Tải bản đầy đủ (.doc) (152 trang)

de tai ĐẶNG NGUYỆT đề tài NCKH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.28 KB, 152 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


ĐẶNG THỊ NGUYỆT

ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC DAO
QUA TỤC NGỮ

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Chuyên ngành:

Sư phạm Ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Kiến Thọ

Thái Nguyên, năm 2015

i


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ..................................................................................................i
MỤC LỤC.......................................................................................................ii
DANH MỤC BẢNG.......................................................................................iv
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................5
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................14
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA DÂN TỘC DAO......................14
1.1. Lịch sử tộc người.......................................................................................................15


1.2. Đời sống kinh tế........................................................................................................19
1.3. Đời sống văn hoá.......................................................................................................23
1.3.1. Ngôn ngữ và chữ viết.............................................................................................23
1.3.2. Trang phục..............................................................................................................24
1.3.3. Thôn xóm và nhà ở.................................................................................................26
1.3.4. Đời sống tâm linh...................................................................................................27
1.3.5. Ăn uống, y học dân tộc...........................................................................................36
1.3.6. Văn nghệ dân gian..................................................................................................37

Chương 2: TỤC NGỮ - KHO KINH NGHIỆM DÂN GIAN PHONG
PHÚ CỦA DÂN TỘC DAO..........................................................................41
2.1. Vị trí của tục ngữ trong đời sống dân tộc Dao..........................................................41
2.2. Khái niệm về văn hóa ứng xử....................................................................................46
2.3. Tục ngữ Dao – Văn hóa ứng xử của người Dao với môi trường tự nhiên và lao động
sản xuất.............................................................................................................................47
2.3.1. Những tri thức về tự nhiên và lao động sản xuất...................................................47
2.3.2. Những đức tính đáng quý của con người lao động................................................55
2.4. Tục ngữ Dao- Những bài ca giáo lý truyền thống của người Dao............................58
2.5. Tục ngữ Dao - biểu hiện tư tưởng đạo đức truyền thống của nhân dân lao động.....62
2.6. Tục ngữ Dao - Văn hóa ứng xử trong cộng đồng người Dao qua tục ngữ................71
2.6.1. Văn hóa ứng xử trong gia đình...............................................................................71
2.7. Tục ngữ Dao – Văn hóa trong giao tiếp....................................................................95
ii


2.8. Tục ngữ Dao – Dấu ấn tín ngưỡng dân tộc...............................................................99

Chương 3: LỐI TƯ DUY DIỄN ĐẠT ĐỘC ĐÁO ĐẶC SẮC CỦA DÂN
TỘC DAO....................................................................................................106
3.1. Không gian và thời gian trong tục ngữ Dao............................................................106

3.1.1. Không gian trong tục ngữ Dao.............................................................................106
3.1.2. Thời gian trong tục ngữ Dao................................................................................109
3.2. Cấu trúc của tục ngữ Dao........................................................................................110
3.2.1. Tục ngữ Dao đa dạng và linh hoạt về cấu trúc.....................................................110
3.2.2. Tục ngữ Dao có tính chất đối xứng......................................................................115
3.2.3. Các kiểu cấu trúc câu trong tục ngữ dân tộc Dao.................................................116
3.3. Tục ngữ Dao đa dạng và linh hoạt về vần, nhịp......................................................118
3.3.1. Vần trong tục ngữ Dao.........................................................................................118
3.3.2. Nhịp trong tục ngữ Dao........................................................................................122
3.4. Kết cấu lặp trong tục ngữ Dao.................................................................................124
3.5. Ngôn ngữ trong tục ngữ dân tộc Dao......................................................................126
3.5.1. Ngôn ngữ Dao thể hiện lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân........................127
3.5.2. Ngôn ngữ trừu tượng, Hán - Việt.........................................................................128
3.6. Các kiểu suy luận của người Dao trong tục ngữ.....................................................128
3.6.1. Liên hệ tương đồng..............................................................................................129
3.6.2 Liên hệ không tương đồng....................................................................................130
3.6.3. Liên hệ tương phản, đối lập..................................................................................131
3.6.4. Liên hệ nhân quả, phụ thuộc................................................................................132
3.7. Dấu ấn văn hóa nông nghiệp qua hệ thống hình ảnh mang tính biểu tượng trong tục
ngữ dân tộc Dao.............................................................................................................133
3.7.1. Hình ảnh về các hiện tượng tự nhiên....................................................................134
3.7.2. Hình ảnh về thực vật............................................................................................135
3.7.3. Hình ảnh các loài vật trong tục ngữ Dao..............................................................137

PHẦN KẾT LUẬN......................................................................................140
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................142
PHỤ LỤC.....................................................................................................149

iii



DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Bảng thống kê số lượng câu tục ngữ theo chủ đề.......................64
Bảng 2.3. Bảng thống kê tần suất xuất hiện của các mối quan hệ trong gia
đình dân tộc Dao............................................................................................74
Bảng 3.1: Bảng thống kê hình ảnh không gian xuất hiện trong tục ngữ
Dao................................................................................................................107
Bảng 3.2: Bảng thống kê số câu tục ngữ theo số từ..................................114
Bảng 3.3: Bảng thống kê tỷ lệ các mối liên hệ trong trong tục ngữ Dao 129
Bảng 3.4: Bảng thống kê tần số xuất hiện những hình ảnh về tự nhiên,
thực vật và động vật trong tục ngữ Dao....................................................134
Bảng 3.5: Bảng thống kê tần suất của một số hình ảnh về thực vật xuất
hiện trong tục ngữ dân tộc Dao..................................................................136
Bảng 3.6: Bảng thống kê tần số xuất hiện của một số hình ảnh các loài
động vật trong tục ngữ Dao........................................................................137

iv


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ trước đến nay, kho tàng văn hóa các dân tộc thiểu số luôn được các
nhà nghiên cứu quan tâm khai thác. Đặc biệt từ sau “Nghị quyết hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 8 về xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu về lĩnh vực này. Đảng ta đã nhận định: “những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ hội
để chúng ta tiếp thụ những thành quả trí tuệ của loài người, đồng thời cũng đặt ra
những thách thức mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc” [40]. Đúng vậy,

sự phát triển của nền kinh tế thị trường với xu hiến hiện đại hóa đã khiến con người
nhìn ra thế giới nhiều hơn mà không biết rằng trong nội tại của dân tộc mình vẫn
tiềm ẩn những viên ngọc quý. Nghị quyết của Đảng được ban hành, đây là lúc
chúng ta nhìn lại quá khứ để tìm ra những thứ đã tạo nên những giá trị của ngày
hôm nay. Chính sách “ bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số”
đã huy động được đông đảo đội ngũ nghiên cứu hướng về dân tộc để tìm ra những
mảnh ghép đã tạo nên bức tranh văn hóa Việt Nam hiện nay. Rất nhiều công trình
sưu tầm, nghiên cứu,… được tiến hành và đạt được những thành quả đáng quý cả về
văn hóa vật thể lần văn hóa phi vật thể. Là một công dân của nước Việt Nam, hòa
trong dòng chảy của văn hóa các dân tộc Việt Nam, bản thân cũng muốn làm một
điều gì đó để góp phần tô đậm thêm sắc màu đất nước như là một hành động nhằm
giữ cho ngọn lửa văn hóa dân tộc không bao giờ mờ nhạt.
1.2. Dải đất hình chữ S của chúng ta khoác trên mình chiếc áo nhiều màu sắc
được thêu dệt bởi những nét bản sắc văn hóa khác nhau. Bản sắc dân tộc, cái mà
dân tộc nào cũng phải khoác trên mình. Đó là cái đẹp được kết tinh từ bao đời của
ông cha tổ tiên. Là dân tộc đông thứ 9 trong các dân tộc Việt Nam, đã cắm rễ trên
mảnh đất Việt từ lâu đời, dân tộc Dao cũng xác lập cho mình cho mình một không
gian văn hóa riêng, trong không gian đó, cái đẹp về con người, về sinh hoạt, về
nghệ thuật, về phong tục tập quán,… hiện lên như một bức tranh đa màu của cuộc
sống tộc người này. Văn học dân gian là một phần quan trọng tạo nên bức tranh đa
5


màu ấy, trong đó, tục ngữ dân tộc Dao là một “di sản” quý báu làm cho bản sắc văn
hóa của người Dao mãi mãi trường tồn.
Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian mang đậm dấu ấn cốt cách và hơi thở
của con người, sản phẩm của quá trình truyền miệng ấy qua thời gian vẫn giữ được
trong mình một bề dày văn hóa với đầy đủ diện mạo của nó. Hơn nữa, những đặc
trưng của nó như ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, dễ lưu truyền,… đã khiến cho việc sử
dụng tục ngữ được phổ biến hơn so với các thể loại khác, tính đời thường trong tục

ngữ chính là sự gặp gỡ giữa những người dân lao động chất phác với những nét văn
hóa cổ truyền trường tồn trong không gian sống ấy. Với mục đích “Ôn cố tri tân”,
chúng tôi cũng có nguyện vọng soi chiếu lớp tục ngữ để lần tìm những mảng màu
văn hóa hiện đang ẩn mình trong thứ văn học dân gian độc đáo ấy.
1.3. Trên thực tế, nghiên cứu văn hóa dân tộc Dao nói chung và văn học dân
gian Dao nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu nhưng chưa toàn diện, vì những
nghiên cứu chỉ tập trung ở góc độ sưu tầm, biên soạn mang tính chất giới thiệu đến
độc giả kho tàng văn hóa văn học chứ chưa đi sâu vào khai thác cái hay, cái đẹp
trong các công trình đó. Nghiên cứu tục ngữ dân tộc Dao lại càng hạn chế hơn, mới
chỉ xuất hiện các cuốn sách sưu tầm, thống kê và mới chỉ phân tích chúng với tính
chất khái quát ở một phạm vi hẹp, chưa làm nổi bật lên được những nét đặc sắc về
nội dung, nghệ thuật của tục ngữ Dao cũng như đặc trưng văn hóa được thể hiện
trong đó. Những sự hạn chế này đã vô tình tạo nên một khoảng trống trên bộ mặt
văn hóa dân tộc Dao nói riêng cũng như văn hóa dân tộc thiểu số nói chung. Việc
lựa chọn đề tài này của chúng tôi là một sự nỗ lực lấp đầy khoảng trống đó.
1.4. Là người dân tộc Dao, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất đất Quảng Ninh,
nơi mà có số lượng dân tộc Dao đứng thứ hai trong tỉnh. Từ thuở nhỏ đã được tắm
mát trong không gian văn hóa đầy sắc màu của dân tộc Dao, đó là nguồn cảm hứng
thôi thúc tác giả tìm về cội nguồn, tìm về cái nôi của mình để xem ông cha ta đã
ươm mầm cho bông hoa của dân tộc như thế nào mà tất cả đều hiện lên thật sinh
động, muôn hình muôn vè từ cuộc sống, sinh hoạt, đến phong tục tập quán, tín
ngưỡng,... Từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành, không một người dân tộc Dao nào
lại không được ông bà, cha mẹ truyền lại những kinh nghiệm sống quý báu, những

6


lời răn dạy đầy ý nghĩa,… trong mỗi bước bước đường đời cùa mỗi người con dân
tộc Dao đều có sự chỉ đường dẫn lối của thế hệ trước. Và trong mỗi bước đi ấy ông
cha ta đã gieo vào trong tiềm thức của mỗi người những nét đẹp văn hóa như là một

cách giữ cho ngọn lửa văn hoa luôn cháy mãi trong tâm hồn mỗi người. Sự nỗ lực
ấy là điều mà con cháu đời sau đều cần phải khắc cốt ghi tâm. Việc lựa chọn đề tài
này của chúng tôi cũng xuất phát từ mong muốn giữ gìn, phát huy những cái đẹp
mà cha ông đã gieo xuống cho mảnh đất quê hương và để màu xanh ấy luôn hiện
hữa trong tâm hồn của mỗi người đang mang dòng máu dân tộc Dao.
1.5. Đến với văn hóa dân tộc không phải là một sự ngẫu nhiên, mong muốn
tìm về vốn văn hóa dân tộc của mình bằng việc nghiên cứu khoa học được thôi thúc
bởi tình yêu mến, quý trọng các giá trị văn hóa của người hướng dẫn đề tài này,
một người có niềm đam mê sâu sắc với văn học dân tộc thiểu số. Đam mê với văn
học dân tộc cũng như những thành quả mà thầy tạo nên đã thắp cho ngọn lửa tình
yêu dân tộc của chúng tôi trở nên mạnh mẽ. Để chúng tôi có thể tiếp cận với việc
nghiên cứu văn học dân tộc dễ dàng hơn, để ước mơ tìm về với cội nguồn không
còn là niềm mong muốn. Chọn đề tài này vừa để thể hiện sự ngưỡng mộ đối với
thầy và cũng vừa là cách để chúng tôi tiếp nối con đường thầy đã đi.
Đó là động lực thôi thúc chúng tôi đến với mảnh đất dân tộc Dao, khám phá
những điều mà người Dao thể hiện trong tục ngữ. Dẫu biết rằng nghiên cứu khoa
học là một điều khó khăn, bản thân chưa có nhiều kinh nghiệm cũng như năng lực.
Nhưng với lòng nhiệt tâm và sự tự hào dân tộc cũng như bằng niềm đam mê của
chính mình. Chúng tôi sẽ cố phát huy cao nhất sự cố gắng để hoàn thành sản phẩm
này như một lời tri ân đến gia đình, dòng họ, đồng bào Dao và cũng có thể coi đây
là một cơ hội để quảng bá văn hóa dân tộc Dao đến tất cả những người yêu mến và
quý trọng văn hóa dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu văn hóa Dao nói chung, văn học dân tộc Dao nói riêng trong
những gần đây được nhiều giới nghiên cứu quan tâm và đạt được những thành tựu
quan trọng, qua đó những sắc diện văn hóa của dân tộc Dao đã bước đầu được

7



khám phá và giới thiệu rộng rãi, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu và đông đảo bạn đọc.
2.1. Tình hình nghiên cứu văn hóa dân tộc Dao
Nghiên cứu văn hóa dân tộc thiểu số hiện nay ngày càng được quan tâm và
phát triển, là nguồn cảm hứng của rất nhiều người ham mê văn hóa dân tộc. Nhiểu
người đã rất thành công trong xu hướng này. Trong đó, vấn đề nghiên cứu về văn
hóa dân tộc Dao cũng đã đạt được nhiều thành tựu nhất định.
Một trong những nhà nghiên cứu quan tâm đến văn hóa dân tộc Dao và đạt
được nhiều thành tựu rõ rệt hơn cả là Tiến sĩ dân tộc học Trần Hữu Sơn, ông đã
khái quát tình hình nghiên cứu dân tộc Dao trong bài viết “Ngiên cứu người Dao ở
Việt Nam”. Trong bài viết này, tác giả đã liệt kê nhiều công trình có nói đến tộc
người Dao từ rất xa xưa như “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn – công trình được
ra đời năm 1778, đề cập đến nguồn gốc và miêu tả một cách khái quát về cách ăn
mặc, cuộc sống di cư của một nhóm người Dao ở nước ta.Cũng năm đó, tác phẩm
“Hưng hóa phong thổ tục” của Hoàng Bình Chính được xuất bản, giới thiệu đến
độc giả một cách sơ lược về người Dao ở Lào Cai. Năm 1856, nhà sử học Phạm
Thuật Duật viết tác phẩm “Hưng hóa kỉ lược”, công trình này cũng chỉ đề cập đến
phong tục, tập quán của các dân tộc ở Hưng Hóa, trong đó có dân tộc Dao. Tuy
nhiên do chúng không phải là những công trình chuyên sâu nghiên cứu tộc người
Dao mà mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra được một vài nét văn hóa đặc trưng, “hầu hết
các tác phẩm của họ đều giới thiệu sơ lược về tên gọi và một vài đặc điểm về trang
phục, phong tục tập quán người Dao”. [55]. Một vài công trình khác mà tác giả nói
đến trong bài viết này cũng đã giới thiệu được khá đầy đủ về người Dao nhưng lại
chưa tập trung nhiều ở góc độ văn hóa.
Cuốn “Người Dao ở Việt Nam” là công trình của các tác giả Bế Viết Đẳng,
Nguyễn Khắc Tụng, Nam Trung, Nguyễn Nam Tiến, xuất bản năm 1971 đã nghiên
cứu khá quy mô về dân số, địa vị, kinh tế, các nhóm Dao và sinh hoạt vật chất,...
mặc dù cũng chưa đi sâu vào nghiên cứu về văn hóa nhưng có thể coi đây là cơ sở
để các nhà nghiên cứu khác có cơ hội tìm hiểu rõ hơn về văn hóa dân tộc này.


8


Năm 1999, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc đã cho ra đời cuốn sách “Lễ Hội cổ
truyền của người Lào Cai” của Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, giới thiệu về những sinh hoạt
lễ hội truyền thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số ở Lào Cai, trong đó có người
Dao với một số sinh hoạt lễ hội như Tết nhảy, Lễ lập tịch của một số nhóm Dao.
Cuốn sách giới thiệu quy mô nhất về văn hóa dân tộc Dao có lẽ là cuốn
“Người Dao trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” của Đỗ Quang Tụ và Nguyễn
Liễn. Nội dung cuốn sách giúp chúng ta hiểu thêm về lịch sử tộc người, bản sắc văn
hóa, tập tục, nếp sống... và những đóng góp quan trọng của cộng đồng người Dao
trong lịch sử cách mạng của dân tộc, góp phần nâng cao hiểu biết và củng cố khối
đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Đến năm 2002, Thạc sĩ Đỗ Đức Lợi – cán bộ bảo tàng văn hóa các dân tộc
Việt Nam đã đem đến cho độc giả cuốn sách “Tập tục chu kì người đời của các
tộc người ngôn ngữ H’Mông – Dao ở Việt Nam”, do Nhà xuất bản Văn hóa Dân
tộc xuất bản. “Tác giả tập trung công sức và tâm huyết trình bày, phân tích, lý giải
về các tập tục trong chu kì đời người bao gồm: các tập tục liên quan đến sinh đẻ
và nuôi con, tập tục đánh dấu sự trưởng thành, tập tục trong cưới xin, ma chay.
Bạn đọc có thể tìm thấy ở đây hệ thống các nghi lễ gắn liền với cuộc sống mỗi con
người của các dân tộc Mông, Dao, Pà Thẻn trong khung cảnh hùng vĩ vùng cao
phía Bắc với các sắc thái nhóm địa phương tộc người đa dạng trong thống nhất.
Cùng với hoạt động các nghi lễ là một phức hợp về nếp sống tộc người thông qua
quan niệm truyền thống về các giá trị của con người và mối quan hệ gia đình –
cộng đồng” [31].
Một công trình đáng chú ý khác về đề tài văn hóa dân tộc Dao, đó là cuốn
“Người Dao” (2005), do Chu Thái Sơn (chủ biên), Võ Mai Phương thực hiện đã
tập trung nghiên cứu tương đối đầy đủ nhất về người Dao, từ nguồn gốc lịch sử, sự
phân ngành, tập quán kinh tế đến những nét tiêu biểu trong văn hóa vật chất cũng
như tinh thần của dân tộc Dao, đó là nguồn tư liệu đáng quý của tác giả đối với

những ai ham mê văn hóa và văn hóa Dao.
Lại có nhiều công trình nghiên cứu đã có sự tập trung sâu về văn hóa dân tộc
Dao nhưng lại chỉ thực hiện ở một quy mô nhỏ hơn trên một địa bàn cụ thể như

9


“Một số sinh hoạt văn hóa lễ hội của người Dao Họ ở Lào Cai” của Lê Hồng Lý,
“Văn hóa truyền thống của người Dao ở Hà Giang” của Phạm Quàn Hoan, Hùng
Đình Quý, “Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang”
do Ninh Văn Độ chủ biên,...
Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác, nhiều cuốn sách, nhiều bài
báo, tạp chí về dân tộc Dao, nhưng trong phạm vi đề tài chúng tôi chỉ giới thiệu một
số công trình tiêu biểu.
Như vậy, văn hóa dân tộc Dao là một đề tài khá quen thuộc và được nhiều
người quan tâm. Tuy nhiên, qua tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng các công trình này chỉ
tiếp nhận từ một góc độ, đó là văn hóa. Chứ chưa có sự khúc xạ, thâu chiếu từ
những góc nhìn khác nhau. Văn hóa Dao nói riêng cũng như các dân tộc thiểu số
nói chung còn được thể hiện trên rất nhiều phương diện, nhiều loại hình nghệ thuật,
cho nên cần phải được nhìn từ những góc độ khác nhau thì mới thấy được một cách
đa diện hơn những nét đặc sắc của dân tộc này.
2.2. Tình hình nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian dân, tục ngữ dân tộc Dao
Mặc dù những nghiên cứu về văn hóa Dao diễn ra rất sôi nổi, nhưng vấn đề
nghiên cứu văn hóa qua văn học dân gian, đặc biệt là qua tục ngữ Dao còn rất
hạn chế. Ngoài các bài viết về văn hóa, Trần Hữu Sơn còn có niềm đam mê đặc
biệt đối với việc nghiên cứu văn học dân gian dân tộc Dao. Ông có nhiều công
trình sưu tầm, dịch những tri thức dân gian dân tộc Dao và được xuất bản thành
sách như cuốn “Lễ cưới người Dao Tuyển” (2001), “Thơ ca dân gian người
Dao Tuyển” ( 2005),…
Cuốn “Tục ngữ câu đố dân tộc Dao” là công trình đầu tiên sưu tầm tục ngữ

Dao của Trần Hữu Sơn, với 396 câu tục ngữ và 186 câu đố. Với đóng góp này, ông
cũng đã vinh dự được nhận Giải thưởng Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam năm
1998. Năm 2011, ông lại tiếp tục “trình làng” cuốn “Những bài ca giáo lý của
người Dao” ghi chép lại những lời ca mang tính chất răn dạy giáo lý, đạo đức trong
gia đình, cộng đồng và trong đó sử dụng rất nhiều các câu thành ngữ, tục ngữ, châm
ngôn. Với 17 bài ca giáo lý bằng chữ Nôm – Dao và 13 bài được dịch sang tiếng

10


Việt. Chứng tỏ nguồn tri thức dân gian của người Dao rất phong phú và còn nhiều
di sản chưa được khai quật một cách toàn diện.
Ngoài Trần Hữu Sơn, đã có một vài nhà nghiên cứu cũng hướng tới tìm hiểu
tục ngữ Dao sau đó như Đỗ Quang Tụ và Nguyễn Liễn với cuốn “Câu đố, tục ngữ,
dân ca dân tộc Dao” xuất bản năm 2007 và “Thành ngữ, tục ngữ, câu đố các dân
tộc Thái, Giáy, Dao” là đóng góp của nhiều tác giả, tuy nhiên trong cuốn này phần
dành cho tục ngữ Dao chỉ chiếm 50 trên tổng sổ 487 trang.
Một công trình dài tập có đề cập đến tục ngữ Dao cùng với tục ngữ các dân tộc
thiểu số khác là cuốn “Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam”
(tập 1, tập 2), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, công trình này chỉ nhằm giới thiệu đến
độc giả những câu tục ngữ đã được các tác giả khác sưu tầm và biên soạn với mục
đích tổng hợp cũng như có những so sánh giữa các dân tộc thiểu số với nhau, được
sắp xếp theo nhiều chủ đề khác nhau.
Tóm lại, tình hình ngiên cứu tục ngữ dân tộc Dao bắt đầu khá muộn và nhìn
chung chưa phát triển, mặc dù đã có được những đóng góp quan trọng. Còn tiềm ẩn
ở nhiều nơi, trong tiềm thức của nhiều người những câu nói, những kinh nghiệm,
những lời răn dạy,… có giá trị không chỉ cho dân tộc Dao mà còn giá trị với nền
văn học dân gian Việt Nam nói riêng, văn hóa dân tộc nói chung.
Mặc dù trong những cuốn sách trên, các tác giả cũng đã đề cập đến một số nét
đặc trưng về nội dung cũng như nghệ thuật thể hiện trong tục ngữ, nhưng vì mục

đích sưu tầm là chính nên có lẽ những phân tích đó chưa đủ sâu để có thể nhận diện
những cái đặc trưng nhất trong tục ngữ. Có nhiều công trình nói về văn hóa Dao
nhưng chỉ dừng lại ở góc độ sưu tầm, dịch hoặc nói một cách khái quát. Chưa có
một công trình nào chuyên biệt về đặc trưng văn hóa qua tục ngữ Dao. Vậy nên,
chúng tôi thấy rằng, nghiên cứu những nét đặc trưng văn hóa dân tộc Dao qua tục
ngữ là việc làm cần thiết, để nguồn tri thức dân gian quý báu của dân tộc Dao sẽ
hiện lên, hòa vào dòng chảy văn hóa bất tận của dân tộc Việt Nam. Góp thêm một
viên ngọc quý làm lấp lánh thêm cho kho tàng văn hóa chung của cả dân tộc. Cùng
với các giá trị dân gian khác của dân tộc Dao nói riêng, các dân tộc anh em trên
mảnh đất hình chữ S nói chung đã và đang được nghiên cứu trở thành thành trì kiên
cố để nhằm bảo tồn những giá trị văn hóa Việt, dù có hòa nhập vào nền những sắc
11


màu văn hóa thế giới, nhưng giá trị của nó vẫn nguyên vẹn và không bị hòa tan vào
dòng chảy của thời cuộc, những biến động của xã hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Nghiên cứu đặc trưng văn hóa Dao qua tục ngữ, qua đó thấy được những nét
đặc sắc tiêu biểu về nội dung và hình thức nghệ thuật của tục ngữ Dao.
3.2. Phạm vi
Vì chưa có công trình nào tập hợp đầy đủ vốn tục ngữ phong phú của người
Dao, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu bao gồm:
- “Tục ngữ câu đố dân tộc Dao”, Trần Hữu Sơn ( sưu tầm và dịch), NXB Văn
hóa dân tộc, HN, 1999.
- “Thành ngữ, tục ngữ, câu đố các dân tộc Thái, Giáy, Dao”, nhiều tác giả,
NXB Văn hóa dân tộc, HN, 2012.
- “Những bài ca giáo lý của người Dao”, Trần Hữu Sơn ( chủ biên), NXB
văn hóa dân tộc, HN, 2012.
- Tục ngữ do người viết sưu tầm được trong quá trình điền dã.

- Một số câu tục ngữ trong các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan
đến tộc người Dao.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “ Đặc trưng văn hóa dân tộc Dao qua tục ngữ” nhằm:
- Tập hợp đầy đủ và bước đầu chỉ ra quy mô, diện mạo của tục ngữ dân tộc Dao.
- Đi sâu vào nghiên cứu nội dung và hình thức nghệ thuật trong tục ngữ Dao
để chỉ ra những nét đặc trưng trong văn hóa tộc người và nét độc đáo trong phương
thức biểu đạt.
- Chỉ ra dấu ấn giao thoa văn hóa ảnh hưởng tới sự phổ biến tục ngữ dân tộc Dao.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê – phân loại: bởi các công trình sưu tầm , biên dịch
tục ngữ Dao còn khá tản mát, cho nên chúng tôi có sử dụng biện pháp thống kê, tập
hợp các công trình sưu tầm về tục ngữ và phân loại sao cho khoa học và hợp lý.

12


- Phương pháp điền dã: nhằm bổ sung tư liệu cho việc nghiên cứu cũng như
mong muốn có được cái nhìn trực quan sinh động về văn hóa dân tộc Dao, làm cho
đề tài chân thực và khách quan hơn.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: để chỉ ra được những nét đặc trưng về
nội dung và nghệ thuật của tục ngữ Dao.
- Phương pháp so sánh – đối chiếu: nhằm làm nổi bật sự độc đáo của tục
ngữ dân tộc Dao so với các dân tộc khác cũng như những biểu hiện của sự giao
thoa văn hóa.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: đề tài đặt vấn đề xem xét, nghiên cứu
một hiện tượng văn học (tục ngữ) dưới góc độ văn hóa nên chúng tôi có sử dụng
một số phương pháp liên ngành như: Văn hóa học, dân tộc học, ngôn ngữ học,…
6. Đóng góp mới của đề tài

Nếu đề tài của chúng tôi thành công thì sẽ đóng góp vào kho tàng tục ngữ, văn
học dân gian nói riêng cũng như văn hóa dân tộc nói chung những giá trị sau:
- Tập hợp, thống kê tương đối đầy đủ và toàn diện về kho tàng tục ngữ dân tộc
Dao trên cơ sở các cuốn sách, các công trình sưu tầm, biên dịch của các tác giả khác.
- Chỉ ra được những nét đặc trưng mang tính bản sắc của văn hóa dân tộc Dao
qua tục ngữ.
- Là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai đam mê nghiên cứu,
giảng dạy, học tập về dân tộc thiểu số, văn học Dao.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài của
chúng tôi gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về văn hóa dân tộc Dao
- Chương 2: Tục ngữ - Kho kinh nghiệm dân gian phong phú của dân tộc Dao
- Chương 3: Lối tư duy diễn đạt độc đáo và đặc sắc của dân tộc Dao qua tục ngữ

13


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA DÂN TỘC DAO
Nhằm phát hiện những giá trị văn hoá tựa hồ như những viên ngọc quí hiện
đang ẩn mình trong đời sống sinh hoạt và nhất là trong kho tàng văn hoá dân gian,
đặc biệt là tục ngữ, chúng tôi thấy cần phải có một cái nhìn tổng quan về văn hóa
dân tộc này như một thứ chìa khoá để xác định và lí giải những nét văn hóa đặc sắc
và độc đáo trong tục ngữ Dao. Bởi lẽ, như Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa
là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên và xã hội” [66; tr.10]. Hay nói đến văn hoá như một sự cụ thể
hơn những phương diện vật chất và tinh thần, Unesco định nghĩa: “Văn hóa là một
phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình

cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng, gia đình, làng xóm, vùng miền
quốc gia, xã hội,… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền
thống tín ngưỡng…” [69]. Như vậy, văn hóa là sản phẩm của con người, nhưng lại đặt
trong sự tương tác với tự nhiên và phát triển suốt chiều dài lịch sử con người. Mỗi
người đều nằm trong một cộng đồng người với đặc điểm hoàn cảnh địa lý khác
nhau trong những không gian văn hóa khác nhau, văn hóa Việt Nam khác với văn
hóa Trung Quốc, Ấn độ; văn hóa dân tộc Tày khác với văn hóa dân tộc Mông,…
Những sự khác nhau đó chính là đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc. Mang những
đặc điểm của một quốc gia, một khu vực, nhưng mỗi dân tộc đều khoác lên mình
một chiếc áo văn hóa khác với các dân tộc khác bởi họ còn chịu sự chi phối của lịch
sử tộc người, đặc điểm địa hình, tự nhiên, đời sống kinh tế,… Các nhà khoa học đã
đặt bản sắc văn hóa trong sự so sánh đối chiếu giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Tuy nhiên, đó không phải là sự hơn kém mà là sự khác biệt. “Bản” là cái gốc, “sắc”
là cái được biểu hiện ra bên ngoài của sự vật. Bản sắc văn hóa được xem là sức
mạnh nội tại, là hạt nhân duy trì sức sống một dân tộc. “Một dân tộc qua các biến cố
lịch sử nào đó một lúc nào đó, một thời đại nào đó có thể bị mất đi độc lập, bị người

14


ngoài đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được vốn văn hóa dân gian, vẫn giữ và
phát triển được bản sắc văn hóa của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm được chìa khóa
của sự giải phóng, chìa khóa của tự do độc lập” [86]. Bách khoa toàn thư của Liên
Xô có viết: “Mỗi dân tộc đều có những đặc tính của mình, chỉ tiêng mình mới có,
còn các dân tộc khác thì không có. Những đặc điểm đó chính là phần tài sản mà mỗi
dân tộc đóng góp vào kho tàng văn hóa chung của thế giới, làm cho kho tàng này
đầy đủ và phong phú” [86].
Vậy, đâu là đặc trưng văn hoá của người Dao? Đặc trưng văn hoá đó được
biểu hiện như thế nào qua đời sống văn hoá vật thể và phi vật thể? Sự tương đồng

và khác biệt giữa văn hoá Dao và văn hoá của các dân tộc khác ở đây là gì? Tất cả
sẽ được hiện lộ (với một khát khao được làm hiển lộ) qua kho tàng tục ngữ của
người Dao, từ cách tiếp cận văn hoá.
1.1. Lịch sử tộc người
Dân tộc Dao còn có nhiều tên gọi khác như: Mán, Động, Trại, Xá,… đây là
những tên gọi do các dân tộc khác gán cho, còn người Dao lại tự nhận mình là Kìm
Miền hoặc Dìu Miền. Theo cuốn Dân tộc học Việt Nam, định hướng và thành tựu
nghiên cứu cúa tác giả Bế Viết Đẳng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tên gọi “Kìm
Miền” chỉ là một tên phiếm xưng, nghĩa là “người ở rừng” vì cho rằng những tộc
người khác cũng sinh sống ở rừng rất nhiều. Còn “Dìu Miền” thì được cho là hợp lý
hơn cả, phát âm theo Hán Việt thì “Miền” là người, còn “Dìu” là Dao, như vậy “Dìu
Miền” là “người Dao”. Tên gọi “Dao” cũng thường xuất hiện trong các cuốn sách
cổ của người Dao như truyện Quả Bầu Vàng, Quá Sơn Bảng Văn, Bài ca vượt
biển,... Tên “Dao” cũng có mặt trong các cuốn thư tịch cổ của Trung Quốc như sách
“Tùy thư địa chí”, sách “Thuyết man”, “Quế hải ngu hành chí”,... [13; Tr.153, 154,
155]. Như vậy, Dao là tên gọi được chính tộc người này công nhận và được các nhà
nghiên cứu sử dụng. Về dân số, theo số liệu thống kê dân số và nhà ở năm 2009,
dân tộc Dao ở Việt Nam hiện nay có 751.067 người, cư trú ở 23 tỉnh, thành phố,
đứng thứ 9 trong 54 dân tộc anh em. Xét trên phạm vi thế giới, dân tộc Dao cư trú ở
nhiều nước, nhiều nhất ở Trung Quốc ước tính có khoảng 3,5 triệu người Dao, ở
Thái Lan khoảng 5 vạn người, Mỹ là 3 vạn và ở Pháp ước chừng 1.200 người. Về

15


phân loại các nhóm địa phương, dân tộc Dao là một trong những dân tộc hiện nay
có nhiều nhóm địa phương nhất, theo sự phân chia của Nguyễn Khắc Tụng trong
cuốn Người Dao ở Việt Nam thì gồm 7 ngành: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Lô
Gang, Dao Tiền, Dao Quần Trắng, Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn. [54; tr.12].
Mỗi dân tộc đều có cội nguồn riêng của mình. Là một dân tộc độc lập có tên

gọi, có bản sắc riêng bởi người Dao có lịch sử và quá trình di cư khác với các dân
tộc khác. Tìm về quá khứ chính là tìm về nơi người Dao đã vỡ lòng, nơi đã gieo
mầm để những bông hoa tươi đẹp của dân tộc có thể vươn lên khoe sắc trong đại
ngàn văn hóa Việt Nam. Nguồn gốc dân tộc Dao qua huyền thoại là những mảnh
chuyện được tổ tiên của người Dao chắp vá bằng những tình tiết hư cấu, về những
lực lượng siêu nhiên kì ảo với một thái độ kính trọng và suy tôn giống nòi. Dân tộc
Mường có mo Đẻ đất đẻ nước kể về “Ông Thu Tha, bà Thu Thiên” là ông tổ làm ra
đất ra trời và sinh ra người Mường. Người H’Mông có “ông Chày, Bà Chày” nắn
trời đất tạo ra vũ trụ và đất trở dạ sinh ra người Mông. Người Thái có thủy tổ là ông
Tôn được kể trong thần thoại Ẩm ẹt luông,… Còn người Dao, trong kho tàng sách
cổ của mình có ghi lại câu chuyện Quá Sơn Bảng Văn (Bình hoàng khoán điệp) –
một huyền thoại về gốc tích của người Dao kể về Bàn Hồ, là con long khuyển từ
trên trời giáng xuống, “thân dài ba thước, lông đen vằn vàng trông rất kỳ lạ” được
vua Bình Hoàng quý mến. Khi đất nước bị bọn giặc Cao Vương xâm lăng, trong khi
vua và các quần thần đang bày mưu tính kế chống lại kẻ thù, thì Long Khuyển đã từ
trong điện vàng nhảy xuống và xin Bình Vương đi giết Cao Vương. Trước khi ra đi,
Vua hứa với Hồ nếu thành công thì gả công chúa cho. Long khuyển vượt biển hết
bảy ngày bảy đêm thì đến được vùng đất của Cao Hoàng. Lúc đó Cao Hoàng đang
thiết triều, Bàn Hộ bèn nhảy vào điện vàng mà phủ phục. Cao Vương cho đó là
điềm lành nên đã nuôi nó trong triều. Một hôm nhân cơ hội Cao Vương say rượu,
chú Long Khuyển đã cắn chết cao vương và ngoạm đầu mang về trình Bình Vương.
Vua vui mừng gả công chúa cho Hồ, hai vợ chồng cùng vào núi Cố Kê sinh sống và
một thời gian sau sinh được 6 người con trai, 6 người con gái, được nhà vua “sắc
cho được mang các họ Bàn, Lan, Mãn, Uyển, Đặng, Trần, Lương, Tống, Phượng,
Đái, Lưu, Triệu” [28; Tr.235]. Con cháu người Dao sinh sôi nảy nở từ đó.

16


Trong bài ca Bàn Vương Xướng, người Dao quan niệm nguồn gốc vũ trụ và

dân tộc mình là do vị thần “Bàn Cổ” sáng tạo ra:
Thái cực tiên sinh, sinh bàn cổ
Khai bảo nguyên niên vua ra đời
Chưa có trời mà đã có đất
Trước có Ngọc Hoàng với Bàn Cổ
Tôi ra cùng lứa với Ngọc Hoàng
Ngọc Hoàng ba trăm sáu hóa thân
Bàn cổ ba trăm sáu hóa thân
Mắt trái biến thành mặt trời đỏ
Mắt phải biến thành mặt trăng tròn
Cỏ tranh trên đồi là tóc biển
Cá nước dưới biển là tim gan
Răng biến thành vàng bạc
................
Móng chân tay biến thành ngôi sao
Chín khúc minh chu với lục tạng
Ruộng đồng cày cấy là chân ông. [54; tr.79]
Cái nôi của người Dao, chính là vùng đất láng giềng với Việt Nam – Trung
Quốc: “Do nhiều biến cố lịch sử làm cho người Dao ở Trung Quốc phân tán thành
nhiều nhóm nhỏ và rời khỏi cái nôi của mình là dất Châu Dương và Châu Kinh tản
mát đi các nơi để sinh sống, trong đó có một số nhóm đã vào Việt Nam” [54; 13].
Quá trình thiên di của người Dao, một hành trình vượt sóng vượt gió từ mảnh đất xa
xôi được in đậm trong bài ca “Quỷa Khói Duung” (Bài ca vượt biển), tiến sĩ Đặng
Phúc Lường trong cuốn giáo trình của mình đã tóm lược hành trình đó như sau:
“Tốp người Dao vào Việt Nam đầu tiên bằng đường biển. Họ đi trên những chiếc
thuyền bè đơn sơ, nên bị sóng đánh chìm, số người sống sót liền khấn Bàn Vương
che chở cho họ và hứa khi thuyền cập bến đất liền, ổn định cuộc sống họ sẽ bắt lợn
rừng, nấu rượu làm lễ tạ ơn Bàn Vương. Sau khi khấn xong, trời yên biển lặng, chỉ
trong 3 ngày 3 đêm thuyền đã cập bến đất liền, người Dao có đất làm ăn sinh sống


17


đến ngày nay. Có người nói rằng, người Dao đi thuyền cập bến Việt Nam chính là
mảnh đất thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay” [33; Tr.3].
Mặc dù chứa đựng những tình tiết hư cấu, nhưng những câu truyện cổ và
những bài ca truyền tụng của người Dao chính là một trong những cứ liệu quan
trọng để các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, dân tộc học, khảo cổ học, nhà sử học,
nhân chủng học,.. khám phá một cách dễ dàng hơn gốc tích và con đường thiên di
của người Dao. Cho đến nay, người ta công nhận rằng, dân tộc Dao nằm trong khôi
Bách Việt, thuộc ngữ hệ Mông – Dao. Quá trình di cư của họ kéo dài từ thế kỉ XIII
cho đến những năm 40 thế kỉ XX qua nhiều đợt khác nhau. Sống trên mảnh đất
Trung Quốc, cùng với những ảnh hưởng của biến cố lịch sử, hạn hán, mất mùa liên
tiếp nhiều năm đã gây ra bao nhiêu đau thương cho người Dao, khiến họ mất đi
niềm tin vào vùng đất sinh thành và mong ước càng đi kiếm một vùng đất mới kiếm
kế sinh nhai càng mãnh liệt khi họ gặp phải sự áp bức bóc lột nặng nề của giai cấp
thống trị, nhất là dưới các triều đại Nguyên, Minh, Thanh, “bọn quan lại phong kiến
chiếm và thổ ty chiếm hết ruộng đất, núi rừng, thuê người làm không công. Bọn thổ
ty còn bắt tất cả tráng đinh đều phải phục dịch cho chúng,… bị đối xử không bình
đẳng, bị coi là người man di, mọi rợ,… tăng tô thuế, làm cho cuộc sống của người
Dao gặp nhiều gian nan” [13; tr.173].
Mặc dù phải trải qua quá trình thiên di gian khổ và nhiều mất mát, nhưng thực
tại tăm tối đã khiến cho người Dao không còn lựa chọn nào khác, dường như đó là
đó là thử thách đầu tiên đặt ra cho con cháu Bàn Hồ trên con đường bảo vệ giống
nòi thiêng liêng, cao quý:
Nhiều người hiến kế tìm quê mới
Băng qua biển rộng cứu giống nòi
Bảy ngày bảy đêm không bờ bến
Thuyền bè xoáy tít giữa biển khơi
Mọi người đồng lòng cùng cầu nguyện

Ba hôm thuyền đã cập đến bờ…[33; tr.138]
Người Dao di cư vào Việt Nam và tập trung sinh sống ở các tỉnh miền núi dọc
biên giới Việt – Trung, Việt – Lào đến một số tỉnh Trung du và miền núi Bắc bộ.

18


Bỏ lại sau lưng nỗi ám ảnh của một vùng quê đầy đọa đày khổ đau, họ đã đặt chân
lên mảnh đất mới với một niềm kì vọng lớn lao:
Thăm hết các nơi cùng ngõ hẻm.
Đất nước Việt Nam lòng thấy vui,
Việt Nam giàu đẹp đừng quên nhé,
Mau mau dọn nhà đến Việt Nam. [13.tr.174]
Niềm tin yêu vào vùng đất mới khiến cho con cháu Bàn Hồ tự nhận thấy mình
phải có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn và xây dựng quê hương, đất nước. Họ đã cùng
các dân tộc khác trên Việt Nam kiên quyết chống lại ách thống trị và ngoại xâm của
kẻ thù, trong thâm tâm họ tự nhận thấy rằng chỉ có vậy mới xứng đáng để được
sống trên mảnh đất giàu đẹp, bất khuất này, nhận được sự đồng lòng của cả dân tộc
và quan trọng hơn, trở thành một trong 54 dân tộc anh em của Việt Nam.
1.2. Đời sống kinh tế
Dân tộc Dao tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc, một “khu vực núi
non hiểm trở nằm bên tả ngạn sông Hồng” [66. tr.3]. Vùng đất cheo leo, hiểm trở
với “núi xếp nghìn đá dựng”, “men vách đá vực sâu/ qua khe suối rì rào” hùng vĩ
như “tấm áo choàng của đất”, là nơi “chân đồi xóm núi bên lưng” có “trâu gõ mõ,
chó leo thang, ăn cơm lam, ngủ mặt sàn” [71]. Chính điều kiện tự nhiên có phần
khắc nghiệt và hoang dã nơi đây đã chi phối đến kinh tế người Dao – một nền kinh
tế điển hình của vùng núi Bắc Bộ.
Như bao dân tộc khác cùng cư trú, sinh hoạt kinh tế chủ yếu của người Dao là
nông nghiệp với hình thức nương rẫy du canh là chủ yếu, bên cạnh đó còn có nương
định canh và ruộng nước thích ứng với ba dạng địa hình: vùng núi cao, vùng núi

giữa và vùng núi thấp. Ngày xưa các bà mẹ Dao thường ru con:
Người Dao là con chim xanh
Thấy quả thì ăn, thấy nước thì uống
Tung cánh bay hết rừng này đến rừng khác. [13; tr.372]
Chính điều này đã nói lên sự phổ biến của tập quán du canh trong kinh tế
người Dao thời xưa.
Địa bàn định cư thuộc vùng núi cao của người Dao phần nhiều là núi đá vôi
thuộc các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang,… Là nơi
19


tập trung chủ yếu của người Dao Đỏ, một bộ phận Dao Tiền và một số ít Dao Làn
Tiẻn. Nương rẫy vùng cao núi đá được canh tác chủ yếu bằng hình thức định canh
hoặc luân canh với loại hình thổ canh hốc đá – trồng trọt trên các thửa nương có
nhiều đá lởm chởm. Lương thực được trồng chủ yếu là ngô, ngoài ra còn trồng kê,
bông, lúa mì, tam giác mạch,… và các loại cây ăn quả ôn đới. Dụng cụ sản xuất có
rìu, dao, cuốc, gậy chọc lỗ, cái nạo, cái hái nhắt,… Năng suất cây trồng ở vùng này
không được cao bởi độ cao địa hình, độ nghiêng mặt nương lớn, đất bạc màu nhanh
và thường xuyên xảy ra hạn hán, xói mòn.
Địa hình vùng giữa là nơi người Dao tập trung đông đảo nhất, trong đó đồng
bào Dao Lô Gang, Dao Tiền, Dao Thanh Y, Dao Quần Chẹt... là nhiều hơn cả. Độ
cao trung bình khoảng 400 đến 600 m, bởi vậy, đồng bào Dao nơi đây chủ yếu làm
nương du canh. Nương rẫy được khai thác trong một vài vụ sau đó bà con chuyển
sang canh tác ở một vùng đất mới. Lúa nương và ngô là hai loại cây trồng phổ biến
ở vùng này, bên cạnh đó còn có thêm một số loại cây công nghiệp và cây ăn quả
nhiệt đới nổi tiếng như hồi, chè, trẩu, sơn, cam, quýt,... rất có giá trị. Dụng cụ chủ
yếu vẫn là dao, rìu, hái nhắt,.. như ở vùng núi cao. Tuy nhiên, tình trạng du canh du
cư cùng với việc khai thác rừng bừa bãi khiến cho nguồn tài nguyên rừng ở đây bị
cạn kiệt khá nhiều, gây hạn hán, lũ lụt thường xuyên trên diện rộng,... ảnh hưởng
lớn đến sinh hoạt và cuộc sống của người dân.

Ở vùng núi thấp - nơi chuyển tiếp giữa vùng đồng bằng và vùng núi với độ
cao 200 mét trở lại, là khu vực cư trú chủ yếu của người Dao Quần Trắng, một số
đồng bào Dao Quần Chẹt và Dao Tiền, Dao Làn Tiẻn, Dao Thanh Y… Họ sống
trong các thung lũng hẹp hoặc ven các đường quốc lộ, cùng với người Dao còn có
các dân tộc khác cư trú như Tày, Nùng. Ở những nơi ven các sông, suối thấp và
bằng phẳng họ làm ruộng nước, trên các “đồi thấp và thềm đất được san thành
ruộng bậc thang cấy lúa. Phần lớn là ruộng một mùa, nửa năm cấy lúa, nửa năm
trồng cây lương thực hoặc cây nông nghiệp” [13. tr.152]. Một số khu vực ở vùng
thấp còn làm nương định canh với các loại cây lương thực như vùng núi cao và
vùng giữa. “Nông cụ có cày chìa vôi (nay đã có cải tiến), bừa răng gỗ hay răng sắt,
dùng sức kéo của trâu bò… cùng với loại hình canh tác này còn có hệ thống thủy lợi

20


như: mương, phai, đập, cọn…” [13; tr.337]. Kĩ thuật trồng xen canh là hình thức
đặc biệt của nương rẫy dân tộc Dao. Ở trên nương, bên cạnh lúa, ngô, gỗ lâu năm
còn có các loại đậu, rau, kê, khoai, sắn,…
Bên cạnh nghề trồng trọt, địa vực cư trú của người Dao cũng rất thuận lợi
cho việc chăn nuôi. Họ đã biết tận dụng những đồi cỏ, thung lũng, khe suối,… cho
hoạt động này. Chăn nuôi của đồng bào dân tộc Dao còn mang tính tự phát và mới
chỉ nằm trong phạm vi hộ gia đình. Gia súc là được đồng bào chăn nuôi phổ biến
nhất, bởi nó không những cung cấp một nguồn thức ăn đáng kể trong bữa ăn gia
đình hoặc vào các dịp lế, tết mà còn là nguồn cung cấp sức kéo phục vụ cho hoạt
động sản xuất như kéo gỗ, tre hoặc cày bừa. Trong đó, trâu bò chiếm số lượng nhiều
hơn cả. Nhiều nơi, mỗi gia đình có hàng chục trâu bò, ở vùng cao và vùng giữa còn
có ngựa và dê. Tiếp đến là lợn, cũng chiếm số lượng rất lớn trong chăn nuôi gia súc
của người Dao, hầu như nhà nào cũng nuôi lợn. Thịt lợn là một trong những món ăn
thường ngày của các gia đình Dao, hơn nữa còn được những người vùng xuôi ưa
chuộng và tìm mua vì được chăn nuôi bằng những thức ăn từ tự nhiên, không có lợi

dụng cám công nghiệp nên chất lượng rất tôt. Gia cầm thì có gà là nhiều hơn cả,
tiếp đến là vịt, ngan, ngỗng,… Ở nhiều nơi, người dân còn nuôi cá trong các ao,
ruộng.
Đồng bào Dao cũng thường xuyên khai thác lâm thổ sản để phục vụ cho cuộc
sống của mình. Họ lên rừng hái các loại nấm, mộc nhĩ, măng,... chủ yếu phục vụ
cho bữa ăn hằng ngày hoặc tích trữ cho những ngày lễ lớn, hái các loại dược liệu
quý làm thuốc,… họ còn khai thác gỗ, tre, nứa, mây,… trong rừng để đem bán như
là một cách thức để cải thiện cuộc sống của mình và nuôi con cái.
Săn thú rừng là hoạt động vẫn được duy trì cho đến nay, mặc dù không còn
phổ biến nữa. “Việc săn thú rừng vừa có ý nghĩa cải thiện cuộc sống, vừa là giải
pháp bảo vệ mùa màng, nhất là những lúc cấy lúa, cấy ngô bước vào vụ thu hoạch.
Đôi khi săn còn là cách giải trí, giúp xóa bỏ những căng thẳng trong công việc” [38;
tr.240]. Các chàng trai khi đi săn thường mang theo những chú chó, với vũ khí là
súng, tên,… hoặc dùng bẫy để bắt con mồi. Hình thức săn gồm săn tập thể hoặc săn
cá nhân, họ thường săn vào ban chiều khi đi làm về hoặc lúc nửa đêm. Săn bắt trong

21


đời sống lao động của người Dao còn là một biểu hiện của tính tự cung tự cấp, của
tinh thần tập thể, cố kết cộng đồng trong dân tộc Dao.
Người Dao có thể tự phục vụ nhu cầu ăn uống, sinh hoạt, họ cũng biết thêu
dệt nên những chiếc áo thổ cẩm cho chính mình. Tuy nhiên, nghề thủ công của họ
còn mang nặng tính chất tự nhiên theo mùa, sản phẩm chỉ phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp và sinh hoạt, kỹ thuật sản xuất thô sơ, số lượng và chất lượng sản
phẩm phụ thuộc vào sự khéo léo của nghệ nhân. Phổ biến nhất là nghề làm vải, phụ
nữ Dao có thể tự làm ra cho mình những bộ y phục đầy sắc màu và đậm đà phong
vị dân tộc ngay từ khâu trồng bông, dệt vải và nhuộm chàm. Cách chế biến chàm
khá phức tạp và nhuộm cũng tốn nhiều công phu. Để tạo thêm nhiều điểm nhấn,
phụ nữ Dao có cách in hoa văn trên váy bằng sáp ong rồi đem nhuộm chàm rất tinh

tế và hấp dẫn. Khâu vá và thêu thùa là công việc hằng ngày của người phụ nữ, họ có
cách thêu rất độc đáo, không thêu theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí
nhớ, điều đó đã khó nhưng cách thêu lại còn khó hơn nhiều vì thêu ở mặt trái của
vải, hình mẫu lại nổi lên ở mặt phải. Khó và phức tạp như vậy nhưng sản phẩm cuối
cùng lại rất tinh xảo và đẹp mắt:
Được thấy bạn em ngồi dệt thổ cẩm
Cái nụ hoa lồng vào nhau nên tấm.[71; tr.40]
Ngay từ thời thơ ấu, các cô gái Dao đã được mẹ dạy cho từng đường kim, sợi
chỉ, dạy cho họ cách may vá, thêu thùa. Đến khi biết làm duyên cũng là lúc đường
tơ sợi đã thành thục. Họ được dạy từ những công đoạn đơn giản đến phức tạp, từ
những chi tiết nhỏ đến cách nhuộm lại tấm áo chàm cho mới khi nó bị bạc màu.
Bằng cách truyền nghề, chỉ dẫn thấu đáo của các bà, các mẹ tạo cho người phụ nữ
Dao một nếp nghĩ ăn sâu vào tiềm thức, như một sắc thái độc đáo của văn hóa Dao.
Đan lát cũng là một nghề được người Dao ưa chuộng. Những lúc rảnh rỗi, họ
thường đi chặt các cây tre, nứa, giang, mây về đan thành những cái mẹt, thúng, rổ,
bồ,…rất đẹp, phục vụ hữu ích cho việc chứa đựng các sản phẩm nông nghiệp cũng
như đồ dùng gia đình. Với nghề rèn, mặc dù không phổ biến, nhưng những sản
phẩm họ làm ra có thể phục vụ đắc lực cho hoạt động nông nghiệp, đó là những con
dao, cái cuốc, cái cày,… hoặc chế tạo sung cho việc săn bắt. Người Dao cũng tự

22


làm được đồ trang sức như những chiếc vòng cổ, vòng tay, chân, khuyên tai và các
loại trang sức đính quần áo.
1.3. Đời sống văn hoá
1.3.1. Ngôn ngữ và chữ viết
Ngôn ngữ Dao được xếp vào hệ Mông – Dao. Tiếng nói dân tộc Dao được
chia thành hai phương ngữ với nhiều nhóm khác nhau: Phương ngữ kiềm miền (có
nhóm Dao Đại Bản, nhóm Dao Lô Gang, nhóm Dao Quần Chẹt, nhóm Dao Tiền) và

phương ngữ kìm mùn (gồm nhóm Dao Quần Trắng, nhóm Dao Làn Tẻn, nhóm Dao
Áo Dài). Sự đa dạng về ngôn ngữ là một cơ sở để thể hiện sự đa dạng trong văn hóa
của dân tộc Dao, tuy có nhiều nhóm, nhưng người Dao vẫn có thể hiểu và giao tiếp
với nhau bình thường. vì “sự khác nhau về tiếng nói giữa các nhóm Dao ở Việt
Nam không đáng kể, chỉ một số ít từ vị cơ bản và thanh điệu, còn cấu tạo ngữ pháp
không có gì thay đổi” [13].
Về chữ viết, “Dân tộc Dao không có chữ viết riêng của dân tộc mình. Trước
đây họ dùng chữ Hán để ghi chép văn tự liên quan đến cưới xin, sinh đẻ. Chữ Hán
được dùng nhiều trong sách cúng. Chữ Hán là chữ tượng hình, không ghép vần như
chữ La Tinh, người học phải nhớ từng con chữ một. Do vậy ít người biết chữ Hán.
Sau này người Dao đã Nôm hóa chữ Hán thành chữ Nôm Dao. Chữ Nôm Dao vẫn
là loại chữ gốc Hán nên vẫn khó học, ít người biết. Chữ Nôm Dao ngày nay vẫn
được sử dụng chủ yếu trong sách cúng, do vậy chỉ có thầy cúng và những người
muốn làm thầy cúng mới tích cực học loại chữ này” [38; tr.251]. Cộng đồng người
Dao, cho đến nay, vẫn còn lưu giữ một quyển sách dùng để dạy những người bắt đầu học
chữ người Dao, bằng tiếng Dao - Cuốn “Tam tự kinh” - sách học vỡ lòng của hệ thống
giáo dục Nho giáo thời xưa ở Việt Nam. Đây là những chữ Hán dạng phồn thể, được giữ
nguyên tự dạng. Tầng lớp trí thức người Dao, qua các thế hệ, đã Dao hóa cách phát âm
các chữ Hán, cho gần gũi với tiếng Dao và vẫn giữ nguyên gốc nghĩa của các từ trong
sách này. “Phiên âm này được đọc theo một cách hoàn toàn khác tiếng Dao sử dụng
trong cuộc sống thường ngày, nên các nhà nghiên cứu gọi đó là tiếng Dao trong văn
chương. Trong quá trình giao lưu văn hóa, người Dao cũng tiếp nhận một số từ của Nôm
23


Tày, Nôm Việt, nhưng được Dao hóa bởi lẽ có nhiều từ và khái niệm mà tiếng Dao
không thể hiện hết được. Điều đó đã góp phần làm phong phú thêm vốn từ vựng cho
ngôn ngữ Dao… Chữ viết của dân tộc Dao là di sản văn hóa phi vật thể thuộc loại
hình Tiếng nói, chữ viết đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh
mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia [52].

1.3.2. Trang phục
Dân tộc Dao gồm nhiều ngành khác nhau, một trong những căn cứ quan trọng
để phân biệt các ngành Dao đó là trang phục. Mỗi đường kim, mũi chỉ, mỗi sắc màu
trong trang phục Dao vừa tạo nên nét đẹp riêng lại vừa điểm xuyến cho bức tranh
54 dân tộc thêm hài hòa, đa dạng. Bởi sự nhẫn nại từ việc ươm mầm những cây
bông, cây chàm, từ bàn tay mẹ khéo lướt những đường chỉ trên tấm vải thơm
hương chàm, bàn tay em thoăn thoắt đưa thoi, tâ, tư sẵn lòng lắng nghe tiếng gọi từ
xa xưa cội nguồn vọng về, và của những chàng trai trong phiên chợ tình đã mang
đến cho những người phụ nữ Dao những ý tưởng tuyệt vời để tạo nên những bộ y
phục độc đáo.
Trang phục của đàn ông Dao khá đơn giản và có phần giống với trang phục
của các dân tộc khác. Áo có hai loại: áo ngắn và áo dài, những chiếc áo đều xẻ ngực
và cài cúc. Quần được may bằng vải nhuộm chàm, cắt theo kiểu chân què, cạp lá tọa
nhuộm chàm hoặc để trắng. Trước đây đàn ông Dao thường để tóc dài búi sau gáy
hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh được cạo nhẵn, họ ít khi để đầu
trần, trên đầu thường vấn khăn theo kiểu đầu rìu bằng bốn vuông vải màu chàm
hoặc vấn lên đầu nhiều vòng bằng một cái khăn dài bằng khoảng hai sải tay. Đồ
trang sức là những phụ kiện làm cho bộ trang phục củ người đàn ông Dao thêm tinh
tế như nhẫn, vòng tay, vòng cổ được làm bằng bạc, đồng, nhôm,...
Tinh tế và sặc sỡ nhất vẫn là những bộ trang phục của phụ nữ Dao, có thế nói,
đây là dân tộc có những chiếc y phục đa dạng nhất, điều này thể hiện được cách
cảm, cách nghĩ cũng như những nét văn hóa của các ngành Dao có nhiều điểm khác
nhau. Giữa đại ngàn núi rừng, ta dễ dàng bắt gặp những cô gái người Dao trong
những chiếc yếm thắm giấu sau những chiếc áo xẻ ngực bắt chéo duyên dáng kết
hợp với những chiếc vòng bạc mang đậm màu sắc cổ truyền, có khi buông xõa

24


những túm chỉ đỏ và các xâu hạt cườm đủ màu sắc hay những bông hoa được kết từ

chỉ đỏ rực rỡ,… hai tà áo màu chàm khi buông thả đung đưa vui cùng “Tết nhảy”,
cùng các chàng trai trong đêm hát giao duyên, khi gấp nếp vắt lên chiếc thắt lưng
sặc sỡ với nhiều họa tiết được dệt cực kì công phu và tinh tế. Trên đầu là những
những chiếc khăn được vấn dưới nhiều hình dạng và màu sắc khác nhau, có gắn
thêm những mảnh bạc nhỏ hình tròn hoặc hình ngôi sao làm lấp lánh thêm cho vẻ
đẹp của núi rừng, của làng bản. Phụ nữ Dao có tục chải tóc bằng sáp ong rất đặc
biệt, đó vừa là cách để làm cho mái tóc trở nên óng ả, mượt mà, đầy sức sống, lại có
tác dụng làm cho những chiếc khăn vấn trên đầu chắc chắn hơn. Nhìn chung, tông
màu chủ đạo trong trang phục của người Dao là màu chàm, màu đỏ, và màu trắng.
Hoa văn thường được trang trì ở cổ áo, ngực áo, đai áo, gấu váy hoặc gấu quần, ở
chiếc khăn với đầu trong đó có thêu họa tiết hình sóc, gấu, chó ngũ sắc như một ý
niệm xa xưa về Bàn Vương – thủy tổ của người Dao. Họa tiết hình hoa, lá, hình tam
giác, hình móc câu hay răng cưa, hình chim, hình song nước, mặt trăng, mặt trời, đó
là những gì gần gũi với đời sống thường ngày của họ. Trên lưng áo của cả nam và
nữ, người dao còn thêu họa tiết, dấu ấn của Bàn Vương lên đó vì họ quan niệm
rằng: khi người ta chết đi, được mặc áo có các loại họa tiết này trong lúc khâm liệm
thì linh hồn mới được tổ tiên đón nhập vào cõi thiên đường, siêu linh tịnh độ. Quần
thường là quần ngắn, người Dao Quần Chẹt kể rằng: “Ngày xưa phụ nữ Dao mặc
váy dài và rộng lòe xòe, đi lại hay bị vướng, khó khăn. Một hôm, mẹ ốm, con gái đi
vào rừng hái thuốc, nhưng vì mặc váy, đi lại trên rừng rất khó khăn, chậm chạp cho
nên đi hái thuốc rất lâu mới về. Về đến nhà thấy mẹ đã chết. Từ đó người Dao thề
độc là bỏ mặc váy, ám chỉ mặc quần, hơn nữa chỉ mặc quần ngắn, ống hẹp để đi lại
dễ dàng, làm việc thuận tiện, nhanh nhẹn hơn” [38. tr.245]. Hoàn mỹ nhất vẫn là bộ
y phục cô dâu trong ngày cưới, bằng cả niềm tin yêu thương và mong mỏi cho con
gái mình tìm được một tấm chồng tốt, người mẹ có thể dày công tới 3 năm để thêu
dệt nên bộ áo cưới dân tộc Dao không gì đẹp hơn, tất cả những gì tinh túy nhất, bản
sắc nhất mà người mẹ dân tộc Dao tạo ra từ tình mẫu tử thiêng liêng ấy…đều nằm
trong bộ trang phục này. Nếu bộ áo cưới của phụ nữ Dao là biểu hiện của sự hoàn
mỹ, thì chiếc áo dành cho thầy cúng chính là biểu tượng cho truyền thống “uống


25


×