GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
MỤC LỤC
I. LỜI MỞ ĐẦU ...........................................................................................2
II. VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU HÀNG
DỆT MAY CỦA VIỆT NAM.......................................................................2
2.1. Vai trò của ngành dệt may trong nền kinh tế. .........................................................2
2.2 Vị trí của ngành dệt may Việt Nam trong phát triển kinh tế......................................3
2.3. Chính sách xuất khẩu hàng dệt may của nước ta......................................................4
2.4. Tổng quan xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2012..................................6
2.5. Tình hình Xuất khẩu dệt may từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2013..........................14
2.6. Những điều cần biết khi xuất khẩu dệt may sang một số thị trường......................15
2.7. Mở rộng thị trường các mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam......................22
III. CÁC LOẠI CHỨNG TỪ CẦN THIẾT KHI XUẤT KHẨU HÀNG
HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN:.....................................................................28
3.1. Chứng từ hải quan...................................................................................................28
3.2. Chứng từ với cảng và tàu........................................................................................30
3.3. Chứng từ khác ........................................................................................................32
5.1. Giải pháp trong khâu chuẩn bị giao dịch đàm phán................................................66
5.2. Giải pháp trong khâu chuẩn bị hàng xuất...............................................................66
5.3. Kiểm tra hàng hóa...................................................................................................66
5.4. Giải pháp trong khâu thuê tàu ................................................................................67
5.5. Làm thủ tục hải quan...............................................................................................67
5.6. Giao hàng xuất khẩu...............................................................................................68
5.7. Giải pháp trong khâu thanh toán.............................................................................68
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................70
Trang 1
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
I. LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi chuyển đổi thành công từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị
trường mở cửa, đất nước ta đã và đang gặt hái được nhiều thành tựu. Trong đó
không thể không kể đến sự đóng góp lớn lao của ngành dệt may, một ngành mũi
nhọn trong quá trình tăng trưởng kinh tế về hướng xuất khẩu của nước ta.
Ngành dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ có vị trí quan trọng trong cơ cấu sản
xuất của nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành công nghiệp nhẹ nói riêng.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, ngành đã tạo nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho
ngân sách Nhà nước. Ngoài ra ngành dệt may còn đảm bảo hàng hoá tiêu dùng
trong nước, thu hút nhiều lao động đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu không lớn, ít rủi ro,
phát huy hiệu quả nhanh, tạo điều kiện cho hoạt động mở rộng thương mại quốc tế
nên phù hợp với bước đi ban đầu của các nước đang phát triển như nước ta hiện
nay.
II. VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU HÀNG
DỆT MAY CỦA VIỆT NAM.
2.1. Vai trò của ngành dệt may trong nền kinh tế.
Dệt may vốn là một ngành sản xuất thiết yếu đã xuất hiện từ lâu đời, được
hình thành và phát triển đầu tiên ở các nước Châu Âu. Cùng với tiến trình các
cuộc cách mạng khoa học công nghệ, việc áp dụng các thành tựu kỹ thuật khiến
cho ngành dệt may Châu Âu đạt tới những bước nhảy vọt cả về chất và số lượng,
đem lại thu nhập cao cho người dân và cho nhiều quốc gia. Tuy nhiên, chi phí để
trả lương cho các công nhân cao dần đã thúc đẩy ngành dệt may chuyển dịch từ
các nước phát triển sang các nước đang phát triển là những nước có nguồn lao
động dồi dào với mức giá thuê nhân công rẻ. Và đây là một lợi thế lớn cho các
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Trang 2
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Việt Nam là một nước đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, thu nhập quốc
dân tính theo đầu người thấp, để thúc đẩy nền kinh tế như vậy phát triển, nước ta
cần thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn
đầu của cuộc cải cách, nước ta đã lâý công nghiệp hoá làm mục tiêu. Và chúng ta
đã thành công nhờ vào việc phát triển mạnh các ngành có khả năng tận dụng
những lợi thế có sẵn như nguồn nhân lực dồi dào với giá thuê rẻ, ngành dệt may là
một ngành như vậy. Ngành dệt may đã góp phần tích cực giải quyết công ăn việc
làm cho hàng triệu người lao động, có vai trò quan trọng trong việc giảm tỷ lệ thất
nghiệp trong xã hội. Như vậy đồng nghĩa với việc tạo thu nhập và ổn định đời
sống người lao động. Ngoài ra hàng năm còn đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho
quốc gia, bổ sung ngân sách Nhà nước, giúp Nhà nước bù đắp được phần nào bội
chi ngân sách.
2.2 Vị trí của ngành dệt may Việt Nam trong phát triển kinh tế
Ngành dệt may có vị trí quan trọng trong phát triển công nghiệp, kinh tế xã hội của đất nước, được coi là một trong những hoạt động có hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tính đến cuối năm 2011, toàn ngành dệt may có
khoảng 3700 doanh nghiệp (DN), thu hút trên 2 triệu lao động, chiếm 5% lực
lượng lao động cả nước. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu dệt may ước đạt gần 16
tỷ USD, là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất Việt Nam, chiếm 16% tổng
kim ngạch xuất khẩu cả nước và nằm trong Top 10 các nước xuất khẩu hàng dệt
may lớn nhất thế giới.
Từ khi gia nhập WTO, bên cạnh những thuận lợi về việc mở rộng thị
trường xuất khẩu, ngành dệt may phải đối mặt với nhiều thách thức do bị cạnh
tranh mạnh từ các nước sản xuất dệt may khổng lồ như: Trung Quốc, Ấn Độ,
Pakistan,… Hiện nay, khủng hoảng kinh tế thế giới cộng hưởng với các khó khăn
kinh tế trong nước đã đặt các DN dệt may Việt Nam đứng trước những khó khăn
rất lớn để duy trì và phát triển. Thứ nhất, chi phí cho nguyên, phụ liệu, vận
chuyển, lương tối thiểu tăng cao dẫn đến giá thành sản phẩm tăng lên; Thứ hai,
Trang 3
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
bản thân các thị trường nhập khẩu hàng dệt may cũng đang bị ảnh hưởng trực tiếp
từ khủng hoảng kinh tế dẫn đến thu hẹp nhập khẩu; Thứ ba, các quy định ngặt
nghèo và riêng biệt của từng quốc gia nhập khẩu cũng là một rào cản rất lớn cho
DN Việt Nam khi xuất khẩu;...
Theo báo cáo điều tra của mạng nanbo cho thấy, sau khi gia nhập WTO,
kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam trong 5 năm đã tăng lên đáng kể. Cụ thể,
kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này đạt 5,9 tỷ USD trong năm 2006, đến năm
2011 đã tăng lên 15,8 tỷ USD.Thực tế cho thấy, sau khi gia nhập WTO và ký kết
các FTA, cùng với các ngành kinh tế khác đã mở ra cơ hội rất lớn cho dệt may
Việt Nam. Đông thời, dệt may Việt Nam cũng có điều kiện hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới, đẩy mạnh xuất khẩu do các rào cản thương mại như hạn ngạch dệt
may vào Mỹ và các nước đã được dỡ bỏ, bình đẳng về thuế quan giữa các nước
thành viên, cơ hội tiếp cận công nghệ, thông tin, các dịch vụ, cũng như kinh
nghiệm quản lí được tốt hơn.
Theo các chuyên gia kinh tế, việc tham gia vào sân chơi WTO đã tạo ra
những tác động tích cực cho dệt may Việt Nam và rõ nét nhất là tăng tưởng xuất
khẩu và tăng thị phần xuất khẩu, đưa Việt Nam trở thành 1 trong 10 quốc gia có
kim ngạch xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới. Xét về thị phần, tính đến nay
hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt tại 180 quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới. Trong đó thị truờng nhập khẩu Hoa Kỳ đứng đầu với kim ngạch
khoảng 6,872 tỷ USD trong năm 2011, tăng trưởng hơn 12% so với năm 2010,
tiếp theo là EU đạt 2,5 tỷ USD, tăng 33%, đứng thứ 3 là thị trường Nhật Bản đạt
1,68 tỷ USD, tăng 45%.
2.3. Chính sách xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.
a. Thủ tục hải quan – xuất khẩu
Hàng xuất khẩu phải làm thủ tục hải quan khi xuất khẩu theo quy định
chính thức về xuất khẩu hàng hoá và khi thep yêu cầu của nước nhập khẩu. Việc
làm thủ tục xuất khẩu cho hàng hoá liên quan đến các biện pháp quản lý như:
Trang 4
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
- Hạn chế số lượng (giấy phép xuất khẩu) nước ta vẫn chưa thực hiện mạnh
mẽ chính sách xuất khẩu hàng dệt may do đó về số lượng vẫn còn bị hạn chế.
- Hạn chế ngoại tệ (giám sát ngoại hối).
- Hạn chế tài chính (kiểm tra hải quan, thuế quan).
- Nhu cầu thống kê thương mại (báo cáo thống kê).
- Kiểm tra số lượng, chất lượng, kiểm tra vệ sinh, y tế, hàng nguy
hiểm,hàng cấm.
- Kiểm tra áp dụng các biện pháp ưu đãi thuế quan (giấy chứng nhận xuất
xứ).
- Các chứng từ phục vụ cho việc kiểm tra hải quan xuất khẩu hàng hóa bao
gồm:
+ Giấy phép xuất khẩu.
+ Bản khai hàng xuất khẩu.
+ Bản trích sao hợp đồng bán hàng.
+ Giấy chứng nhận xuất xứ (nếu hợp đồng mua bán yêu cầu).
+ Giấy chứng nhận kiểm định (theo hợp đồng mua bán).
+ Các giấy tờ khác theo quy định của hải quan như phiếu đóng gói (packing
list), giấy chứng nhận số lượng, khối lượng, hợp đồng thuê tàu.
Ngoài ra khi làm thủ tục hải quan, thông thường phải kiểm tra tư cách pháp
nhân của người xuất khẩu cũng như kiểm tra các chứng từ có hợp pháp và đúng
quy định không.
Chỉ sau khi được cấp giấy chứng nhận hoàn thành thủ tục hải quan và lệnh
giao hàng thì người xuất khẩu mới được gửi hàng xuất đi.
b. Phân bổ hạn ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Khi ra quyết định phân bổ hạn ngạch và thủ tục cấp thị thực, Bộ thương
mại đã có văn bản hướng dẫn xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Từ đó
hạn ngạch xuất khẩu được phân bổ như sau:
Trang 5
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Trước hết, phân bổ tập trung vào mặt hàng. Doanh nghiệp(DN) có dưới 250
máy may thì chỉ phân bổ theo một mặt hàng. Mặt hàng ở đây cần hiểu là chủng
loại sản phẩm. Tức là, DN nào chuyên may quần thì chỉ được phân bổ hạn ngạch
theo sản phẩm quần, bất kể là quần ngắn hay quần dài. Còn DN chuyên may áo thì
sản phẩm có thể là áo dài tay, ngắn tay, cotton hay bất kỳ chất kiệu nào cũng được
miễn là chỉ may áo. Việc phân bổ dựa theo cấp số nhân: nếu DN có 250-500 máy
sẽ được phân tối đa hai mặt hàng, 500-1000 máy ba mặt hàng, trên 1000 máy có
tối đa bốn mặt hàng.
Thứ hai là phân bổ theo trọng tâm thị trường. Trước đây thị trường chính
của ngành dệt may là EU và các nước không áp dụng hạn ngạch ở Châu Á. Nay
thị trường Mỹ đang tâm điểm của mọi đơn đặt hàng. Những DN có số máy may ít
dưới 250 máy chỉ chọn một thị trường để hoạt động xuât khẩu có hiệu quả.
Thứ ba là số lần phân bổ hạn ngạch trong năm. Nước ta chỉ phân bổ 2 lần
trong một năm. Nguyên nhân là đơn hàng của Mỹ và cả Châu Âu đều theo mùa.
Mùa đông nhà nhập khẩu đặt hàng vào tháng 2, mùa hè vào tháng 7. Phân bổ trong
khoảng tháng giêng và tháng 6 cho hai mùa.
Thứ tư, trong quá trình phân bổ hạn ngạch, nhất thiết sẽ xem xét các yếu tố
liên quan giá trị gia tăng của mặt hàng xuất, nhãn hiệu hàng xuất và các ảnh hưởng
khác có liên quan đến giá trị xuất khẩu. Ưu tiên cho những DN có năng lực cung
ứng hàng cho các nhà phân phối thương hiệu tên tuổi, có giá trị xuất khẩu cao,
những DN nhận hợp đồng theo giá FOB.
2.4. Tổng quan xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2012
Tình hình chung của ngành dệt may năm 2012, hoạt động xuất khẩu của
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã bị ảnh hưởng mạnh bởi tác động của
khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là đối với thị trường châu Âu- thị trường trọng điểm
của ngành dệt may. Lượng đơn đặt hàng của các thành viên trong hiệp hội quý
IV/2012 ước giảm 10% so với cùng kỳ năm 2011.
Trang 6
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Bên cạnh sự giảm sút về kim ngạch xuất khẩu, khủng hoảng khu vực EU
khiến đồng euro biến động và mất giá liên tục, hàng dệt may của Việt Nam xuất đi
EU giao dịch bằng euro nhưng đa số doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu từ
Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan... phải thanh toán bằng USD. Chính sự chênh
lệch từ phương thức thanh toán tỷ giá khiến không ít doanh nghiệp xuất khẩu dệt
may sụt giảm lợi nhuận.
Thị trường Hàn Quốc đang trở thành một thị trường tiềm năng của các
doanh nghiệp dệt may, bởi sức tiêu thụ ở thị trường này là khá lớn. Hiện thị trường
Hàn Quốc đứng thứ 4 trong số các nước nhập khẩu hàng dệt may của Việt nam chỉ
sau Mỹ, Nhật và EU. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này 11 tháng đầu năm
2012 đã tăng 20,9% so với cùng kỳ và đạt 994.159.014 USD.
Tình trạng sụt giảm đơn hàng rơi nhiều vào khối doanh nghiệp vừa và nhỏ
và chủ yếu các doanh nghiệp nhận may gia công. Đơn hàng phần lớn tập trung vào
các doanh nghiệp lớn nhưng số lượng cũng rất “nhỏ giọt”. Đặc biệt, do khó khăn
về kinh tế, người dân châu Âu cắt giảm chi tiêu khiến sức mua giảm, kéo theo số
đơn đặt hàng dệt may giảm theo. Trung bình mỗi tháng, số lượng đơn hàng giảm
10 - 20% so với cùng kì năm 2011. Những khó khăn về thị trường tiêu thụ khiến
nhiều lúc, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải chấp nhận hòa vốn, thậm
chí lỗ để giữ chân lao động, nhất là ở một số doanh nghiệp cần lao động có tay
nghề. Ngưng sản xuất tức là đồng nghĩa với việc doanh nghiệp mất lao động. Bên
cạnh đó, các nước nhập khẩu còn tăng cường áp dụng chính sách rào cản thương
mại, hạn chế nhập khẩu thông qua việc gia tăng những đòi hỏi khắt khe về an toàn
chất lượng, áp dụng hệ thống kiểm soát hóa chất có trong các sản phẩm khi xuất
khẩu. Các doanh nghiệp quy mô nhỏ khó có thể đáp ứng những tiêu chuẩn về trách
nhiệm xã hội mà các nhà nhập khẩu đưa ra.
Theo các doanh nghiệp dệt may tại Hà Nội, đơn hàng sản xuất, xuất khẩu đi
các thị trường lớn như Mỹ, EU hiện nay đều giảm khoảng từ 20 - 25% so với cùng
kỳ năm 2011, doanh nghiệp rơi vào thế bị động trong kế hoạch sản xuất.
Trang 7
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Thống kê Hải quan 14/03/2013 3:00 PM
Là mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu, năm 2012 kim ngạch hàng dệt may của Việt
Nam đạt 15,1 tỷ USD, tăng 7,5 % so với năm 2011, chiếm trên 13% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước và cao hơn so với nhóm hàng xuất khẩu có kim
ngạch lớn thứ 2 (là điện thoại các loại & linh kiện) tới 2,38 tỷ USD.
Bảng 1: Thứ hạng và tỷ trọng một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt
Nam năm 2012
Kim
Tên hàng
Hàng dệt may
Điện thoại các loại & linh kiện
Dầu thô
Máy vi tính sản phẩm điện tử & linh
Thứ hạng ngạch
1
2
3
(Tỷ Tỷ trọng* (%)
USD)
15,09
12,72
8,21
13,2
11,1
7,2
4
6,8
kiện
7,84
Giày dép
5
6,3
7,26
Hàng thủy sản
6
5,3
6,10
Máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng
7
4,8
5,54
Gỗ & sản phẩm gỗ
8
4,1
4,67
Phương tiện vận tải & phụ tùng
9
4,0
4,58
Gạo
10
3,2
3,67
(Ghi chú:* Tỷ trọng là tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước).
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Từ nhiều năm qua, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu theo hình
thức gia công cho nước ngoài (xuất gia công) và xuất hàng sản xuất từ nguyên
liệu nhập khẩu (xuất sản xuất xuất khẩu). Năm 2012, tỷ trọng hai loại hình này
chiếm hơn 96% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước; trong
đó, xuất gia công chiếm 75,3%, xuất sản xuất xuất khẩu chiếm 21,2%.
Trang 8
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Biểu đồ 1: Tỷ trọng xuất khẩu theo các loại hình của hàng dệt may năm 2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Số liệu thống kê hải quan nhiều năm qua cho thấy, mức kim ngạch bình quân
tháng của nhóm hàng dệt may xuất khẩu tăng liên tục qua các năm. Cụ thể, năm
2005 mức kim ngạch bình quân tháng chỉ là 401 triệu USD/tháng, đến năm 2010
con số này đạt hơn 900 triệu USD/tháng và đến thời điểm năm 2012 đạt 1,26 tỷ
USD/tháng.
Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may bình quân tháng năm 2005 –
2012.
Trang 9
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Cũng theo số liệu thống kê hải quan nhiều năm qua cho thấy, chu kỳ xuất
khẩu của hàng dệt may do tính chất mùa vụ nên thường bắt đầu tăng trưởng vào
tháng 5 và đạt mức cao nhất vào tháng 8 hàng năm (năm 2012, tháng 8 xuất khẩu
đạt 1,52 tỷ USD- mức kim ngạch kỷ lục từ trước tới nay).
Biểu đồ 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may theo tháng giai đoạn 20082012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Xuất khẩu hàng dệt may của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(FDI) đạt kim ngạch cao hơn hẳn doanh nghiệp trong nước. Năm 2005 xuất khẩu
hàng dệt may của doanh nghiệp FDI chỉ đạt 2,14 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 44%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước. Kể từ năm 2007, xuất khẩu
Trang 10
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
nhóm hàng này của doanh nghiệp FDI liên tục tăng và chính thức vượt doanh
nghiệp trong nước. Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp FDI đạt
9,02 tỷ USD, tăng 6% so với năm trước và chiếm tỷ trọng 59,8%. Trong khi đó,
con số xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước là 6,1 tỷ USD, thấp hơn 2,9 tỷ USD
so với doanh nghiệp FDI.
Biểu đồ 4 : Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của doanh nghiệp FDI và
doanh nghiệp trong nước giai đoạn 2005-2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Trong năm 2012, Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc là 4 đối tác lớn nhất
nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Tổng kim ngạch hàng dệt may xuất sang 4
thị trường này đạt 12,96 tỷ USD, chiếm tới 86% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may của cả nước.
Biểu đồ 5: Xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường chính năm 2011 và
năm 2012
Trang 11
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Trong đó, Hoa Kỳ luôn là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu hàng dệt may
của Việt Nam với kim ngạch đạt 7,46 tỷ USD, chiếm 49,4% trong tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may của cả nước. Đồng thời trong số các nhóm hàng của Việt
Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ thì hàng dệt may dẫn đầu với tỷ trọng chiếm
37,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ.
Bảng 2: Số liệu xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ năm 2011-2012
Chỉ tiêu
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang
Năm 2011Năm 2012
(A)
Hoa Kỳ (Tỷ USD)
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước
(B)
(Tỷ USD)
Tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt (C)=(A/B)*100
may cả nước (%)
Tổng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ (Tỷ
USD)
Tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước sang Hoa Kỳ (%)
(D)
(E)=(A/D)*100
6,88
7,46
14,04
15,09
49,0
49,4
16,93
19,67
40,7
37,9
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Theo số liệu thống kê mới nhất của Văn phòng Dệt may Mỹ (OTEXA), năm
2012 thị phần hàng dệt may Việt Nam tại Hoa Kỳ chiếm khoảng 7,6%. Trong năm
qua, Hoa Kỳ nhập khẩu hàng dệt may từ tất cả các nước trên thế giới giảm nhẹ
Trang 12
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
(0,4%) nhưng nhập khẩu nhóm hàng này từ Việt Nam vẫn tăng hơn 8% so với
năm trước.
Trong 4 thị trường chính nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam, EU là thị
trường duy nhất có mức suy giảm nhẹ trong năm 2012, đạt 2,5 tỷ USD, giảm 3,8%
so với năm 2011. Ba thị trường Hoa Kỳ (đạt 7,5 tỷ USD), Nhật Bản (đạt 2,0 tỷ
USD) và Hàn Quốc (đạt 1,1 tỷ USD) đều có mức tăng cao hơn mức tăng chung
(7,5%) của nhóm hàng này, lần lượt là 8,7%, 22,2% và 17,6%.
Hàng dệt may của Việt Nam xuất ra thế giới chủ yếu là nhóm hàng bộ comlê, quần áo đồng bộ, áo jacket, áo khoác thể thao, váy dài, váy, chân váy, quần dài,
quần yếm, quần ống chẽn và quần soóc dành cho phụ nữ và trẻ em gái (HS 6204
và HS 6104), bộ com- lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, áo khoác thể thao, váy dài,
váy, chân váy, quần dài, quần yếm, quần ống chẽn và quần soóc dành cho nam
giới và trẻ em trai (HS6203); các loại áo bó, áo chui đầu, áo cài khuy, gi-lê
(HS6110); áo phông, áo may ô và loại áo lót khác (HS6109).....
Bảng 3 : Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2012 theo mã HS
Stt
1
2
3
4
5
6
7
8
Mã HS*
6204
6203
6110
6104
6109
6201
6202
6205
HS khác
Tổng cộng
Trị giá (Triệu USD)
2.099
1.831
1.763
1.207
1.160
792
720
632
4.885
15.090
Tỷ trọng (%)
13,9
12,1
11,7
8,0
7,7
5,3
4,8
4,2
32,4
100,0
Nguồn: Tổng cục Hải quan
(Ghi chú:*Để biết thông tin về mã HS độc giả tham khảo thông tư số
156/2011/TT-BTC ngày 14/11/2011 của Bộ Tài Chính về ban hành danh mục
hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam)
Trang 13
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
2.5. Tình hình Xuất khẩu dệt may từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2013
Với kim ngạch 10 tháng tăng 18,7%, đơn đặt hàng tăng, dự kiến cả năm
2013, xuất khẩu dệt may đạt mục tiêu từ 18,8-19,3 tỷ USD.
Theo Bộ Công Thương, từ đầu năm đến hết tháng 10, so với cùng kỳ, xuất
khẩu hàng dệt và may mặc ước đạt 14,8 tỷ USD, tăng 18,7%; xơ, sợi dệt các loại
ước đạt 1,7 tỷ USD, tăng 14,6%.
Trước thực tế mức tăng kim ngạch như hiện tại và có tín hiệu khởi sắc về
đơn hàng, ngành dệt may Việt Nam dự kiến kim ngạch xuất khẩu cả năm có thể
đạt 19 tỷ USD như mục tiêu đề ra từ đầu năm (đầu năm nay, ngành dệt may đã đặt
ra mục tiêu năm 2013 duy trì tốc độ tăng trưởng từ 10,4 đến gần 12%, kim ngạch
xuất khẩu đạt khoảng 18,8 - 19,3 tỷ USD).
Đóng góp vào mức kim ngạch của ngành dệt may 10 tháng qua, xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam sang Trung Quốc ước đạt trên 270 triệu USD, các mặt
hàng xơ, sợi dệt các loại ước đạt gần 700 triệu USD. Trong khi đó, Việt Nam cũng
nhập khẩu bông từ Trung Quốc với giá trị ước khoảng gần 7,5 triệu USD; xơ sợi
dệt các loại ước trên 350 triệu USD; đặc biệt là mặt hàng vải các loại ước gần 3,0
tỷ USD.
Xuất khẩu hàng may mặc của nước ta tới thị trường Mỹ, Hàn Quốc,
ASEAN tăng mạnh. Cụ thể, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Mỹ tăng
37% so với cùng kỳ năm ngoái; sang Hàn Quốc tăng 68% so với cùng kỳ năm
ngoái; sang Nhật Bản tăng tăng 35% so với cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu sang
các thị trường Canada, Hồng Kông, Mexico… đều đạt được các mức tăng trưởng
khá ấn tượng so với cùng kỳ năm ngoái.
Bộ Công Thương cũng cho biết, hiện nay, một số doanh nghiệp dệt may đã
xây dựng lộ trình cũng như phương án sản xuất theo hướng FOB, ODM và chuẩn
bị cho việc tham gia TPP thông qua việc từng bước đổi mới công nghệ hiện đại và
nâng cao hiệu quả quản trị, đặc biệt trong các lĩnh vực như dệt, nhuộm, hoàn tất và
thiết kế.
Trang 14
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Ngoài ra, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dệt may (nhất là dệt
nhuộm hàng cao cấp) hiện không chỉ tập trung ở các thành phố lớn mà đã hướng
đến một số tỉnh có lợi thế về vận chuyển hàng hóa, về nguồn nhân lực, về ưu đãi
đầu tư (ưu tiên đầu tư các ngành nhằm chuyển giao công nghệ). Tuy nhiên, quá
trình đổi mới chưa tạo được sự đột phá rõ nét và chưa đảm bảo sự phát triển bền
vững.
2.6. Những điều cần biết khi xuất khẩu dệt may sang một số thị trường
a. Thị trường Nhật Bản
Năm 2010, là năm đầu tiên Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế theo Hiệp
định đối tác kinh tế Việt Nam- Nhật Bản và kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị
trường này đã tăng trưởng 20% so với năm 2009.
Sau 1 năm hợp tác theo Hiệp định, theo số liệu thống kê, năm 2011, kim
ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang Nhật Bản đạt 1,69 tỷ USD, tăng 46,41%
so với năm 2010. Tính hết tháng 10 năm 2012, kim ngạch này đạt 1,62 tỷ USD,
gần bằng cả năm 2011, tăng 17,4% so với cùng kỳ 10 tháng năm 2011.
Hiện nay, Nhật Bản đã chiếm hơn 13% thị phần xuất khẩu dệt may của Việt
Nam. Không giống thị trường Mỹ, hay Châu Âu luôn có những đơn đặt hàng số
lượng lớn, Nhật Bản là một trong thị trường tiên tiến, luôn đòi hỏi sự tinh xảo
trong hàng may mặc, nên các đơn hàng tuy số lượng nhỏ nhưng lại nhu cầu kiểu
dáng và màu sắc khác nhau tạo sự độc đáo, khác biệt trong từng sản phẩm.
Ngoài ra, thì hàng dệt may khi xuất sang Nhật cần đảm bảo về các yêu cầu
quy định, trong đó có quy định về nhãn mác mà doanh nghiệp Việt Nam nên lưu
ý. Hàng dệt may cần phải có nhãn mác chứa đầy đủ các thông tin: thành phần sợi
vải, cách thức giặt sản phẩm tại nhà và các biện pháp xử lý khác, loại da được sử
dụng cho sản phẩm. Đối với sản phẩm dệt may có lớp bọc bên ngoài đặc biệt (trừ
áo mưa) phải dán nhãn ghi rõ không thấm nước.
Trang 15
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Tìm được đúng đối tác tin cậy là một trong những thách thức lớn nhất với
hầu hết các nhà xuất khẩu muốn thâm nhập thị trường Nhật Bản, bất kể đoạn thị
trường nào. Trong ngành thời trang, đại lý và các công ty phân phối thường có quy
mô nhỏ và thường giới hạn các thương hiệu họ làm đại diện. Bạn cũng cần kiểm
tra các thương hiệu họ đã làm đại diện để tránh tình trạng mâu thuẫn về lợi ích.
Hầu hết các đại lý lấy hoa hồng từ 15 đến 20% và nhà bán lẻ sẽ có khoản
lãi cao hơn. Thông thường, các sản phẩm nhập khẩu từ các nước khác được bán
với giá cao gấp 3,5 lần giá xuất xưởng. Người mua hàng thường có sự so sánh về
giá cả với các sản phẩm hoặc thương hiệu tương tự khác đã được bán trên thị
trường trước khi ra quyết định mua hàng.
Các công ty của Nhật thường muốn nhận được các quyển giới thiệu sản
phẩm và hàng mẫu hơn là kiểm tra trang web hay xem CD để biết được thông tin
về sản phẩm. Những công cụ marketing này thường đem lại hiệu quả nhanh hơn
và có thể dễ dàng chuyển giữa các bộ phận trong công ty.
Quyển brochure giới thiệu công ty của bạn nên đưa ra các giá trị của
thương hiệu công ty. Sách giới thiệu sản phẩm cần có đầy đủ thông tin về các
chủng loại sản phẩm. Thông tin về giá cả cần được cung cấp riêng biệt (có thể có
báo giá riêng).
Nhà thiết kế, khi bán hàng trực tiếp cho các cửa hàng hay bán cho đại lý,
đều phải có đầy đủ các thông tin sau đây trong sách giới thiệu công ty:
- Giá trị mà nhà bán lẻ sẽ nhận được khi mua hàng của bạn?
- Các mặt hàng của bạn phù hợp với các mặt hàng họ đang bán như thế
nào? Ai là khách hàng tiềm năng?
- Bạn sẽ làm gì để xúc tiến sản phẩm?
- Bạn có sẵn sàng thay đổi sản phẩm cho phù hợp với thị trường hay
không?
- Sản phẩm có được chào bán độc quyền cho công ty mua hàng hay không?
- Bạn hơn các đối thủ cạnh tranh ở điểm nào?
Trang 16
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
- Chiến lược cạnh tranh của bạn là gì?
Các nhà thiết kế nên dành một khoản ngân sách để chỉ định đại lý thực hiện
các công việc PR ở thị trường Nhật. Nhiều đại lý và công ty phân phối hàng thời
trang có khả năng thực hiện các công việc PR và tính phí độc lập. Thu hút sự quan
tâm của giới báo chí là một cách quan trọng để xây dựng thương hiệu và tăng
doanh số trên thị trường Nhật Bản. Có khoảng 30 tạp chí có liên quan đến thời
trang nữ giới, mỗi tạp chí có quan niệm khác nhau và có đối tượng khách hàng
tiềm năng khác nhau.
Các cửa hàng tuyển chọn là các cửa hàng bán nhiều thương hiệu với khái
niệm kinh doanh rất rõ ràng. Tỷ lệ hàng nhập khẩu khoảng 60%. 40% còn lại là
các nhãn hiệu tư nhân do cửa hàng tự phát triển. Các cửa hàng tuyển chọn sẵn
sàng hợp tác với các thương hiệu mới và thông thường mỗi năm họ sẽ thay từ 30%
đến 50% là các thương hiệu mới. Đối với các cửa hàng này cần đảm bảo về kiểm
soát chất lượng và thời gian giao hàng để duy trì quan hệ lâu dài. Các cửa hàng
này sẽ tham gia các triển lãm thương mại trong nước ít nhất hai lần trong năm để
trưng bày hàng mẫu cho các khách hàng của họ.
5 cửa hàng tuyển chọn hàng đầu tại Nhật Bản bao gồm United Arrows,
Beams, Ships, Tomorrowland và Bay Crews. Số lượng các cửa hàng ngày càng
tăng lên và phân đoạn rõ ràng hơn theo chủng loại hàng hóa (như theo giới tính,
thương hiệu và yếu tố nhân khẩu học).
Các trung tâm thương mại thường không nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài
và thường làm việc trực tiếp với các nhà thiết kế đã có tên tuổi trên thị trường
Nhật Bản. Hình thức bán lẻ trực tuyến và bán theo catalogue chỉ nên áp dụng với
các nhà thiết kế đã có tên tuổi trên thị trường. Các mặt hàng thời trang từ trung đến
cao cấp được định vị là các sản phẩm tương tự hàng xa xỉ. Người tiêu dùng thuộc
đoạn thị trường này vẫn muốn nhìn và chạm vào sản phẩm trước khi quyết định
mua hàng.
Trang 17
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Người mua hàng Nhật Bản thường muốn hợp tác với các đại lý, nhà phân
phối và nhà cung cấp quen biết. Việc thu hút chú ý của khách hàng qua các cuộc
điện thoại hay email rất khó thực hiện.
Các kênh phân phối khác ở Nhật gồm có:
- Các cửa hàng thông thường
- Các cửa hàng chuyên đồ thời trang
- SPA – nhà bán lẻ chuyên về thời trang của một nhãn hiệu tư nhân
- Các cửa hàng outlet…
b. Thị trường Băng-la-đét
Dệt may hiện là ngành kinh tế mũi nhọn của Băng-la-đét khi mang về tới
80% ngoại tệ xuất khẩu của quốc gia Nam Á có hơn 160 triệu dân này. Quy mô
xuất khẩu của ngành tăng trưởng gấp 03 lần trong vòng 10 năm trở lại đây với kim
ngạch xuất khẩu năm 2011/2012 đạt gần 22,3 tỷ USD. Tuy nhiên, sản xuất dệt
may của Băng-la-đét cũng gặp phải một thách thức không nhỏ đó là phải phụ
thuộc rất lớn vào nguyên phụ liệu dệt may nhập khẩu.
Hiện nay, sản xuất vải dệt trong nước chỉ có thể đáp ứng được 40% nhu cầu
sản xuất của ngành may và mỗi năm nước này phải chi một lượng ngoại tệ không
nhỏ để nhập khẩu nguyên, phụ liệu dệt may phuc vụ sản xuất. Năm 2011, Băng-lađét nhập khẩu một lượng hàng dệt may trị giá gần 7,5 tỷ USD trong đó có 2,28
triệu USD hàng nguyên, phụ liệu hàng dệt và gần 100 nghìn USD hàng may mặc
từ Việt Nam.
Một trong những trở ngại khiến cho kim ngạch xuất khẩu dệt may sang
Băng-la-đét của nước ta vẫn còn khiếm tốn do thiếu thông tin thị trường, ngành
hàng trong đó có thông tin về chính sách thuế nhập khẩu đối hàng dệt may nhập
khẩu vào Băng-la-đét. Vụ Thị trường Châu Phi, Tây Á, Nam Á xin giới thiệu tóm
lược biểu thuế cũng như quy đinh về nhãn mác đối với hàng dệt may nhập khẩu
của Băng-la-đét
+ Thuế nhập khẩu
Trang 18
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Thuế nhập khẩu dệt may vào quốc gia Nam Á này được tính trên cơ sở giá
CIF và thuế tính theo giá trị.
+ Bảng Thuế nhập khẩu dệt may
1. Nhóm hàng sợi
-Lụa
-Len
-Bông
-Các loại sợi thực vật khác
- Sợi nhân tạo
Mã HS
Biên độ thuế (%)
5003-5006
5105-5110
5204-5207
5306-5308
5401-5406/5501-
12
7
7-12
12-25
7-25
5007
5111-5113
5208-5212
5309-5311
5407-5408/5512-
25
25
25
25
25
60
5603
59
61-62
63
25
25
3 - 25
12-25
25
5511
2. Nhóm hàng vải dệt thoi
- Lụa
- Len
- Bông
- Vải dệt từ sợi thực vật
- Vải dệt từ sợi nhân tạo
5516
3. Nhóm vải dệt kim
4. Nhóm vải không dệt
5. Vải công nghiệp
6. Nhóm hàng may mặc
7. Nhóm hàng dùng trong
nhà bếp, phòng tắm
Ngoài thuế nhập khẩu, hàng dệt may còn phải chịu các loại thuế, phí
nhập khẩu như sau:
-Thuế VAT 15% ( Tính trên cơ sở giá CIF+thuế nhập khẩu)
-Thuế thu nhập ứng trước 2,5% (Tính trên cơ sở giá CIF+thuế nhập khẩu+
VAT)
-Phí cho phép nhập khẩu (Import Permit Fee) đối với hàng nhập khẩu có trị
giá từ 1800 USD trở lên 2,5% (Tính trên cơ sở giá CIF+thuế nhập khẩu+ VAT+
thuế thu nhập ứng trước)
Trang 19
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
- Phụ phí xây dựng cơ sở hạ tầng 2,5% ngoại trừ da nguyên liệu, bông và
sợi tổng hợp.
Quy định về nhãn mác
Hàng dệt may nhập khẩu vào Băng-la-dét bắt buộc phải có nhãn xuất xứ,
nhãn thành phần, nhãn cỡ, hướng dẫn sử dụng.
c. Thị trường Úc:
Úc là quốc gia nhập khẩu ròng các loại quần áo, giày dép và phụ kiện may
mặc. Dưới đây là một số điều doanh nghiệp Việt Nam nên lưu ý khi xuất khẩu
hàng dệt may sang Úc:
+ Hàng quần áo thời trang
Việc thành lập một đại diện trực tiếp tại Úc đòi hỏi chi phí rất lớn. Vì thế,
sẽ rất lý tưởng nếu bạn sử dụng đại lý hoặc nhà phân phối, đặc biệt khi doanh
nghiệp của bạn có vốn đầu tư hạn chế. Bạn có thể bắt đầu bằng việc bán hàng trực
tiếp tại một số cửa hàng.
Khi xác định kênh phân phối, bạn cũng cần lưu ý tới vấn đề địa lý. Khoảng
cách giữa các trung tâm lớn càng xa thì chi phí dịch vụ tại các khu vực này càng
tốn kém hơn cho chính bạn và đại lý bạn sử dụng, ví dụ như chi phí vận chuyển
đối với các đơn đặt hàng nhỏ, hoặc chi phí đi lại tới địa điểm người mua hàng
cũng cao hơn.
Nếu xét về mặt dân số, các bang ở phía đông bờ biển của New South
Wales, Victoria và Queensland tạo nên phần lớn doanh số bán hàng may mặc.
Sydney, Melbourne và Brisbane là những thành phố lớn, có nền kinh tế lâu đời và
rất nhiều cửa hàng thời trang cao cấp.
Thành phố Sydney là trung tâm của các phương tiện truyền thông tại Úc
cũng như là trung tâm mua sắm chính và cửa hàng miễn thuế cho khách du lịch.
Queensland lại là địa điểm lí tưởng cho các khu resort và khu nghỉ mát. Perth ở
Tây Úc cũng là một thị trường phát triển đối với các mặt hàng dệt may thời trang.
Trang 20
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Phong cách và màu sắc thời trang có sự khác biệt giữa các tiểu bang và điều
này chủ yếu là do yếu tố thời tiết. Ví dụ, với những khu vực thời tiết tương đối ấm
như Sydney và Brisbane, bạn không nên kinh doanh các mặt hàng làm bằng vải
dệt kim hoặc vải dày; thay vào đó là những mặt hàng mỏng hoặc dày vừa phải, có
màu sắc nhẹ nhàng và tươi sáng.
Đảm bảo bạn có đủ hàng mẫu để giới thiệu cho khách hàng – vì khách hàng
thường thích mua những gì họ tận mắt thấy với đủ màu sắc thay vì chỉ thấy vài
mẫu vải.
Mùa mua sắm tại Úc bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 5 đối với các bộ sưu tập
Xuân hè và tháng 9 đến tháng 10 đối với bộ sưu tập Thu Đông. Người mua hàng
tại Úc cũng có xu hướng đặt mua những mẫu mới để giữ cho cửa hàng của họ
phong phú và có “không khí” mới.
Hãy chuyên nghiệp và tuân theo kỷ luật trong cách quản lý chất lượng, tiến
độ giao hàng; đồng thời xây dựng một kế hoạch quản lý nợ tốt và hiệu quả. Giao
hàng kém chất lượng hoặc chậm trễ so với cam kết sẽ dẫn tới kết quả hàng bị trả
lại hoặc đơn hàng bị hủy.
+ Đồ thể thao
Các nhà bán lẻ và nhóm mua hàng tại Úc khuyến nghị các doanh nghiệp
muốn xuất khẩu đồ thể thao vào thị trường này nên làm việc trực tiếp với họ thay
vì thông qua nhà phân phối/ đại lý. Môi trường cạnh tranh gay gắt khiến cho các
kênh phân phối phụ không còn khả năng cạnh tranh về giá cũng như bị hạn chế về
khả năng thâm nhập thị trường.
Một số đại lý/ nhà phân phối đồ thể thao tại Úc
Bán hàng thông qua đại lý/ nhà phân phối không phải là cách thâm nhập thị
trường được khuyến khích. Tuy nhiên, vẫn có một danh sách đầy đủ các đại lý/
nhà phân phối đồ thể thao tại Úc trong danh bạ hàng năm của SportsLINK. Trong
khi một số đại lý/ nhà phân phối nhập khẩu hàng trực tiếp từ các nhà sản xuất
nước ngoài, thì số khác lại có giấy phép kinh doanh một số thương hiệu đồ thể
Trang 21
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
thao – theo đó, họ được cấp quyền kinh doanh tại các vùng, bang và tiểu bang tại
Úc cũng như được quyền chuyển hoạt động sản xuất giày dép và quần áo ra nước
ngoài với mức phí đã thỏa thuận với đơn vị cấp bản quyền.
Bạn có thể sử dụng đại lý/ nhà phân phối nếu khách hàng mục tiêu của bạn
là một tổ chức mua hàng ví dụ như trường học, chính quyền địa phương, tổ chức
giải trí, câu lạc bộ và hiệp hội. Đây là những tổ chức luôn có truyền thống tìm các
nguồn hàng trực tiếp từ nhà bán buôn hoặc nhà nhập khẩu.
Một số vấn đề mang tính dài hạn mà các nhà xuất khẩu nên cân nhắc
· Sự gia tăng về hoạt động bán lẻ trên mạng – mang tới thách thức và cơ
hội cho các doanh nghiệp dệt máy Việt Nam.
· Toàn cầu hóa gia tăng với xu hướng chuyển hoạt động sản xuất ra nước
ngoài nhằm nâng tính cạnh tranh. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực kéo theo là
hiện tượng bóc lột lao động và ô nhiễm môi trường.
· Liên tục đổi mới hoạt động sản xuất cũng như tăng cường nghiên cứu và
phát triển sản phẩm (điển hình là công nghệ nano) sẽ tạo ra các sản phẩm mới, từ
đó đưa thương hiệu lên một tầm cao.
2.7. Mở rộng thị trường các mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
a. Trong tình hình các thị trường truyền thống xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam có dấu hiệu chững lại, các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm bắt
cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng dệt may Việt Nam.
Theo số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất
khẩu dệt may của Việt Nam trong ba tháng đầu năm 2013 đạt 3,7 tỉ USD, đạt mức
tăng trưởng 18,3%. Đặc biệt, trong quý I năm nay, xuất khẩu các mặt hàng may
mặc của Việt Nam đạt mức tăng trưởng tốt tại các thị trường mới, không phải thị
trường truyền thống của Việt Nam.
Cụ thể, số liệu thống kê cho thấy, trong quý I năm 2013, kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường ASEAN đạt 111,4 triệu USD,
tăng 44,4% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, tại khu vực ASEAN, Campuchia
Trang 22
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
là nước đứng đầu về kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam, với kim
ngạch đạt 45,7 triệu USD, tăng 103% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, xuất
khẩu dệt may của Việt Nam tại một số thị trường khác cũng có mức tăng trưởng
mạnh như Nigeria tăng 1.200%, sang Na Uy tăng 134,6%, sang New Zealand tăng
120%, sang Úc tăng 37%.
Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF), nền kinh tế thế giới sẽ tiếp tục
gặp khó khăn trong năm 2013, làm thế nào để duy trì sản xuất đang là vấn đề đặt
ra đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Tình hình xuất khẩu dệt may tại các thị trường lớn vẫn còn khó khăn, nhu
cầu từ các thị trường chính như Mỹ, Nhật, EU chỉ tăng tương đối chậm và có xu
hướng giảm. Với những dự báo về kinh tế thế giới đưa ra cho năm 2013, dệt may
Việt Nam hy vọng giữ được mức tăng trưởng ổn định như năm 2012.
Với những khó khăn hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam cần củng cố lại
hoạt động sản xuất, đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của các nhà nhập khẩu truyền thống , duy trì các bạn hàng lâu năm
như EU, Mỹ, Nhật Bản, Nga, v.v...
Bên cạnh đó, trong thời điểm hiện tại, khi nhu cầu tiêu dùng của các thị
trường truyền thống như Mỹ, EU bị giảm sút, thay vì đợi các thị trường xuất khẩu
truyền thống, các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tích cực tìm kiếm cơ hội gặp
gỡ những đối tác mới, mở rộng thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng dệt may của
Việt Nam.
Theo số liệu thống kê của Tổng Cục hải quan, xuất khẩu nhóm hàng dệt
may trong 9 tháng qua đạt 13 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2012. Theo
ông Phạm Xuân Hồng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, trong số những
mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng mạnh nhất, dệt may là một trong hai
ngành duy nhất đạt trên 10 tỷ USD. “Tuy nhiên, hiện xuất khẩu của ngành này
đang chững lại và tăng trưởng không đều. Nguyên nhân là do cuối năm 2012, thị
trường các nước bị hụt hàng, nên đầu năm 2013 nhu cầu nhập tăng và đến nay thì
Trang 23
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
chững lại. Một nguyên nhân nữa là sự cạnh tranh về giá giữa các nước xuất khẩu
sản phẩm dệt may ngày càng diễn ra gay gắt. Ví dụ, mức lương trả cho công nhân
tại Việt Nam ngày càng cao cũng ảnh hưởng tới tính cạnh tranh trong xuất khẩu.
Lương công nhân ở Campuchia bình quân chỉ ở mức 50 USD/người/tháng,
Bangladesh 60 - 70 USD/người/tháng, trong đó ở Việt Nam là 250
USD/người/tháng”, ông Hồng cho biết.Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may
trong nước cũng đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và nhập khẩu nguyên phụ
liệu. Hiện có tình trạng doanh nghiệp Việt Nam tranh mua nguyên liệu với các
nước chuyên gia công hàng may mặc xuất khẩu khác như Campuchia, Ấn Độ,
Bangladesh... Mặt khác, các nhà cung cấp nguyên liệu cho ngành cũng đang lợi
dụng việc khan hiếm nguồn nguyên phụ liệu để cố tình trì hoãn việc giao hàng cho
các doanh nghiệp Việt Nam nhằm đẩy giá tăng thêm từ 10 - 15%. Điều này ảnh
hưởng đến tiến độ thực hiện những đơn hàng xuất khẩu cuối năm đã ký kết trước
đó của các doanh nghiệp trong nước.
b. Nhiều tín hiệu tích cực
Với chính sách đẩy mạnh xuất khẩu của Chính phủ, những nỗ lực của các
doanh nghiệp dệt may, mức tăng trưởng trung bình của ngành vẫn đạt khoảng
15%. Nhiều khả năng, xuất khẩu dệt may trong năm 2013 vẫn sẽ vượt khoảng 1 tỷ
USD so với mục tiêu đề ra.
Bên cạnh đó, một tín hiệu tốt khác của ngành dệt may là nếu như những
năm trước, tỉ lệ nội địa hoá trong hàng xuất khẩu chỉ đạt 20 - 30%, thì năm nay
con số này đã là 40 - 50%. Điều này sẽ khiến việc nhập khẩu nguyên phụ liệu của
ngành giảm đi và ngành sẽ tận dụng được nhiều cơ hội nếu hiệp định thương mại
như TPP được ký kết. Không những thế, những năm gần đây, ngành dệt may đã
chú trọng đầu tư phát triển thị trường nội địa; nhiều doanh nghiệp tập trung đầu tư
cho khâu thiết kế, sản xuất, chuyển giao công nghệ và thương hiệu để cho ra
những sản phẩm không thua kém hàng nhập khẩu, như Pierre Cardin (An Phước),
San Sciaro (Việt Tiến), Mattana (Nhà Bè)... Trong thực tế, những thương hiệu này
Trang 24
GVHD: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
còn tạo cơ hội cho người tiêu dùng Việt Nam được sử dụng hàng may mặc chất
lượng cao và trở thành những thương hiệu thế giới được Việt hóa.
Theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành, từ những tín hiệu tích cực
này, thời gian tới, ngành dệt may Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được kế hoạch đã
đề ra và tiếp tục vẽ lên gam màu sáng trong “bức tranh” xuất siêu năm thứ 2 liên
tiếp của Việt Nam.
Tình hình sản xuất và xuất khẩu sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam.
Hiện nay ở nước ta ngành công nghiệp dệt may ngày càng có vai trò quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ phục vụ cho nhu cầu ngày càng
cao và phong phú, đa dạng của con người mà còn là ngành giúp nước ta giải quyết
được nhiều công ăn việc làm cho xã hội và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân
sách quốc gia, tạo điều kiện để phát triển nền kinh tế.
Trong những năm gần đây ngành công nghịêp dệt may đã có những bước
tiến vượt bậc. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành khoảng 30%/năm, trong
lĩnh vực xuất khẩu tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm và chiếm 20% tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tính đến nay cả nước có khoảng 822 doanh
nghiệp dệt may, trong đó doanh nghiệp quốc doanh là 231 doanh nghiệp, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh là 370 doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài là 221 doanh nghiệp. Ngành dệt may có năng lực như sau:
Về thiết bị: có 1.050.000 cọc kéo sợi, 14.000 máy dệt vải; 450 máy dệt kim
và 190.000 máy may.
Về lao động: ngành dệt may đang thu hút được khoảng 1,6 triệu lao động,
chiếm 25% lực lượng lao động công nghiệp.
Về thu hút đầu tư nước ngoài: tính đến nay có khoảng 180 dự án sợi-dệtnhuộm -đan len-may mặc còn hiệu lực với số vốn đăng ký đạt gần 1,85 tỷ USD,
trong đó có 130 dự án đã đi vào hoạt động, tạo việc làm cho trên 50.000 lao động
trực tiếp và hàng ngàn lao động gián tiếp.
Trang 25