Năm 1966
truyện ngắn
Chiếc lược ngà
(Nguyễn Quang Sáng).
*Tìm hiểu chung:
1, Tác giả:
-
-
-
Nguyễn Quang Sáng (1932 – 2014), quê ở An Giang.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội và hoạt động ở chiến
trường Nam Bộ. Từ sau năm 1954, ông tập kết ra Bắc, bắt đầu viết văn.
Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp
tục sáng tác văn học.
Nguyễn Quang Sáng hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ
và ông viết rất nhiều thể loại trong đó nổi bật nhất là truyện ngắn và kịch
bản phim.
Năm 2000, ông được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật.
2, Tác phẩm:
a)
-
b)
Hoàn cảnh sáng tác:
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được sáng tác năm 1966 khi đó, cuộc kháng
chiến chống Mĩ bắt đầu bước vào giai đoạn ác liệt nhất và được in trong
tập truyện ngắn cùng tên của ông.
Tóm tắt:
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp
về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cha
em không giống với người trong bức ảnh chụp mà em đã biết. Em đối xử với ba
như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong
em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm
yêu quý, nhớ thương con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng cho
co con gái bé bỏng. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược cho người
bạn.
c)
Giá trị:
Truyện ngắn thể hiện cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh
ngộ éo le của chiến tranh. Nhà văn thành công trong việc sáng tạo nên những
tình huống bất ngờ; thành công trong việc lựa chọn ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn
đặt ở nhân vật bác Ba – bạn ông Sáu; thành công trong việc miêu tả tâm lí, tính
cách nhân vật, đặc biệt là nhân vật bé Thu.
d)
-
-
e)
Tình huống: Truyện có hai tình huống đặc sắc nối tiếp nhau:
Tình huống thứ nhất: Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng
thật trớ trêu, bé Thu không nhận ra cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ
tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản
của truyện bộc lộ tình cảm mãnh liệt của con với cha.
Tình huống thứ hai: Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và
mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con nhưng ông đã hi
sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này biểu lộ tình
cảm sâu sắc của cha với con.
Ý nghĩa nhan đề:
Chiếc lược ngà là một chi tiết nghệ thuật rất quan trọng trong tác phẩm, biểu
tượng cho tình cha con sâu nặng và bất tử trong hoàn cảnh éo le, khốc liệt của
chiến tranh. Với bé Thu, chiếc lược ngà là kỉ vật duy nhất và thiêng liêng mà
người cha để lại còn với ông Sáu, chiếc lược ngà là món quà mà ông đã dồn vào
đó tất cả nỗi nhớ, niềm thương và tình yêu ông dành cho con. Chiếc lược ngà là
cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa người đã khuất với người đang sống.
Nhan đề làm nổi bật chủ đề tác phẩm.
f)
Tác dụng ngôi kể và điểm nhìn trần thuật:
Truyện sử dụng ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn trần thuật đặt ở nhân vật ông Ba –
người đồng đội, người bạn thân thiết của ông Sáu. Việc lựa chọn ngôi kể như
vậy vừa làm cho câu chuyện trở nên khách quan, chân thực, đáng tin cậy vừa
giúp cho người kể hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái, cảm
xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự
tiếp nhận của người đọc, người nghe.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Chiếc lược ngà (1).
*Phân tích:
1, Bé Thu – cô bé cá tính và tình yêu cha mãnh liệt.
(Hoàn cảnh bé Thu):
-
Vì hoàn cảnh kháng chiến, ông Sáu – ba em xa nhà biền biệt kể từ lúc em
chưa đầy một tuổi. Tám năm sau, ông mới được nghỉ phép ba ngày về
thăm vợ con.
a)
Sự ương ngạnh của bé Thu trước khi nhận ra ông Sáu là cha:
-
-
-
b)
Trong giây phút đầu gặp con ở bến xuồng, đáp lại sự nôn nóng, vồ vập của
ông Sáu, bé Thu vô cùng ngạc nhiên “tròn mắt nhìn ngơ ngác, lạ lùng” và
hoảng sợ “Mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má!Má!”.
Suốt ba ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu luôn tỏ thái độ ngờ vực, lạnh nhạt, xa
lánh, từ chối mọi sự quan tâm, chăm sóc của ông và đối xử với ông như
người xa lạ và không gọi ông Sáu là ba.
Lúc mẹ bắt gọi ba vào ăn cơm thì Thu gọi trống không và kêu ông Sáu là
“người ta” như không hề quen biết mặc cho mẹ trách phạt.
Kể cả lúc nguy cấp phải chắt nước ở nồi cơm ta đang sôi, cô bé cũng vô
cùng bướng bỉnh, kiên quyết không cất lên tiếng “ba” để được giúp đỡ.
Thậm chí trong bữa cơm, em cự tuyệt, từ chối sự chăm sóc của ông Sáu
một cách phũ phàng khi hất tung miếng trứng cá mà ông gắp cho. Bị ông
đánh một cái, Thu bỏ về nhà bà ngoại.
Tất cả thái độ và hành động trên là do bé Thu chỉ biết mặt cha qua tấm
ảnh chụp chung với má, người cha ấy không có vết thẹo trên mặt như
ông Sáu bây giờ. Do em còn quá nhỏ, chưa hiểu được những tình thế
khắc nghiệt, éo le có thể xảy ra trong cuộc sống. Và cũng là do những
người lớn chưa chuẩn bị cho em tâm lí đón nhận những khả năng bất
thường khi ông Sáu trở về. Vì vậy, phản ứng tâm lí của em là hoàn
toàn tự nhiên, nó chứng tỏ em là cô bé có cá tính và rất yêu cha mình.
Tình yêu cha mãnh liệt của bé Thu khi nhận ra ông Sáu là cha.
-
Sau khi nghe bà ngoại giải thích, Thu đã hiểu ra mọi chuyện “Nó nằm im,
lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Có lẽ lúc này em vô
cùng thương cha, vô cùng ân hận và hối tiếc về cách đối xử của mình
trước kia. Hôm sau, em cùng bà ngoại về nhà và đó cũng chính là buổi
sáng cuối cùng trước phút ông Sáu phải lên đường. Cô bé đã thay đổi
hoàn toàn thái độ trong sự ngỡ ngàng của mọi người “Nó không còn
bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại và buồn rầu”.
Khi bắt gặp ánh mắt trìu mến lẫn buồn rầu của ông Sáu, đôi mắt em bỗng
xôn xao bởi trong em thức dậy bao cảm xúc: khao khát, yêu thương, thấu
hiểu, hối hận... Lúc ông Sáu cất lời từ biệt, tình cha con trỗi dậy mãnh liệt
trong em, Thu bỗng kêu thét lên: “Ba...a...ba!”. Tiếng gọi chất chứa bao
yêu thương mà em đã kìm nén suốt tám năm nay bật thốt ra xé tan sự im
lặng và xé cả ruột gan mọi người nghe thật xúc động, xót xa. Em cuống
quýt chạy xô tới ôm chặt lấy ba mình, em hôn ba cùng khắp, hôn cả vết
thẹo như muốn xoa dịu nỗi đau mà chiến tranh đã gây ra cho ba cũng như
thể hiện nỗi ân hận của mình. Hành động cuống quýt hai chân câu chặt lấy
ba với sức yếu ớt cho thấy em muốn níu giữ ba ở lại, không muốn lại xa
ba lần nữa. Ước muốn ba về mua cho em một cây lược ẩn chứa một ý
nghĩa sâu xa để em như được thấy ba luôn bên mình.
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Chiếc lược ngà (2).
2, Nhân vật ông Sáu – người cha có tình yêu con sâu nặng.
-
Sau tám năm xa cách, ông Sáu – người chiến sĩ, cán bộ cách mạng trở về
thăm gia đình trong nỗi nhớ con da diết.
Giây phút đầu gặp con, ông sung sướng, hạnh phúc biết nhường nào
nhưng trước phản ứng sợ hãi, bỏ chạy của bé Thu, ông vô cùng hụt hẫng
và đau đớn: “Nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương
và hai tay buông xuống như bị gãy.”
-
-
-
-
-
-
Suốt ba ngày nghỉ phép ngắn ngủi, ông Sáu chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng
vỗ về con nhưng bé Thu luôn tỏ ra lạnh lùng, xa cá “ba”. Trước sự ương
ngạnh của con, ông đau khổ và bất lực chỉ biết khe khẽ lắc đầu và gượng
cười. Trong bữa cơm, vì quá đau xót và bất lực trước hành động của con,
ông đã đánh con một cái.
Ngày chia tay, niềm vui sướng và hạnh phúc đã vỡ òa trong ông khi bé
Thu gọi ông là ba – tiếng gọi giản dị nhưng vô cùng thiêng liêng mà ông
khao khát bấy lâu nay trở thành hiện thực.
Ở chiến khu, ông Sáu nhớ con da diết và luôn day dứt, ân hận vì đã trót
đánh con. Ông không quên lời hứa tặng con chiếc lược bởi ông hiểu con
muốn có kỉ vật của ba. Vì thế, ông quyết định tự tay làm lược bằng ngà
voi. Những lúc rảnh rỗi, ông dành hết tâm trí, công sức cưa từng chiếc
răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc, ông gò lưng tẩn
mẩn khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
Cây lược làm xong, dù chưa chải được mái tóc của con nhưng nó như gỡ
rối phần nào tâm trạng của ông bởi như thế ông đã thực hiện được lời
dặn của con. Điều đó làm dịu đi nỗi ân hận về việc mình đã đánh con
trước kia.
Cây lược ngà chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương của
ông dành cho con và nuôi dưỡng khát vọng được trở về gặp con của ông
Sáu.
Cây lược đơn sơ trở thành biểu tượng của tình cha sâu nặng dành cho
con.
Trong một trận càn, sự tàn khốc của chiến tranh đã cướp đi tính mạng của
ông nhưng tình cha con trong ông không thể chết được bởi vì ngay cả lúc
không còn đủ sức trăng trối điều gì, ông Sáu dồn hết sức lực còn lại của
mình vào việc móc cây lược trong túi ra trao cha bác Ba và nhìn bác hồi
lâu. Ánh nhìn của ông lúc này còn thiêng liêng hơn cả bản di chúc bằng lời
bởi nó là một cử chỉ chuyển giao sự sống. Ông Sáu hi vọng, tin tưởng bác
Ba sẽ thay ông làm tròn trách nhiệm của người cha là trao tận tay chiếc
lược cho bé Thu. Ánh mắt ấy còn thể hiện ước nguyện giữ gìn muôn đời
tình cảm cha con ruột thịt.
Chiếc lược ngà trở thành biểu tượng của tình cha con bất diệt ngay cả
trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.