vẫn bú sau đó
gầy tọp nhanh, lông xù, đuôi rũ, da nhăn nheo, nhợt nhạt, hai chân sau dúm lại
và run rẩy, đuôi và khoeo dính đầy phân.
Tiêu chảy ở mức độ nhẹ lợn không có biểu hiện mất nước nhưng cũng có
thể tiêu chảy nặng. Khối lượng cơ thể bị giảm sút 30- 40% do mất nước. Cơ
bụng hóp lại, lợn gầy, suy kiệt và đi siêu vẹo, mắt trũng sâu, da tái xám và nhợt
16


nhạt. Trong trường hợp mãn tính, da quanh vùng hậu môn có thể đỏ lên do tiếp
xúc với phân kiềm tính, lợn ít bị mất nước và nếu điều trị tích cực thì có thể khỏi
bệnh.
Ngoài việc chẩn đoán dựa vào triệu chứng trên thì bệnh còn được xác định
chủ yếu dựa vào trạng thái biến đổi của phân. Về trạng thái phân có thể
chia làm 3 giai đoạn.
- Giai đoạn đầu kể từ 12- 24 giờ trước khi bị bệnh (thời kỳ nung bệnh), lúc
này thấy lợn đi ỉa khó khăn, phân táo đen và nhỏ như hạt đỗ đen.
- Giai đoạn tiếp theo phân táo bón chuyển sang dạng sền sệt, màu vàng, 2
đến 3 ngày sau phân chuyển sang thành màu trắng như vôi hoặc trắng xám. Phân
ngày một lỏng hơn, trong phân có lẫn những hạt sữa chưa tiêu hoá, lổn nhổn như
vôi hoặc có nhiều bột. Có trường hợp mắc bệnh đến ngày thứ 3 phân đã loãng
như nước, tháo tung toé. Lúc này lợn con mất nước nặng, nếu kiểm tra phân
dưới kính hiển vi sẽ thấy trong phân có những hạt mỡ chưa tiêu hoá, các tế bào

niêm mạc ruột hoặc có thể lẫn một ít hồng cầu.
- Giai đoạn bệnh chuyển sang lành, phân từ màu trắng xám chuyển thành
xám đen. Phân đặc dần thành khuôn như phân lợn khoẻ.
2.3.4. Bệnh tích của bệnh
Xác chết gầy, đuôi và khoeo dính đầy phân, mắt trũng sâu, lông da khô,
mất tính đàn hồi.
Dạ dày chứa đầy sữa đông vón màu vàng trắng chưa tiêu. Ruột non căng
phồng chứa đầy hơi, dịch màu vàng và có xuất huyết điểm ở thành ruột, niêm
mạc ruột bị hoại tử từng đám. Trong ruột già chứa phân màu vàng. Màng treo
ruột xuất huyết, hạch màng treo ruột sưng.
2..3.5. Biện pháp phòng trị bệnh
+ Phòng bệnh bằng vệ sinh, chăm sóc, nuôi dưỡng
Thực hiện tốt khâu vệ sinh (chuồng trại, các thiết bị, dụng cụ ở chuồng nuôi
lợn đẻ) nhằm hạn chế E.coli gây bệnh, đảm bảo độ thông thoáng hợp lý để duy
trì nhiệt độ, độ ẩm thích hợp cho lợn ở từng giai đoạn, ấm về mùa đông, thoáng
mát vào mùa hè, vệ sinh sạch sẽ. Nếu phát hiện lợn con bị tiêu chảy do E.coli thì
17


cần nhanh chóng điều trị bằng thuốc.
Chăm sóc, nuôi dưỡng tốt đàn lợn con và lợn mẹ nhằm nâng cao sức đề
kháng tự nhiên cho lợn con, phải cho lợn con bú sữa đầu càng sớm càng tốt.
Phải đảm bảo các thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần ăn đặc biệt là các
khoáng và vitamin… Nên cho lợn con tập ăn sớm vào ngày tuổi thứ 7- 8.
Lợn con ở giai đoạn bú sữa thường có triệu chứng thiếu máu do thiếu sắt,
đây là một trong những nguyên nhân gây rối loạn tiêu hoá và gây tiêu chảy nên
phải tiêm bổ sung sắt cho lợn vào ngày tuổi thứ 3 và thứ 10.
Phòng bệnh bằng vacxin
Những vacxin sản xuất đại trà sử dụng cho lợn mẹ thường được sản xuất
bằng cách dùng toàn bộ hoặc những tiểu phần tinh chế của vi khuẩn làm kháng

nguyên. Thành phần chủ yếu của vacxin là những yếu tố bám dính. Bằng công
nghệ tái tổ hợp có thể sản xuất một lượng kháng nguyên lông tinh chế cần thiết
cho sản xuất vacxin. Vacxin này thường dùng cho lợn chửa 5 tuần và 2 tuần
trước khi đẻ.
Hiện nay các vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học là hiệu
quả điều trị bệnh. Nhiều nghiên cứu đã kết luận: cần điều trị sớm, kết hợp nhiều
biện pháp tổng hợp nhằm khống chế, khắc phục rối loạn tiêu hoá và hấp thu,
chống loạn khuẩn đường ruột, đồng thời phải kết hợp điều trị nguyên nhân với
điều trị triệu chứng.
Để điều trị có hiệu quả phải đảm bảo toàn diện các hướng sau:
- Chống viêm ở niêm mạc đường tiêu hoá.
- Chống vi khuẩn gây bệnh kế phát.
- Chống loạn khuẩn, khôi phục lại hệ vi sinh vật có lợi trong đường tiêu hoá.
- Bổ sung nước và điện giải.
- Bổ sung sắt và các vitamin.
- Thực hiện tốt vệ sinh, chăm sóc, nuôi dưỡng.

18


Điều trị bằng kháng sinh, hoá dược
Để có hiệu quả điều trị cao, điều quan trọng nhất đố là phải xác định được
vai trò của vi khuẩn gây bệnh và sự mẫn cảm của chúng đối với kháng sinh và
hoá dược sẽ dùng trong điều trị. Trong thực tế, nên sử dụng loại kháng sinh phổ
rộng ngay từ lúc đầu trong khi chờ kết quả của kháng sinh đồ.
Dùng kháng sinh cầm ỉa chảy như: Sulfathiazon 10% tiêm dưới da,
Streptomycin uống, Kanamycin tiêm bắp, Neomycin cho uống, Norfloxacin,
Enrofloxacin… (Phạm Ngọc Thạch, 2006).
Điều trị triệu chứng
Lợn con bị tiêu chảy nặng thường dẫn đến tình trạng mất nước và có biểu

hiện rối loạn nghiêm trọng các chất điện giải. Do đó kết hợp với điều trị bằng
thuốc cần phải kịp thời chống mất nước và chất điện giải cho lợn con, đồng thời
nên trợ tim cho lợn con bằng Cafein 20%, bổ sung đường glucose, tăng cường
các vitamin đặc biệt là các vitamin nhóm B

19


Phần III: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG
Lợn con theo mẹ từ 1 đến 21 ngày tuổi mắc bệnh phân trắng tại xã Hồng
Phong huyện An Dương Thành phố Hải Phòng
3.2. NỘI DUNG
- Điều tra, xác định tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con tại xã qua các năm
2011, 2012, 2013 và 3 tháng cuối năm 2014
- Xác định tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con theo độ tuổi.
- Thí nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh phân trắng lợn con.
3.3. VẬT LIỆU:
- Lợn con theo mẹ từ 1 đến 21 ngày tuổi.
- Các thuốc sử dụng để điều trị bệnh phân trắng lợn con: Enrovet,
Pharsulin, Lactopac – C, Vitamin C Antistres.
* Enrovet là sản phẩm của công ty Cipla sản xuất, do công ty TNHH thú
y Xanh Việt Nam phân phối.
Thành phần: Enrofloxacin 50mg
Benzyl Alcohol 1,5%
Tá dược vừa đủ
Công dụng:
Enrovet là loại thuốc đặc trị tiêu chảy cho gia súc, gia cầm như E.coli.
Sallmonella spp, lỵ heo, các bệnh nhiễm khuẩn đường tiêu hoá. Enrovet 5% có
hoạt chất chính là Enrofloxacin thuộc nhón Fluoroquinoloes là nhóm có tác dụng

tốt với vi khuẩn gram dương, gram âm, Mycoplasma và các loại vi khuẩn khác.
Enrovet ức chế quá trình sinh tổng hợp DNA của vi khuẩn, tiêu diệt vi
khuẩn nhanh chóng trước khi chúng kịp kháng thuốc.
Thuốc phòng trị các bệnh như tiêu chảy, nhiễm trùng huyết do E.coli, các
bệnh do Mycoplasma gây ra, các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, bệnh tụ
huyết trùng, bệnh phó thương hàn, các bệnh nhiễm khuẩn đường tiêu hoá, bệnh
nhiễm khuẩn đường tiết niệu sinh dục, bệnh nhiễm trùng kế phát do virus.
Liều lượng: 1ml/20kg thể trọng (TT) tiêm bắp ngày 1 lần, trong 3- 5 ngày.
20


* Pharsulin: (Phamavet sản xuất và phân phối)
Thành phần: 100ml có 10g Tiamulin.
Parsulin là một loại thuốc đặc trị hồng lỵ, tiêu chảy, chướng bụng, phân
vàng, hen suyễn, viêm phổi, viêm khớp, viêm bao khớp, leptospirosis ở lợn.
Cách dùng: Tiêm bắp ngày 1 lần, tiêm 3 ngày liên tục
+ Bệnh hồng lỵ: 1ml/10kg khối lượng cơ thể, lặp lại sau 24 giờ nếu cần.
+ Bệnh khác: 1,5ml/10kg khối lượng cơ thể.
* Men tiêu hoá Lactobac- C
Lactopac- C do công ty Bayer sản xuất.
Thành phần: Dạng bột trong 100g có:
Lactobacillus

8 x 109 CFU

Enterococcus

8 x 109 CFU

Amylase


900 units

Protease

5500 units

Vit C

2,0 gam

Lactose

48 gam

Sodium

1,5 gam

Potassium

1,3 gam

Phụ liệu bổ sung vừa đủ 100 gam
Công dụng:
Tạo môi trường tối ưu giúp cho sự sinh trưởng và hoạt động của vi khuẩn
có lợi trong đường ruột.
Gia tăng sản xuất axit lactic, ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh.
Duy trì tỷ lệ thích hợp giữa Natri và Kali, thay thế lượng muối bị mất (đặc
biệt khi bị tiêu chảy) và duy trì cân bằng hấp thu muối.

Tăng khă năng tiêu hoá tinh bột và protein.
Kích thích sinh trưởng ở gia súc, gia cầm.
Liều lượng và cách sử dụng: Trộn thức ăn hoặc hoà nước uống
Trộn 500 - 700g/100kg thức ăn hoặc pha 1g với 1 - 2 lít nước uống (1g/3 5kg TT), dùng 1 ngày/tuần trong suốt quá trình nuôi hay 2 - 3 ngày/tuần khi gia
21


súc, gia cầm bị stress: 3 - 5 ngày khi gia súc bị tiêu chảy hoặc sau khi điều trị
bằng kháng sinh.
* Điện giải: Vitamin C Antistress
Thành phần: Dạng bột, 100g chứa:
Vitamin C

13g

Citric acid

25g

Phụ liệu bổ sung

100g

Công dụng:
Chống stress cho lợn khi nhiệt độ cao, lúc chuyển chuồng, cai sữa, bị đuổi bắt,
mật độ nuôi cao, dịch bệnh, chủng ngừa hoặc khi cắt mỏ, thay lông ở gia cầm.
Giúp lợn tăng sức đề kháng, tăng trọng nhanh và tăng trọng tốt.
Liều lượng và cách sử dụng: hoà nước uống. Dùng 1g sản phẩm A- T111
vitamin C antitress hoà tan trong 2 đến 4 lít nước cho gia súc, gia cầm uống
(1g/10kg TT).

Thí nghiệm được tiến hành theo nguyên tắc các đàn lợn con đồng đều về
tuổi và điều kiện chăn sóc nuôi dưỡng. Lợn con bị tiêu chảy được đánh dấu từng
con để theo dõi và điều trị. Hằng ngày theo dõi lợn vào buổi sáng sớm và buổi
chiều trước và sau khi dùng thuốc. Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm nhiệt độ, ăn
uống, thể trạng con vật, tình trạng phân, thời gian khỏi bệnh của từng con và các
bệnh khác.
Nguyên tắc điều trị: Dùng thuốc đúng liều, đúng liệu trình, dùng liên tục
trong 3- 5 ngày. Thường xuyên theo dõi diễn biến của bệnh và đồng thời ghi
chép kết quả điều trị trên các lô lợn, các chỉ tiêu theo dõi là:
+ Số con mắc bệnh và tỷ lệ mắc bệnh.
+ Số con khỏi bệnh trong ngày, số ngày điều trị, số con chết, số con mắc lại
sau một đợt điều trị.
Đánh giá kết quả: Sau thời gian điều trị nếu lợn hết tiêu chảy, phân thành
khuôn, ăn uống trở lại bình thường, các dấu hiệu mất nước không còn, thân nhiệt
ổn định… được coi là khỏi bệnh.
22


Tuân thủ các nguyên tắc sử dụng kháng sinh kết hợp các biện pháp chăm
sóc nuôi dưỡng tốt.
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Điều tra hồi cứu (dựa vào số liệu của cơ sở).
- Xác định tình hình mắc bệnh phân trắng lợn con dựa theo phương pháp
mô tả.
- Xác định tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con theo độ tuổi.
Xác định nội dung này, chúng tôi tiến hành theo dõi số con mắc bệnh qua
1, 2 và 3 tuần tuổi. Những con lợn mắc bệnh được chẩn đoán dựa vào triệu
chứng lâm sàng, mổ khám gia súc chết và quan sát bệnh tích.
-Thí nghiệm một số phác đồ điều trị:
Phác đồ 1: Enrovet: 1ml/20kg TT. Ngày tiêm 1 lần

Lactopac- C
Vitamin C Antistress
Phác đồ 2: Pharsulin: 1ml/10mg TT. Ngày tiêm 1 lần
Lactobac- C
Vitamin C Antistress
Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
Thuốc sử dụng
Enrovet

Lô thí nghiệm 1
x

Pharsulin

23

Lô thí nghiệm 2

X

Lactobac- C

x

X

Vitamin C Antistress

x


X


- Phương pháp xác định các chỉ tiêu:
Các chỉ tiêu theo dõi: tỷ lệ lợn con mắc bệnh, tỷ lệ chết, tỷ lệ khỏi bệnh, tỷ
lệ tái phát và thời gian trung bình được tính theo công thức:
Tỷ lệ mắc bệnh (%) =

Tỷ lệ chết (%) =

Tỷ lệ khỏi (%) =

Tổng số con mắc bệnh
Tổng số con theo dõi

Tổng số con chết
Tổng số con mắc bệnh

Tổng số con khỏi
Tổng số con điều trị

Thời gian điều trị khỏi trung bình:

x 100

x 100

x 100

X


=

∑ xini
N

Trong đó: xi: Số ngày điều trị
ni: Số con điều trị khỏi
n: Tổng số con điều trị khỏi
3.5 ..KẾT QUẢ ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH MẮC BỆNH LỢN CON
PHÂN TRẮNG TỪ 2011– 2013 VÀ 3 THÁNG CUỐI NĂM 2014
Trong chăn nuôi lợn thì bệnh phân trắng lợn con đã và đang gây thiệt hại
không nhỏ cho người chăn nuôi. Đây là vấn đề luôn được các nhà khoa học quan
tâm từ trước tới nay. Với đề tài này, trong thời gian thực tập tạ xã Hồng Phong
huyện An Dương tôi tiến hành theo dõi bệnh phân trắng lợn con. Kết quả điều
tra tình hình bệnh phân trắng lợn con từ năm 2011đến 2013được trình bày qua
bảng 1.4.

24


Bảng 1.4: Kết quả điều tra tình hình bệnh lợn con phân trắng qua các
năm 2011, 2012, 2013 và 3 tháng cuối năm 2014

Năm

Số lợn

Số lợn con


Số lợn con

con

mắc bệnh
Số con
Tỷ lệ

chết

để nuôi

Số con

Tỷ lệ

2011
2012

(con)
5370
3752

(con)
735
520

(%)
13,6
13,8


(con)
82
55

(%)
1,5
1,4

2013

3360

461

13,7

45

1,3

15/7- 15/10/14

840

105

12,5

11


1,3

Qua bảng trên ta thấy tỷ lệ mắc bệnh lợn con phân trắng có xu hướng giảm
dần. Năm 2011, 2012, 2013, 3 tháng cuối năm 2014 tương ứng là: 13,6, 13,8,
13,7, 12,5%. Tỷ lệ chết do mắc bệnh phân trắng từ năm 2011 đến 2013 và 3
tháng cuối năm cũng giảm dần. Tỷ lệ lợn con mắc bệnh ít là do điều kiện vệ
sinh chăm sóc tốt chuồng trại sạch sẽ ấm áp về mùa đông, mát mẻ về mùa hè,
tiêm phòng văc xin đầy đủ. Tỷ lệ chết qua các năm giảm là do người chăn nuôi
để ý hơn phát hiện bệnh kịp thời điều trị hiệu quả và nhanh khỏi. Đặc biệt tỷ lệ
mắc 3 tháng cuối năm thấp là do thời tiết ấm áp, chăm sóc nuôi dưỡng tốt vì vậy
mà tỉ lệ mắc và tỉ lệ chết thấp.
3.6. KẾT QUẢ THEO DÕI TỶ LỆ MẮC BỆNH LỢN CON PHÂN
TRẮNG THEO ĐỘ TUỔI
Tỷ lệ lợn con theo mẹ mắc bệnh phân trắng không chỉ phụ thuộc vào các
yếu tố vi khuẩn, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, thời tiết mà còn phụ thuộc vào độ
tuổi của lợn. Trong thời gian thực tập tại xã Hồng Phong huyện An Dương tôi
tiến hành 3 đợt thí nghiệm với mỗi đợt là 10 đàn lợn. Tương ứng với số lợn con
ở mỗi đợt 1, 2 và 3 là 112 con, 105 con và 109 con. Ở mỗi đợt thí nghiệm có
cùng chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, theo dõi số lợn con mắc bệnh phân trắng ở 1,
2 và 3 tuần tuổi. Kết quả theo dõi tỷ lệ lợn con phân trắng được trình bày ở bảng
1.5.
25


×