PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay ô nhiễm môi trường là một trong những mối quan tâm hàng đầu
của nhân loại. Ô nhiễm môi trường không còn là vấn đề của một quốc gia, một
khu vực mà đã trở thành vấn đề của toàn cầu. Hiện tượng ô nhiễm môi trường
càng ngày càng tăng không chỉ do sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp dịch
vụ, mà còn chiếm tỉ trọng lớn từ sản xuất nông nghiệp bao gồm trồng trọt và
chăn nuôi.
Chăn nuôi là một trong hai lĩnh vực quan trọng trong nền nông nghiệp
nước ta (trồng trọt và chăn nuôi), đóng góp của ngành chăn nuôi vào GDP chiếm
tỉ lệ 35,7. Điều này cho thấy ngành chăn nuôi của Việt Nam đang trên đà phát
triển, đặc biệt là ngành chăn nuôi lợn – phát triển mạnh cả về số lượng lẫn quy
mô, năm 2014 với tổng đàn lợn là 431.000 triệu con [11]. Nó không những đáp
ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng hàng ngày của mọi người dân trong xã hội
mà còn là nguồn thu nhập quan trọng của hàng triệu người dân hiện nay. Đặc
biệt, nông nghiệp lại có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta khi có tới hơn 70%
dân cư sống dựa vào nông nghiệp.
Ô nhiễm do chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi lợn không chỉ làm ô nhiễm
môi trường không khí mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường sống dân
cư, nguồn nước và tài nguyên đất và còn tác động đến cả kết quả sản xuất chăn
nuôi. Các hoạt động gây ô nhiễm do chăn nuôi vẫn đang tiếp tục diễn ra ở nhiều
nơi trên cả nước. Tình trạng chăn nuôi thiếu quy hoạch, chưa gắn với xử lý môi
trường, không có đánh giá tác động môi trường khi sản xuất, kinh doanh là
nguyên nhân gây nên thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay, chẳng hạn chăn
nuôi nông hộ thường phân tán, thả rong, nhất là chăn nuôi trâu bò, chăn nuôi gia
cầm và chăn nuôi lợn ở các vùng trung du, miền núi. Chất thải hoàn toàn xả tự
nhiên ra môi trường. Đây là tập quán, truyền thống lâu đời rất khó thay đổi và là
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trực tiếp, phạm vi, quy mô rộng lớn. Còn đối
với các trang trại đến nay hầu hết phát triển tự phát, ít có quy hoạch, xây dựng
ngay trong vườn nhà, trong thôn xóm. Chỉ một số ít các trang trại được xây
dựng và quy hoạch cách ly khu dân cư có đầu tư xử lý môi trường nhưng cũng
không triệt để [15].
1
Tuy nhiên, việc chăn nuôi phát triển theo xu hướng hàng hóa như hiện nay
đang là nguyên nhân gây ô nhiễm lớn cho môi trường tự nhiên do lượng lớn khí
thải và chất thải từ vật nuôi chưa được xử lý. Hơn 61 triệu tấn phân các loại vật
nuôi được thải ra trong năm 2007 nhưng chỉ khoảng 40% số chất thải này được
xử lý, còn lại thường được xả thẳng trực tiếp ra môi trường. Số phân không
được xử lý và tái sử dụng lại chính là nguồn cung cấp phần lớn các khí nhà kính
(chủ yếu là CO2, N20) làm trái đất nóng lên, ngoài ra còn làm rối loạn độ phì đất,
nhiễm kim loại nặng, ô nhiễm đất, gây phì dưỡng và ô nhiễm nước. Chưa kể
nguồn khí thải CO2 phát tán do hơi thở của vật nuôi (ước chừng 2,8 tỷ
tấn/năm/tổng đàn gia súc thế giới) [9,1].
Vấn đề này đòi hỏi phải có những giải pháp để vừa phát triển chăn nuôi
lợn vừa bảo vệ môi trường, cảnh quan, sức khỏe của cộng đồng làm cơ sở cho
việc phát triển bền vững. Do vậy, việc áp dụng biện pháp xử lý chất thải chăn
nuôi là một vấn đề cấp bách của ngành nông nghiệp nước ta hiện nay. Một trong
những giải pháp đang được các vùng nông thôn nước ta áp dụng rộng rãi là sử
dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi lợn. Với việc chăn nuôi như vậy các hộ
gia đình có thể tận dụng được các phế phẩm nông nghiệp vào chăn nuôi lợn và
hạn chế được ô nhiễm môi trường góp phần nâng cao hiệu quả trong chăn nuôi
cải thiện đời sống.
Huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế có điều kiện tự nhiên thuận lợi
cho việc phát triển kinh tế trang trại cũng như quy mô hộ gia đình. Huyện có
diện tích đất cát nội đồng nghèo chất dinh dưỡng lớn chưa được sử dụng, kết
hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm thích hợp cho phát triển chăn nuôi trang trại,
đặc biệt chăn nuôi lợn là một trong những thế mạnh của huyện. Trước đây, phần
lớn trên địa bàn huyện chủ yếu là chăn nuôi nông hộ với hình thức truyền thống
tận dụng phế phụ phẩm trồng trọt và lao động nông nhàn, với các giống lợn địa
phương có năng suất và chất lượng thấp. Hơn nữa, sự hình thành và phát triển
của các mô hình chăn nuôi này đang trong tình trạng tự phát và rất đa dạng, nên
gặp khó khăn về nhiều mặt như vốn, con giống, thức ăn, dịch bệnh. Đặc biệt
chăn nuôi là lĩnh vực có ảnh hưởng đến ô nhiễm môi trường cao nhất,bởi phân
và nước tiểu cũng như thức ăn hay chất độn chuồng được thải trực tiếp ra ngoài
môi trường ảnh hưởng lớn đến môi trường xung quanh khu vực nuôi làm ảnh
hưởng không nhỏ đến sinh hoạt cũng như sức khỏe con người. Bên cạnh đó hiệu
quả về kinh tế đem lại không cao, cản trở việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, cần xem xét, phân tích và
2
đánh giá hiệu quả của mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh học để có cái
nhìn cụ thể việc sử dụng mô hình này và làm cơ sở để mở rộng quy mô và phạm
vi áp dụng mô hình này có hiệu quả tại địa phương . Xuất phát từ vấn đề trên, tôi
đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Hiệu quả mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót
sinh học tại xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2
. Mục tiêu nghiên cứu
-
Tìm hiểu mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh học ở xã Quảng Phước,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Mô tả quy trình kỹ thuật của mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh học.
Đánh giá hiệu quả của mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh học.
3
PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Khái niệm về đệm lót sinh học
Chăn nuôi trên nền đệm lót sinh học là phương pháp sử dụng quần thể các
loại vi sinh vật có khả năng phân giải mạnh những thứ như phân, nước tiểu của
gia súc khi thải ra, làm cho môi trường trong sạch, không bị ô nhiễm.
Khi áp dụng mô hình này trong chăn nuôi đã hạn chế được sự phát triển
của ruồi, muỗi tạo môi trường thông thoáng giúp đàn lợn ăn nhiều, lớn nhanh, tỷ
lệ lợn mắc bệnh tiêu hóa giảm do con vật có môi trường tự nhiên để vận động,
đào xới suốt ngày, kích thích quá trình tiêu hóa nhanh của lợn [17].
Đệm lót sinh học là một lớp đệm dày 60cm bao gồm tro than hút ẩm, trấu
và rơm cắt nhỏ… được trộn với chế phẩm vi sinh có tác dụng tiêu hủy phân và
nước tiểu, hình thành một lớp sinh khối sạch, hạn chế vi khuẩn bệnh và ký sinh
trùng, loại bỏ ruồi muỗi, không mùi hôi [2].
2.1.2. Khái niệm về mô hình
Mô hình là thuật ngữ được sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau,
nó dùng để khái quát hóa các sự vật, hiện tượng, các quá trình, các mối quan hệ
hay ý tưởng nào đó. Trong chuyển giao kĩ thuật, mô hình được hiểu là quá trình
xây dựng một sự mô phỏng nhằm tạo ra một khuôn mẫu để người dân có thể học
hỏi và làm theo. Theo quan niệm của nhiều cơ quan chuyển giao thì mô hình bao
gồm các đặc trưng sau: (1) Là hình mẫu tối ưu cho một giải pháp; (2) Phải có
tính đại diện cho vùng có điều kiện tương tự; (3) Phải áp dụng được các kĩ thuật
tiến bộ vào sản xuất; (4) Phải có tính hiệu quả về mặt kinh tế, xã hội, môi
trường. Đối với lĩnh vực khuyến nông, mô hình được hiểu là quá trình xây dựng
một hình thực hiện [17]. Và cách hiểu này cũng được áp dụng vào nghiên cứu
này trong quá trình xác định mô hình nghiên cứu.
2.1.3. Hình thức chăn nuôi hộ gia đình
Theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng
ký kinh doanh thì hộ kinh doanh cá thể là do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm
chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường xuyên thuê lao động,
không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với
hoạt động kinh doanh.
4
Theo Hồ Lê Phi Khanh (2012): “Hộ nông dân là hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh bao gồm nhóm người có cùng huyết tộc hoặc quan hệ huyết thống,
sống chung một mái nhà, chung một nguồn thu nhập (hoạt động sinh hoạt và sản
xuất kinh doanh), không có sự tách biệt về mặt tài sản”.
Kinh tế nông hộ là loại hình kinh tế trong đó các hoạt động sản xuất chủ
yếu dựa vào lao động gia đình (lao động không thuê) và mục đích của loại hình
kinh tế này trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình (không phải mục
đích là sản xuất hàng hóa để bán). Tuy nhiên cần có sự chú ý ở đây là các hộ gia
đình có thể sản xuất để trao đổi nhưng ở mức độ hạn chế [3].
Riêng đối với nghiên cứu này, để thuận lợi cho nghiên cứu tôi tạm đưa ra
khái niệm hình thức chăn nuôi hộ gia đình là hình thức kinh tế nông hộ các hoạt
động sản xuất chủ yếu dựa vào lao động gia đình, mục đích sản xuất nhằm đáp
ứng nhu cầu của hộ gia đình (có thể trao đổi nhưng hạn chế), chưa được chính
quyền địa phương cấp chứng nhận trang trại và quy mô chăn nuôi dưới 200 con
lợn thịt/hộ/lứa.
2.1.4. Phân loại hộ chăn nuôi lợn thịt
Trước đây, có nhiều cách phân loại hộ chăn nuôi lợn thịt khác nhau ở các
nghiên cứu trong và ngoài nước, Tùy thuộc vào mục đích và nội dung cụ thể của
từng nghiên cứu để có cách phân loại phù hợp.
Theo nghiên cứu đánh giá lợi thế so sánh chăn nuôi lợn ở nước ta của Cục
chăn nuôi đã phân thành 3 nhóm hộ dựa vào số lợn thịt nuôi tại chuồng: lớn (trên
50 con/lứa nuôi); vừa (từ 10-50 con/lứa nuôi); nhỏ (dưới 10con/lứa nuôi) [7,1].
Trong nghiên cứu này, tôi tiến hành phân nhóm theo quy mô chăn nuôi của
hộ: chia 40 hộ chăn nuôi thành 3 nhóm hộ chăn nuôi có quy mô lớn, quy mô vừa
và quy mô nhỏ. Nghiên cứu chủ yếu căn cứ trên cơ sở, số con nuôi/lứa. Cụ thể
như sau:
+ Quy mô lớn: 20 con trở lên
+ Quy mô vừa: 10-20 con/lứa
+ Quy mô nhỏ: Dưới 10 con
Việc lựa chọn hộ nghiên cứu căn cứ vào số lượng lợn thịt của đối tượng
đang tiến hành chăn nuôi tại thời điểm nghiên cứu. Nhưng phương pháp này
không phù hợp đối với một số trường hợp đặc biệt như đối với các hộ tăng giảm
số con/lứa trong năm nên số lượng lợn nuôi chưa đủ dẫn đến sai lệch trong kết
quả nghiên cứu, nên đối với các hộ đặc biệt này tôi căn cứ vào số lượng lợn thịt
được nuôi trung bình trong năm trước để nghiên cứu.
5
2.1.5. Hiệu quả kinh tế và phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế (HQKT) là một phạm trù đặc biệt quan trọng, nó thể hiện
kết quả sản xuất trong mỗi đơn vị chi phí gồm các ngành sản xuất. Về mặt hình
thức, HQKT là 1 đại lượng so sánh kết quả sản xuất với chi phí bỏ ra.
Để đánh giá HQKT chúng ta phải đứng trên quan điểm toàn diện, phải biểu
hiện trên các góc độ khác nhau và có quan hệ chặt chẽ với nhau theo không gian
– thời gian – số lượng – chất lượng.
Về mặt không gian: Khi xét HQKT không nên xét một mặt, một lĩnh vực
mà xét trong mối quan hệ hữu cơ hợp lý trong tổng thể chung.
Về mặt thời gian: Sự toàn diện của HQKT đạt được không chỉ xét ở từng
giai đoạn mà phải xét trong toàn bộ chu kì sản xuất.
Về mặt số lượng: HQKT phải thể hiện mối tương quan thu, chi theo hướng
giảm đi hoặc tăng thêm.
Về mặt chất lượng: HQKT phải bảo đảm sự cân đối hợp lý giữa các mặt
kinh tế, chính trị, xã hội.
HQKT trong nông nghiệp: HQKT trong nông nghiệp là tổng hợp các hao
phí về lao động và lao động vật hóa để sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp. Nó
thể hiện bằng cách so sánh kết quả sản xuất đạt được với khối lượng chi phí lao
động và chi phí vật chất bỏ ra. Khi xác định HQKT trong sản xuất nông
nghiệp phải tính đến việc sử dụng đất đai, các nguồn dự trữ vật chất lao
động trong nông nghiệp. Các tiềm năng này bao gồm vốn sản xuất, vốn lao
động và đất đai [14,2].
HQKT là một phạm trù kinh tế phản ánh chất lượng của hoạt động kinh tế,
là thước đo, cơ sở động lực của hoạt động sản xuất. Nó phản ánh trình độ khai
thác các yếu tố đầu tư, các nguồn lực tự nhiên và các phương thức quản lí. Nâng
cao chất lượng của hoạt động kinh tế, tăng cường sử dụng các nguồn lực có sẵn
trong hoạt động sản xuất là yêu cầu khách quan của mọi ngành sản xuất xã hội
do nhu cầu vật chất cuộc sống của con người ngày càng tăng [1].
Phương pháp xác định HQKT
HQKT được đo lường bằng sự so sánh giữa kết quả sản xuất kinh doanh
với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Vì vậy để xác định HQKT cần chú ý
đến các nguyên tắc sau:
6
•
•
•
•
•
•
•
•
Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả, theo nguyên
tắc này tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục tiêu.
Phân tích hiệu quả gồm một phương án luận dựa trên phân tích mục tiêu.
Phương án có hiệu quả cao nhất khi nó đóng góp nhiều nhất cho việc thực hiện
các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất.
Các chỉ tiêu về HQKT lựa chọn để nghiên cứu dưới một số dạng sau:
Tổng giá trị sản xuất (GO): tổng giá trị sản xuất là giá trị tính bằng tiền của toàn
bộ các sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra của quốc gia hay ở 1 vùng 1 địa
phương cụ thể trong một thời gian nào đó. Tổng giá trị sản xuất được thể hiện
bằng công thức: GO = ∑ Qi x Pi [13,1]
Trong đó: Qi là khối lượng sản phẩm loại i.
Pi là giá cả sản phẩm loại i.
Chi phí trung gian (IC): chi phí trung gian là toàn bộ các khoản chi phí vật chất
thường xuyên và dịch vụ được sử dụng trong quá trình SXNN. Chi phí trung
gian được thể hiện bằng công thức: IC = ∑ Cj x Gj [13,2].
Trong đó: Cj là số lượng đầu tư của đầu vào thứ j
Gj là đơn giá đầu vào thứ j.
Khác với các ngành sản xuất phi nông nghiệp, việc tính toán giá thành sản
xuất trong nông nghiệp là vấn đề rất khó khăn do việc tính toán chi phí về lao
động, đặc biệt là trong kinh tế hộ gia đình. Giá thành sản xuất chỉ có thể tính
toán chính xác ở các cơ sở sản xuất mà đơn giá tiền công đã được xác định. Vì
vậy, ngoài chỉ tiêu giá thành sản xuất, người ta thường dùng chỉ tiêu chi phí
trung gian thay cho chỉ tiêu giá thành.
Giá trị tăng thêm (VA): giá trị tăng thêm là phần giá trị gia tăng của một quá
trình SXNN. VA được thể hiện bằng công thức: VA = GO – IC [13,3]
Lợi nhuận (Pr) : Là sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí, phản ánh kết quả
kinh tế của mọi hoạt động SXKD của đơn vị kinh tế để tính toán các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả SXKD [14,1].
Tổng lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí
Pr = GO - TC
Lợi nhuận/ chi phí (Pr/IC): Phản ánh hiệu quả lợi nhuận đạt được trên một đồng
chi phí. Cứ một đồng chi phí để đầu tư sản xuất sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi
nhuận trong một chu kỳ sản xuất. Khi lợi nhuận lớn hơn chi phí rất nhiều thì chỉ
tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao. Đây là điều
mà mỗi đơn vị kinh tế đều mong muốn đạt được [14,2].
Trong SXNN, việc tính toán lợi nhuận sản xuất là vấn đề hết sức khó khăn
do việc xác định đơn giá tiền công lao động rất phức tạp. Lợi nhuận sản xuất
trong nông nghiệp chỉ có thể tính toán tương đối dễ dàng trong các doanh nghiệp
7
nông nghiệp, nơi mà đơn giá tiền công đã được xác định còn trong kinh tế hộ gia
đình và một số hình thức tổ chức sản xuất khác thì không có đơn giá ngày công
thống nhất, mặt khác do nhiều điều kiện khác nhau nên người nông dân phải sản
xuất theo kiểu “lấy công làm lãi”. Do vậy, ngày nay người ta thường tính chỉ
tiêu thu nhập hỗn hợp để đánh giá kết quả sản xuất thay cho chỉ tiêu lợi nhuận.
Ý nghĩa của việc xác định hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp
Việc xác định hiệu quả kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp nhận
biết được mức hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp,
các nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế để có biện pháp thích hợp
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
Là căn cứ để xác định phương hướng đạt tăng trưởng cao trong sản xuất
nông nghiệp. Nếu hiệu quả kinh tế còn thấp thì có thể tăng sản lượng nông
nghiệp bằng các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế, ngược lại nếu đạt được
hiệu quả kinh tế cao thì tăng sản lượng cần đổi mới công nghệ.
2.1.6. Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường được xem là sự tác động của mô hình tới môi trường
như thế nào, liệu mô hình có thích ứng được với môi trường hay không? Khi nói
tới hiệu quả môi trường cũng cần xem xét liệu mô hình đó có gây tác động gì
đến môi trường và những ảnh hưởng của nó đến môi trường như thế nào? Để
thấy được hiệu quả môi trường của mô hình chúng ta cần đánh giá được các chỉ
số sau: mô hình có gây ô nhiễm cho môi trường hay không? Mức độ cải tạo và
nâng cao độ phì của đất cao hay thấp; khả năng bền vững như thế nào ? kĩ thuật
có được sử dụng lâu dài hay không trong điều kiện biến động của thị trường và
sự ra đời của các kĩ thật mới [7,2]. Hiệu quả môi trường là hiệu quả của việc làm
thay đổi môi trường do hoạt động sản xuất gây ra như: xói mòn, ô nhiễm đất,
không khí, bệnh tật,.... ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Tuy nhiên, việc
xác định hiệu quả môi trường là tương đối khó và là vấn đề cần quan tâm không
chỉ trong ngành chăn nuôi mà hầu hết các hoạt động sản xuất.
2.1.7. Hiệu quả xã hội
Một chỉ tiêu nữa mà hoạt động sản xuất cần đạt tới là hiệu quả xã hội.
Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được các
mục tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường thấy là giải quyết việc
làm, giảm số người thất nghiệp; nâng cao trình độ và đời sống văn hóa, tinh thần
cho người lao động, đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động ; nâng cao
8
mức sống cho các tầng lớp dân cư trên cơ sỡ giải quyết tốt các quan hệ trong
phân phối, đảm bảo và nâng cao sức khỏe; đảm bảo vệ sinh môi trường;...
Hiệu quả kinh tế xã hội là mối tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra và
kết quả đạt được cả về mặt kinh tế và xã hội. Mục tiêu cuối cùng của phát triển
kinh tế là phát triển xã hội, vì thế hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Do đó nên khi nói đến hiệu quả kinh tế chúng ta cần
hiểu trên quan điểm kinh tế- xã hội [8].
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Vai trò của đệm lót sinh học trong chăn nuôi lợn tại nông hộ
Chăn nuôi lợn có vị trí quan hàng đầu trong ngành chăn nuôi nước ta. Sự
hình thành sớm nghề nuôi lợn cùng với trồng lúa nước đã cho chúng ta khẳng
định nghề nuôi lợn có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất của con
người. Chăn nuôi lợn là ngành cung cấp thịt chủ yếu không chỉ nước ta mà cả
nhiều nước trên thế giới. Một đặc điểm quan trọng mang tính ưu việt của chăn
nuôi lợn là sức tăng trưởng nhanh và chu kỳ tái sản xuất ngắn. Theo Nguyễn
Thế Nhã thì mức sản xuất và tăng trưởng của lợn cao gấp 5-7 lần so với chăn
nuôi bò trong cùng điền kiện nuôi dưỡng, tỉ trọng sau giết mổ so với trọng lượng
thịt tương đối cao có thể đạt được 70-72%, trong lúc bò chỉ tạo 40-45% [4]. Lợn
là loài động vật ít tiêu tốn thức ăn so với tỉ lệ thể trọng và thức ăn có thể tận
dụng từ nhiều nguồn phế, phụ phẩm trồng trọt, cây công nghiệp thực phẩm và
phụ phẩm sinh hoạt. Chính vì vậy trong điều kiện nguồn thức ăn có ít, không ổn
định vẫn có thể phát triển chăn nuôi lợn phân tán theo quy mô từng hộ gia đình.
Đầu tư cơ bản ban đầu cho chăn nuôi lợn ít, chi phí nuôi dưỡng trải đều suốt quá
trình sản xuất, chu kỳ sinh sản ngắn nên chăn nuôi lợn có thể đầu tư phát triển
trên mọi điều kiện gia đình nông dân.
Bên cạnh đó, chăn nuôi lợn ở nông hộ đang gặp khó khăn về vấn đề chất
thải gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là các vùng dân cư có mật độ dân cư cao.
Chất thải của lợn hằng ngày không được tập trung xử lý đang gây ô nhiễm
nguồn nước, mùi hôi của phân chất thải, thức ăn thừa ảnh hưởng xấu đến sức
khỏe con người. Một tiến bộ mới được áp dụng để giải quyết vấn đề trên là sử
dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi lợn với những lợi ích như sau:
- Làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường do phân và nước tiểu thải ra hằng
ngày được tiêu hủy trong đệm lót, tạo môi trường sống không ô nhiễm, cải thiện
9
môi trường sống cho người lao động và tạo thêm nhiều cơ hội có thể phát triển
chăn nuôi trong khu dân cư.
- Không cần dọn phân và rửa chuồng trong quá trình nuôi do đó giảm nhân
công đồng thời tiết kiệm nước, điện do hoàn toàn không phải tắm cho lợn và rửa
chuồng hằng ngày.
- Giảm tỉ lệ mắc bệnh, đặc biệt là bệnh tiêu chảy ở lợn con, đệm lót chứa
các vi sinh vật có lợi và rất hiệu quả trong việc phòng chống các bệnh dịch có
hại trên đàn lợn nên giảm chi phí đáng kể trong chăn nuôi.
- Tăng chất lượng đàn lợn và chất lượng của sản phẩm khi lợn ăn men vi
sinh từ đệm lót sẽ giúp tiêu hóa tốt thức ăn, làm tăng khả năng hấp thu axit
amin, qua đó tăng độ mềm, thơm ngon, vị ngọt tự nhiên cho thịt lợn so với chăn
nuôi thông thường [6,1].
- Đối với nhiều vùng nông thôn và nhất là trong xu thế phát triển nền nông
nghiệp hữu cơ sinh thái, chăn nuôi lợn tạo ra nguồn phân bón hữu cơ quan trọng
cho phát triển ngành trồng trọt, góp phần cải tạo đất, tận dụng được nguồn phân
bón, giảm chi phí đầu tư trong trồng trọt của nông hộ. Một con lợn thịt trong một
ngày đêm có thể thải 2,5-4 kg phân, ngoài ra còn có nước tiểu có hàm lương
Nitơ và Phốtpho cao [5].
Chăn nuôi lợn góp phần giữ vững cân bằng sinh thái giữa cây trồng, vật
nuôi và con người. Trong các nghiên cứu về môi trường nông nghiệp, lợn là vật
nuôi quan trọng và là một thành phần không thể thiếu được của hệ sinh thái
nông nghiệp. Chăn nuôi lợn có thể tạo ra các loại giống lợn nuôi trong các vườn
cây cảnh của các giống lợn nuôi cả trong nhà góp phần làm tăng thêm, đa dạng,
sinh thái tự nhiên.
2.2.2 Tình hình sử dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi tại Việt Nam
Theo thống kê của Cục Chăn nuôi, mỗi năm đàn vật nuôi của nước ta
đang thải ra môi trường hơn 80 triệu chất thải rắn, vài chục tỉ khối chất thải lỏng
và hàng trăm triệu tấn chất thải khí. Trong đó chỉ có khoảng 40-70% chất thải
rắn được xử lý còn lại trực tiếp thải ra môi trường. Hầu hết các cơ sở chăn nuôi
không có nhà xử lý phân hoàn chỉnh đạt tiêu chuẩn chất lượng. Khoảng 40%
chất thải lỏng trực tiếp được dùng để tưới hoa màu, nuôi cá, có khoảng 60%
thường được đổ thẳng ra hệ thống thoát nước của khu dân cư. Ngành chăn nuôi
cũng “đóng góp” tới 18% khí nhà kính, yếu tố gây hiệu ứng làm cho trái đất
nóng lên và biến đổi khí hậu toàn cầu [9,2].
10
Việc ứng dụng đệm lót sinh học trong xử lý chất thải chăn nuôi mới được
áp dụng tại Việt Nam với nguyên liệu làm đệm lót là trấu, mùn cưa, vỏ đậu
phộng. Ứng dụng phương pháp này trong chăn nuôi sẽ làm giảm thiểu mùi hôi
từ chất thải và hô hấp từ vật nuôi, giảm sức lao động, chi phí điện nước và nhất
là góp phần tăng sức đề kháng cho vật nuôi. Hiện tại, việc ứng dụng đệm lót
sinh học trong xử lý chất thải chăn nuôi đã được nhiều hộ chăn nuôi heo, gà quy
mô lớn trên cả nước áp dụng và mang lại hiệu quả cao [6,2].
Theo số liệu của Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn), tính đến tháng 11/2013, cả nước có 40/63 tỉnh, thành phố có mô hình áp
dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi, trong đó có 752 trang trại và trên 60.000
hộ gia đình với tổng diện tích 5,47 triệu m 2 đệm lót sinh học (dùng trong chăn
nuôi lợn 70.000 m2 và chăn nuôi gia cầm 5,4 triệu m 2). Công nghệ này đang phát
triển khá mạnh ở các tỉnh phía Bắc. Các tỉnh phía Nam đã và đang phát triển
nhưng còn gặp một số khó khăn về công nghệ, nguyên liệu và quy trình áp dụng
[12].
Đánh giá sơ lược về ưu điểm, hạn chế của mô hình như: giảm chi phí chăn
nuôi do tiết kiệm được nhân công lao động; hệ thống chuồng nuôi xây dựng đơn
giản, nguyên liệu để làm đệm lót sinh học dễ kiếm, rẻ tiền; vật nuôi tăng trưởng
tốt, tăng sức đề kháng do không bị bệnh dịch… Tuy nhiên, quá trình ứng dụng
công nghệ đệm lót sinh học trong chăn nuôi đã nảy sinh một số vấn đề như
nguyên liệu để làm đệm lót sử dụng 50 -70% là mùn gỗ (mùn cưa, phôi bào…)
và sử dụng với số lượng lớn, nguồn cung cấp nguyên liệu không ổn định, vì vậy
khó áp dụng ra diện rộng. Ngoài ra, người chăn nuôi phải đầu tư chi phí ban đầu
để làm lớp đệm lót lớn và thường xuyên phải bổ sung trong quá trình chăn nuôi.
Việc áp dụng mô hình này trong chăn nuôi công nghiệp cũng đang khó triển
khai do đệm lót sinh học chỉ phù hợp với mô hình chăn nuôi mật độ thấp. Nhiều
hộ chăn nuôi chưa áp dụng đúng quy trình dẫn đến lớp đệm bị hỏng, hệ vi sinh
vật bị chết [12,1].
Để giải quyết những tồn tại trên, Cục chăn nuôi kiến nghị Chính phủ chỉ
đạo Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Học viện Nông nghiệp
Việt Nam đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu thử nghiệm nhằm hoàn thiện quy trình
chăn nuôi trên đệm lót sinh học. Đồng thời xem xét và phê duyệt “Chính sách hỗ
trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ giai đoạn 2014-2020”, trong đó có hỗ
trợ ứng dụng đệm lót sinh học cho chăn nuôi ở quy mô nông hộ [12].
11
2.2.3. Tình hình sử dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi tại huyện Quảng
Điền và tỉnh Thừa Thiên Huế
Tiếp nhận và sẵn sàng tiếp nhận tiến bộ khoa học kĩ thuật trong phát triển
nông nghiệp nông thôn với công cuộc xây dựng và phát triển nông thôn trên cả
nước nói chung và tại Thừa Thiên Huế nói riêng. Cho đến nay, trên địa bàn toàn
tỉnh số lượng trang trại, gia trại cũng như các hộ chăn nuôi có quy mô vừa và
nhỏ đã có những sự chuyển biến rõ rệt về cả số lượng cũng như quy mô. Bên
cạnh đó, việc chủ động tìm kiếm và áp dụng các tiến bộ kĩ thuật cũng được nâng
cao. Năm 2010 số hộ tham gia tiếp cận các lớp tập huấn hướng dẫn chăm sóc và
các kĩ thuật trong chăn nuôi hay trồng trọt đạt khoảng 57%. Nhưng đến năm
2013 có gần khoảng 93% các hộ tham gia các lớp tập huấn mà Trung tâm
khuyến Nông-Lâm-Ngư tỉnh chỉ đạo, ước tính cao nhất từ trước đến nay.
Hiện tại trên địa bàn tỉnh hoạt động sản xuất nông nghiệp đặc biệt chăn
nuôi luôn đi đầu trong việc ứng dụng các tiến bộ vào sản xuất như ứng dụng
công nghệ sinh học, các đề án chăn nuôi lợn thương phẩm, hay các chuyển giao
tiến bộ mới. Và nổi bật mới đây việc triển khai chăn nuôi gia súc, gia cầm trên
đệm lót sinh học mang lại hiệu quả cao và có ý nghĩa thiết thực. Trên địa bàn
toàn tỉnh có gần 1200 hộ có quy mô vừa và nhỏ, trang trại, gia trại tập trung chủ
yếu tại các huyện như Quảng Điền, Phong Điền, Phú Vang,... đã ứng dụng công
nghệ này vào chăn nuôi lợn và gà nhằm giải quyết lượng phân, nước thải do vật
nuôi thải ra, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường và đáp ứng nhu cầu thiết
thực cũng như tâm tư nguyện vọng của người dân trên địa bàn toàn tỉnh [10].
Từ năm 2013, thông qua triển khai các mô hình, Trạm Khuyến nông lâm
ngư huyện triển khai mô hình nuôi gà sử dụng đệm lót tại xã Quảng Phước;
Trung tâm Khuyến nông tỉnh triển khai mô hình nuôi lợn sử dụng đệm lót sinh
học tại xã Quảng Phước, mô hình nuôi gà sử dụng đệm lót sinh học tại xã Quảng
An; ngoài ra từ nguồn vốn chính sách bảo vệ, phát triển đất trồng lúa năm 2013
đã triển khai mô hình nuôi gà có sử dụng đệm lót sinh học tại các xã Quảng
Vinh, Quảng An, Quảng Thành, Quảng Phước, Quảng Lợi, Quảng Thái và
Quảng Công, chăn nuôi có sử dụng đệm lót sinh học được áp dụng tại nhiều địa
phương trên địa bàn huyện và hiện đang được nhân rộng.
Hiện tại trên địa bàn huyện có 95 hộ chăn nuôi có sử dụng đệm lót sinh
học, trong đó có 35 hộ chăn nuôi lợn có sử dụng đệm lót sinh học với tổng đàn
330 con, diện tích là 578m2; 60 hộ chăn nuôi gà có sử dụng đệm lót sinh học với
12
tổng đàn 12.260 con, diện tích 5.360m2. Chế phẩm sinh học đang được sử dụng
làm đệm lót trong chăn nuôi trên địa bàn là Balasa N01.
13
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào các hộ chăn nuôi lợn sử dụng đệm lót sinh học
và các hộ chăn nuôi sử dụng khí sinh học trên địa bàn xã Quảng Phước, huyện
Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.2.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế là một trong những xã có tổng đàn lợn thịt lớn trên địa bàn huyện. Có
điều kiện tự nhiên thuận lợi, diện tích vùng đất cát nội đồng lớn- cho hoạt động
chăn nuôi lợn thịt, khả năng mở rộng quy hoạch vùng chăn nuôi tập trung lớn
của huyện. Đặc biệt xã có vị trí thuận lợi cho việc giao lưu khoa học kỹ thuật,
cũng như lưu thông hàng hóa nhờ các hệ thống đường giao thông liên tỉnh ngày
càng được mở rộng và nâng cấp.
Phạm vi về thời gian: từ ngày 09/01/2015 đến ngày 12/05/2015.
3.3.
Nội dung nghiên cứu
3.1.
3.3.1.Tìm hiểu mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh học ở xã Quảng
Phước huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế
+ Tình hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh học ở xã Quảng Phước, huyện
Quảng Điền: Chủ yếu xem xét các biến sau:
•
•
•
•
•
•
Thời gian bắt đầu áp dụng.
Quy mô đàn lợn của mỗi hộ tham gia.
Tổng đàn lợn được chăn nuôi qua các năm 2010-2013.
Số hộ chăn nuôi lợn sử dụng đệm lót sinh học.
Hình thức chăn nuôi lợn.
Nguồn cung cấp thức ăn; giống; thuốc thú y cho hoạt động chăn nuôi lợn.
3.3.2. Mô tả quy trình kỹ thuật của mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh
học
+ Các bước xây dựng mô hình
•
•
Chuẩn bị xây dựng mô hình, thực hiện mô hình, đánh giá nhân rộng mô hình.
Các biện pháp kĩ thuật xây dựng, và thực hiện mô hình.
•
•
•
Vật liệu bao gồm những loại gì?
Kĩ thuật làm,bảo quản đệm lót đúng cách và sử dụng được lâu dài.
Cách thức tiến hành làm 1 đệm lót của 1 hộ chăn nuôi.
14
•
•
•
•
•
Quá trình thay đệm lót.
+ Thích ứng của đàn lợn trên đệm lót
Tỉ lệ tăng trọng của đàn lợn ( kg/tháng).
Tốc độ sinh trưởng và phát triển của đàn lợn.
Tỉ lệ mắc các bệnh như tiêu chảy, thương hàn, hay thối bàn chân ở lợn con.
Bình quân số lứa/năm của hộ gia đình tham gia sử dụng đệm lót sinh học trong
chăn nuôi.
3.3.3.
Đánh giá hiệu quả của mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh học
+ Đặc điểm nông hộ nghiên cứu: Số nhân khẩu, số lao động, độ tuổi,
trình độ văn hóa của chủ hộ, cơ cấu thu nhập của hộ, phương tiện sản xuất
của hộ.
+ Hiệu quả kinh tế của mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh học :
Chủ yếu xem xét các biến sau: tổng doanh thu, chi phí biến đổi (thức ăn, điện
nước, thuốc thú y, giống, …), lợi nhuận, doanh thu/tổng chi phí,…
3.4. Những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
Để xác định và làm rõ hiệu quả mà mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót
sinh học nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào hiệu quả kinh tế ở các biến: Tổng
chi phí (TC), chi phí trung gian (IC), giá trị sản xuất (GO), giá trị gia tăng (VA),
thu nhập hỗn hợp(MI), lợi nhuận (PR) và các chỉ tiêu so sách GO/IC, VA/IC,
MI/IC, Pr/IC. Bên cạnh đó tìm hiểu so sánh hiệu quả xã hội, và hiệu quả môi
trường mà mô hình đệm lót sinh học mang lại, nhằm so sánh với hiệu quả sử
dụng KSH.
•
3.5. Phương pháp nghiên cứu
3.5.1. Phương pháp thu thập số liệu
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
+ Thu thập thông tin qua báo cáo kinh tế xã hội của xã qua các năm từ
2012-2014, các tạp chí ấn phẩm trên internet và từ các bài khóa luận của các
sinh viên khóa trước.
• Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
+ Phỏng vấn 40 hộ khảo sát bao gồm 20 hộ sử dụng đệm lót sinh học và 20
hộ sử dụng khí sinh học nhằm so sánh đối chứng hiệu quả trong chăn nuôi của 2
hình thức.
+ Phỏng vấn 1 cán bộ Phòng nông nghiệp, 1 cán bộ trạm khuyến nông
huyện và 3 cán bộ thú y xã.
15
+ Cách thức tiến hành chọn mẫu: với phương pháp chọn ngẫu nhiên có định
hướng, dựa trên danh sách các hộ chăn nuôi lợn có sử dụng đệm lót sinh học và
sử dụng khí sinh học, sau đó chọn ngẫu nhiên các hộ.
+ Nghiên cứu của chúng tôi mục đích so sánh hiệu quả sản xuất giữa các
nhóm hộ về sử dụng hình thức chăn nuôi khác nhau. Về các mặt, kinh tế-xã hội
và môi trường, thông qua một số chỉ tiêu đánh giá cơ bản. Từ đó giúp người dân
có sự lựa chọn và hoạch định phù hợp với điều kiện hộ gia đình về phát triển đầu
tư vào hoạt động chăn nuôi lợn thịt của hộ.
+ Phỏng vấn người am hiểu, phỏng vấn sâu các cán bộ của Phòng Nông
nghiệp, cán bộ thú y xã về hiệu quả cũng như tình hình dịch bệnh khi sử dụng
đệm lót sinh học.
3.5.2. Phương pháp xử lý số liệu
+ Tổng hợp thông tin, dữ liệu: tất cả các số liệu điều tra được mã hóa, nhập
và xử lí thống kê bằng các phép tính trên phần mềm Excel.
+ Phương pháp phân tích: nghiên cứu sử dụng 2 phương pháp là phân tích
định tính và phân tích định lượng.
+ Tiến hành phân tích, so sánh, đối chứng để thấy được sự khác nhau hiệu
quả kinh tế giữa chăn nuôi lợn sử dụng đệm lót sinh học với hộ sử dụng khí sinh
học về cả 3 mặt kinh tế, xã hội, môi trường, để từ đó tìm ra sự cần thiết và hiệu
quả của việc áp dụng mô hình này vào trong hoạt động chăn nuôi lợn của gia
đình, bước đầu đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng và mở rộng quy mô
áp dụng mô hình trên địa bàn nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ dân
ở địa phương, hạn chế sự ô nhiễm môi trường.
16
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Tổng quan điểm ngiên cứu
4.1.1. Vị trí địa lí
Quảng Phước là xã đồng bằng chiêm trũng ven phá Tam Giang ở cuối
hạ lưu sông Bồ, nằm về phía Đông Nam của huyện Quảng Điền, cách thành phố
Huế 18 km về phía Đông Bắc. Với tổng diện tích tự nhiên là 1.267,77 ha.
Điểm nghiên cứu
Với địa hình phía Nam giáp xã Quảng Thọ, phía Bắc giáp Quảng Công,
phía Đông giáp xã Quảng An, phía Tây giáp Thị Trấn Sịa. Quảng Phước là
địa bàn có lợi thế trong giao thông, trao đổi học hỏi tiếp thu các tiến bộ và
tạo điều kiện thuận lợi trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi với
các xã lân cận.
4.1.2. Đặc điểm địa hình và tự nhiên
Xã Quảng Phước có địa hình bằng phẳng, nằm cuối hạ lưu sông Bồ là vùng
đất thấp trũng nên hàng năm chịu nhiều thiệt hại do bão lũ gây ra và ngập úng.
Có thể chia làm 2 vùng đất chính:
Vùng nằm sát phá Tam Giang gồm có 5 thôn: Mai Dương, Phước Lý,
Phước Lâm, Hà Đồ và Phước Lập là vùng thấp trũng, đất đai thường xuyên bị
nhiễm mặn. Vì vậy trong sản xuất nông nghiệp thường bị mất mùa do ngập mặn
nên vùng này chủ yếu là nuôi trồng thuỷ sản (chiếm trên 40%).
17
Vùng đồng bằng phía Nam gồm có 3 thôn: Thủ Lễ II, Thủ Lễ III và
Khuông Phò chạy dọc theo tuyến tỉnh lộ 4B đây là vùng trọng điểm lúa của xã,
đồng thời là tuyến giao thông huyết mạch nối với các xã trong Huyện và là trục
giao thông chính nối liền huyện lỵ Quảng Điền với thành phố Huế.
Địa hình của xã Quảng Phước mang đặc điểm chung của vùng canh tác lúa
nước và hoa màu, hàng năm thường xuyên bị ngập úng (với mức độ ngập sâu)
vào mùa mưa, ảnh hưởng đến việc sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ
tầng, đường giao thông nông thôn đi lại khó khăn vào mùa mưa.
Quảng Phước nằm trong vùng đồng bằng ven biển miền Trung nên khí
hậu thời tiết gặp nhiều bất lợi, khí hậu trong năm phân thành 2 mùa rõ rệt. Mùa
khô bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau.
Điều kiện khí hậu là một trong những yếu tố quan trọng trong phát triển
nông nghiệp nói chung và trong hoạt động chăn nuôi lợn thịt nói riêng của xã.
Với khí hậu nóng ẩm thích hợp cho sự sinh trưởng của đàn lợn, nhưng đồng thời
cũng thuận lợi cho mầm móng các loại bệnh gây hại cho lợn phát triển. Vì vậy,
người sản xuất phải nắm chắc khí hậu, thời tiết là điều kiện để đưa ra những
hướng sản xuất trong nông nghiệp hợp lý. Từ đó bố trí cây trồng hợp lý, đảm
bảo nguồn thức ăn cho chăn nuôi. Đồng thời có biện pháp đề phòng dịch bệnh,
che chắn bảo vệ đàn lợn khỏi các yếu tố bất lợi của thời tiết hợp lý.
4.1.3. Đặc điểm nhân khẩu, lao động và phân loại hộ của vùng nghiên cứu
Quảng Phước là xã có nguồn lao động dồi dào với tổng số hộ trên xã luôn
ở mức cao và tăng nhẹ qua các năm. Cho thấy tốc độ phát triển kinh tế của xã
cũng từ đó có bước chuyển biến. Để thấy rõ đặc điểm nhân khẩu, lao động và
phân loại hộ của xã Quảng Phước qua bảng 4.1:
18
Bảng 4.1. Đặc điểm nhân khẩu, lao động và phân loại hộ của xã
Quảng Phước qua 3 năm 2012 - 2014
Năm
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2013 Năm 2014
2012
- Tổng số hộ
1913
Hộ
1891
2035
+ Hộ nông nghiệp
1234
Hộ
1217
1325
+ Hộ phi nông nghiệp
679
Hộ
674
710
- Tổng nhân khẩu
8018
Khẩu
7892
8188
- Tổng số lao động
4893
Lao động
4387
5095
+ Lao động nông nghiệp
3094
Lao động
2800
3311
+ Lao động ngành nghề, dịch
1799
Lao động
1587
1784
vụ
4,10
- Bình quân khẩu/hộ
Khẩu/hộ
4,10
4
Lao
- Bình quân lao động/hộ
2,30
2,50
2,50
đồng/hộ
372
- Tỷ lệ hộ nghèo
Hộ
389
354
(Nguồn:UBND Quảng Phước, 2012-1014 )
Theo số kiệu điều tra ở bảng 4.1 ta thấy được số lượng hộ qua các năm tăng
đều kéo theo đó là số nhân khẩu và số lao động cũng tăng lên. Cụ thể năm 2012
với 1.891 hộ trong đó có 7.892 nhân khẩu và 4.387 lao động. Bình quân ở mức
4,1 khẩu/hộ và 2,3 lao động/hộ. Đến năm 2014 số hộ trên địa bàn xã có sự tăng
nhẹ lên 2.035 hộ. Về lao động trong độ tuổi của xã rất lớn và tương đối trẻ, có
trình độ. Hiện có 5.095 lao động trong độ tuổi, chiếm 62,25% dân số của xã,
trong đó khoảng 2.800 đã qua đào tạo (chiếm 54,9%). Tỷ lệ lao động trong lĩnh
vực nông nghiệp ngày càng có xu hướng giảm so với trước, cụ thể là: Nông
nghiệp 3.311 lao động chiếm 65%, ngành nghề dịch vụ 1.784 lao động chiếm
35%. Tỷ lệ lao động bình quân/hộ đạt 2,50 cao so với mức bình quân số khẩu/hộ
là 4 khẩu. Tỷ lệ hộ nghèo trong toàn xã có xu hướng ngày càng giảm, năm 2012
với 389 hộ đến năm 2014 hiện chỉ còn 354 hộ, chiếm tỷ lệ 20,30%. Xã luôn nổ
lực cùng với nguồn hỗ trợ của các cấp trên trong việc quan tâm hỗ trợ xây dựng
nhà ở cho hộ nghèo, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các hộ đã thoát nghèo phát triển
sản xuất, tránh trường hợp tái nghèo.
Nhìn chung tình hình lao động cũng như nhân khẩu trên địa bàn xã đang
ngày một được nâng cao và đào tạo tốt nhằm cải thiện tình hình kinh tế xã hội
của địa phương thông qua lao động trẻ có tay nghề.
19
4.1.4. Đặc điểm hoạt động sản xuất của vùng nghiên cứu
4.1.4.1.Tình hình sử dụng đất đai
Đất đai là tài nguyên vô cùng quan trọng đối với mỗi địa phương. Đất đai
giúp địa phương phát triển mạnh về kinh tế, ổn định về an sinh xã hội. Quảng
Phước là xã thấp trũng, sản xuất nông nghiệp là ngành nghề chính, diện tích đất
mặt nước và đất nông nghiệp là rất lớn. Chính vì vây, chúng tôi đã tìm hiểu về
hiện trạng sử dụng đất của xã và kết quả được trình bày ở bảng 4.1:
Bảng 4.2. Hiện trạng sử dụng đất ở xã Quảng Phước năm 2014
Chỉ tiêu
Diện tích (ha)
Tổng diện tích tự nhiên
1. Đất nông nghiệp
+ Đất trồng trọt
+ Đất chăn nuôi
2. Diện tích đất phi nông nghiệp
+ Đất ở
+ Đất chuyên dùng
+ Đất tôn giáo tín ngưỡng
+ Đất nghĩa trang, nghĩa địa
+ Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng
3. Đất chưa sử dụng
1.267,77
689,89
539,49
150,40
563,60
69,31
97,17
6,32
11,29
379,51
14,27
Tỉ lệ
(%)
100
54,42
42,55
11,87
44,46
5,48
7,66
0,50
0,89
29,94
1,13
(Nguồn: UBND xã Quảng Phước, 2014)
Số liệu ở bảng 4.2 cho thấy, tổng diện tích đất tự nhiên của Quảng Phước là
1.267,77 ha. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt và chăn
nuôi là 689,89 ha, chiếm 54,42% và diện tích đất sông suối là mặt nước chuyên
dùng là 379,51ha, chiếm 29,94% tổng diện tích đất tự nhiên. Đây là điều kiện
thuận lợi cho xã triển khai các hoạt động trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản và chăn
nuôi. Chính vì vậy, đây là một trong số những xã có thế mạnh phát triển chăn
nuôi và thoát nghèo cao nhất trên địa bàn toàn huyện.
Đất đai của Quảng Phước có nguồn gốc từ đất phù sa được bồi tụ bởi con
sông Bồ, thành phần cơ giới chủ yếu là thịt nhẹ, thịt trung bình. Đây là loại đất
phù sa có tầng đất mặt giàu hữu cơ rất phù hợp cho sản xuất nông nghiệp, mặc
dù quá trình khai phá sử dụng loại đất này không lâu nhưng có triển vọng sử
dụng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, thích hợp cho việc trồng lúa, cây ăn
quả, hoa màu và nuôi trồng thuỷ sản.
20
Mặt khác, do điều kiện địa hình trũng thường xuyên bị ngập và nhiễm
mặn nên đất đai của xã có một phần diện tích bị nhiễm phèn, gây khó khăn cho
sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên đất bị nhiễm phèn chưa nặng, độ pH còn thấp,
nên vẫn có thể cải tạo được để sử dụng vào sản xuất và nuôi trồng thuỷ sản. Do
đó, để sử dụng có hiệu quả quỹ đất đai hiện có, cần phải quan tâm tới công tác
thuỷ lợi và giải quyết lũ lụt, cần có biện pháp cải tạo đất nhiễm phèn.
4.1.4.2. Khái quát về hoạt động sản xuất của vùng nghiên cứu
Nhìn chung nền sản xuất của xã chủ yếu còn dựa vào sản xuất nông
nghiệp là chính. Nhưng bên cạnh đó địa phương cũng đã tích cực khai thác các
nguồn tài nguyên thế mạnh của xã về các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ. Do đó mà doanh thu của các ngành về kinh doanh dịch vụ
đều tăng qua các năm và chiếm tỉ trọng lớn trong tất cả các ngành. Tuy nhiên
sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo trong kinh tế của xã với sự đa dạng
về cây trồng vật nuôi. Đồng thời xã còn chú trọng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với xu thế phát triển.
Điều này làm cho doanh thu của xã ở tất cả các lĩnh vực biến động qua các năm
như sau:
Bảng 4.3. Cơ cấu thu nhập của xã qua 3 năm 2012 -2014
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Quy mô
Quy mô
Cơ
Quy mô
Cơ cấu
Cơ cấu
Nguồn thu
(triệu
(triệu
cấu
(triệu
(%)
(%)
đồng)
đồng)
(%)
đồng)
- Nông nghiệp 48.843
35
49.850
32,30
52.930
20,10
+ Trồng trọt
24.784
17,80
22.676
14,70
27.392
10,40
+ Chăn nuôi
24.059
17,20
27.174
17,60
25.538
9,70
- Nuôi trồng
20.259
14,50
22.395
14,50
29.515
11,20
thuỷ sản
- CN-TTCN68,70
69.914
50,50
81.880
53,20
180.656
DV
Tổng
139.016
100
154.125
100
263.101
100
(Nguồn: UBND xã Quảng Phước, 2012-2014)
Bảng trên cho ta thấy cơ cấu doanh thu của xã trong các năm từ 2012 đến
2014 có sự biến động nhẹ ở các ngành như trồng trọt và chăn nuôi. Giá trị sản
xuất ngành trồng trọt có sự biến động, năm 2013 là 723,10ha giảm 3,71ha so với
năm 2012. Nguyên nhân chính là do diễn biến của thời tiết nắng hạn, chuột phá
21
hại và bị chua phèn nhiễm mặn đã làm hư hỏng 26,31ha. Trong đó có 14ha bị
chuột phá hoại và có 12,31ha bị nhiễm mặn chua phèn nhưng bà con nhân dân
đã tích cực dặm tỉa còn lại 3,71ha do bị nhiễm mặn quá nhiều không thể khắc
phục nên phải bỏ hoang. Từ đó năng suất bình quân đạt 56 tạ/ha/vụ giảm 6
tạ/ha/vụ so với năm 2012. Sản lượng thu được đạt 4.049 tấn giảm 456 tấn. Giá
trị thu được 22 tỷ 676 triệu đồng đạt 90,76% so với kế hoạch năm là 24 tỷ 983
triệu đồng giảm 8,5% so với năm 2012. Đứng trước thách thức đó xã đã tăng
cường việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, công nghệ sinh học vào sản
xuất, đặc biệt đưa giống lúa cấp I vào diện tích gieo trồng, hỗ trợ phát triển các
dịch vụ sản xuất, giải quyết kịp thời các chính sách như: miễn giảm thủy lợi phí,
cơ giới hóa trong nông nghiệp, góp phần hỗ trợ người dân và đẩy nhanh tiến độ
sản xuất, đến nay toàn xã có 8 máy gặt đập liên hợp có 8 máy cày lớn phục vụ
tốt cho khâu làm đất và thu hoạch kịp thời vụ. Từ đó, tổng diện tích đưa vào sản
xuất năm 2014 là 724.68 ha tăng 1,58 ha so với năm 2013. Nhìn chung tiến độ
gieo cấy cơ bản đảm bảo theo khung lịch thời vụ. Tuy nhiên bước vào đầu vụ
Đông Xuân do ảnh hưởng diễn biến của thời tiết khắc nghiệt, nhiều đợt rét đậm,
rét hại kéo dài từ 20 - 25 ngày, còn vụ Hè thu nắng hạn gây nhiễm mặn, nhiễm
phèn các chân ruộng trũng đã làm 32 ha/2 vụ bị chết, UBND xã đã chỉ đạo các
HTX nông nghiệp kịp thời và cho gieo cấy lại các diện tích bị chết không có
diện tích bỏ hoang. Năng suất bình quân đạt: 67,50 tạ/ha/1vụ/ tăng 11,50
tạ/ha/vụ so với năm 2013. Sản lượng thu được đạt 4.891,50 tấn tăng 842,50 tấn.
Giá trị thu được 27 tỷ 392 triệu đồng.
Giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi trên địa bàn xã cũng tăng đều từ 24 tỷ
059 triệu đồng năm 2012 lên 27 tỷ 174 triệu đồng nhưng lại có sự biến động nhẹ
ở năm 2014. Nguyên nhân là do đầu năm giá cả thức ăn tăng cao, giá đầu ra
không ổn định, dịch bệnh chăn nuôi diễn biến phức tạp nên các hộ chăn nuôi
không mạnh dạng đầu tư. Tổng đàn gia súc, gia cầm có mặt thường xuyên trong
năm như sau: đàn lợn 2.370 con (trong đó 806 con lợn nái) giảm 485 con so với
năm 2013; đàn trâu duy trì ổn định với 80 con, đàn bò 20 con; đàn gia thủy cầm
48.886 con trong đó: gia cầm 22.300 con, thủy cầm: 26.586 con. Giá trị thu
được trong năm là 25 tỷ 538 triệu đồng.
Bảng 4.4. Cơ cấu vật nuôi trên địa bàn xã năm 2014
Vật nuôi
Số lượng (con)
Tổng đàn trâu bò
100
Trong đó
Trâu
80
Bò
20
22
Tổng đàn lợn
Trong đó
Tổng đàn gia cầm
Trong đó
Lợn nái
Lợn thịt
Gà
Vịt
2.370
806
1.564
48.886
22.300
26.586
(Nguồn: UBND xã Quảng Phước, 2014)
Một lợi thế và cũng là tiềm năng mà xã đang hướng tới và đầu tư là ngành
nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Với hơn 4 km chiều dài nằm trong hệ đầm
phá Tam Giang - Cầu Hai, sau khi thực hiện tốt chủ trương giải tỏa, sắp xếp lại
nò sáo và chuyển đổi nghề nghiệp trên Phá Tam Giang, đúng quy hoạch phân
vùng khai thác nghề nò sáo, cũng cố duy trì 3 hội nghề cá đi vào hoạt động và
vận động nhân dân khai thác gắn với bảo vệ môi trường đúng nghề đảm bảo có
hiệu quả thì tổng giá trị đánh bắt và NTTS đạt 29 tỷ 515 triệu đồng.
Là xã giáp với trung tâm huyện lỵ Quảng Điền và có tuyến đường chính từ
trung tâm xã đến thành phố Huế ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ ngày càng được phát triển và nhân rộng. Nghề nề, mộc, dịch vụ xay
xát, điện tử ngày một phát triển vì vậy đã góp phần tận dụng thời gian lao dộng
nhàn rỗi, giải quyết việc làm cho người lao động tăng thu nhập kinh tế hộ gia
đình. Điều đó khiến giá trị sản xuất của ngành nghề này luôn duy trì và tăng đều
ở 3 năm trong cơ cấu thu nhập của toàn xã. Năm 2014, thu nhập từ tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ 88 tỷ 641triệu đồng, thu nhập khác 20 tỷ 015 triệu đồng.
23
ĐVT: Tỉ đồng
(Nguồn: Báo cáo KT-XH,2012- 2014)
Biểu đồ 1. Biến động thu nhập của xã Quảng Phước trong 3 năm 2012-2014
4.2. Tình hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh học tại xã Quảng Phước,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
4.2.1. Quá trình phát triển của mô hình
Cùng với các địa phương khác trên địa bàn huyện, phần lớn nhân dân xã
Quảng Phước sống bằng nghề nông với cơ cấu cây trồng phong phú nên nguồn
thức ăn từ phế phụ phẩm của nông nghiệp dồi dào. Đây chính là điều kiện thuận
lợi cho chăn nuôi gia súc gia cầm. Tuy nhiên, việc chăn nuôi của các hộ gia đình
còn nhỏ lẻ, tự phát, chưa có quy hoạch. Thời gian gần đây, nhiều hộ dân trên địa
bàn huyện cũng như trên địa bàn xã đã phát triển đàn nuôi lên vài trăm m 2,
nhưng không xử lý phân chuồng triệt để dẫn đến mùi hôi, ruồi muỗi cũng như ô
nhiễm môi trường ảnh hưởng đến người dân xung quanh. Xã Quảng Phước có
thế mạnh trong chăn nuôi trồng trọt, những năm qua, chăn nuôi gia súc, gia cầm
đã góp phần đáng kể vào việc cải thiện thu nhập, nâng cao mức sống của người
dân. Phát triển chăn nuôi gắn với bảo vệ môi trường là vấn đề đang được các
cấp, các ngành quan tâm, mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh học được
triển khai thử nghiệm tại xã Quảng Phước đã mở ra hướng triển vọng trong chăn
nuôi an toàn thân thiện với môi trường.
Chăn nuôi là một tác nhân gây ô nhiễm môi trường tại nhiều địa phương.
Đầu năm 2013, Trung tâm Khuyến nông lâm ngư tỉnh phối hợp với các cấp các
ngành cũng như đề xuất triển khai mô hình nuôi lợn sử dụng đệm lót sinh học ở
xã Quảng Phước bước đầu với 15 hộ dân tham gia. Điều kiện tham gia dự án,
mỗi hộ đưa vào nuôi 9 con lợn thịt, các hộ tham gia mô hình còn được tập huấn
vềTheo
kỹ thuật
hỗ trợ
phần viên
con giống,
phí nghiệp
thức ănphát
để thực
mô
anh nuôi
PhanvàVăn
Lự một
- chuyên
phòng chi
Nông
triểnhiện
nông
hình.
mô hình
người
dân trong
cũngnuôi
nhưcho
cácbiết:“phương
hộ chăn nuôi
thônBước
huyệnđầu
Quảng
Điền được
chuyên
phụ trách
mảngxãchăn
trên
địachăn
bàn huyện
tíchlợn
cựcđệm
thamlótgia
nghiệm.
pháp
nuôi trên
lênthử
men
là phương pháp chăn nuôi động vật
trên nền lót chuồng có chứa một quần thể vi sinh vật có thể tồn tại cùng nhau
lâu dài trong đệm lót có khả năng phân giải chất hữu cơ và ức chế các vi
sinh vật có hại gây bệnh nên có tác dụng lên men tiêu hủy phân, nước tiểu
làm giảm khí độc và mùi hôi trong chuồng nuôi tạo môi trường trong sạch
không ô nhiễm ít ruồi muỗi và vi sinh vật gây hại. Do đó con vật sống khỏe
mạnh, tăng sinh trưởng và có sức đề kháng cao tăng thu nhập ổn định cuộc24
sống cho người dân toàn huyện nói chung và người dân xã Quảng Phước nói
riêng”.
4.2.2. Tiến trình xây dựng mô hình
Với chủ trương chuyển đổi giống cây trồng vật nuôi, giảm thiểu ô nhiễm
môi trường trong nông nghiệp cũng như áp dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt
động chăn nuôi nhằm tăng thu nhập cho các hộ nông dân. Trong năm vừa qua,
với sự hỗ trợ của nhà nước, Trung tâm khuyến nông tỉnh Thừa Thiên Huế phối
hợp với phòng Nông nghiệp phát triển nông thôn huyện và Trạm khuyến Nông Lâm - Ngư huyện chuyển giao mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót sinh học tại
xã Quảng Phước huyện Quảng Điền.
Tiến trình triển khai mô hình được thực hiện theo 3 giai đoạn chính được
minh họa qua sơ đồ 1.
25