Tải bản đầy đủ (.pdf) (211 trang)

Tiểu luận phát triển thị trường tiền tệ ở việt nam sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 211 trang )

19
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
SAU KHI GIA NHẬP WTO
1.1. Tổng quan về tiền tệ và thị trường tiền tệ
1.1.1. Lý luận chung về tiền tệ
1.1.1.1. Quan niệm, chức năng của tiền tệ
Quan niệm về tiền tệ
Có nhiều quan niệm khác nhau về tiền tệ tùy theo quan điểm của mỗi người
nghiên cứu, tuy nhiên dưới giác độ kinh tế chính trị học, sau khi xem xét lịch sử ra
đời của tiền tệ gắn liền với sự phát triển các hình thái giá trị, K.Marx đã xác định
bản chất của tiền tệ như sau: Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, được tách ra
khỏi thế giới hàng hóa đóng vai trò là vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa.
Nó thể hiện lao động xã hội và phản ánh quan hệ sản xuất xã hội, quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hóa với nhau.
Kinh tế học đã chỉ ra rằng, tiền tệ là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền
với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Tiền tệ là sản phẩm tất yếu của
nền kinh tế hàng hóa, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình trao đổi hàng hóa,
dịch vụ. Theo Frederic S.Mishkin – trường Đại học Columbia (Mỹ) thì “Tiền tệ là
bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hóa, dịch
vụ, hoặc trong việc trả nợ”. (Kinh tế tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính của
Frederic S.Mishkin –trường Đại học Columbia xuất bản năm 1992).
Các chức năng của tiền tệ
Thước đo giá trị: Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các
hàng hoá. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Do đó
giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Trong đó giá trị là
nhân tố giữ vai trò quyết định, là cơ sở quy định giá cả của hàng hóa. Tuy nhiên,
trên thị trường do sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau nên giá cả và giá trị
không phải lúc nào cũng thống nhất mà thường có một độ chênh lệch, song đứng
trên tầm vĩ mô của nền kinh tế và xem xét cho cả một thời kỳ dài thì ∑ giá cả = ∑
giá trị của hàng hóa (1).


1

K. Marx – Ph.Anghen toàn tập


20
Phương tiện lưu thông: Lưu thông hàng hóa là sự vận động liên tục của
hàng hóa khi lấy tiền tệ làm môi giới. Công thức vận động của lưu thông hàng hóa
là H – T – H. Trong công thức này tiền đóng vai trò là môi giới cho trao đổi hàng
hóa. Lưu thông tiền tệ là sự vận động liên tục của tiền tệ khi lấy sự trao đổi hàng
hóa làm tiền đề. Lưu thông hàng hóa là cơ sở của lưu thông tiền tệ và sẽ quyết định
lưu thông tiền tệ.
Phương tiện thanh toán: Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến
trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này
trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là
mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện
thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ
bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc
mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ
thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó
không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả
năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
Phương tiện cất trữ: Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu
thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho
của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.
Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng. Chức
năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu
tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ
được đưa vào lưu thông. Ngược lại nếu sản xuất giảm lượng hàng hoá lại ít thì một
phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.

Tiền tệ thế giới: Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì
tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải
trở lại hình thái ban đầu của nó là vàng, bạc. Trong chức năng này, vàng được dùng
làm phương tiện mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải
nói chung của xã hội.

1.1.1.2. Cung cầu về tiền tệ
Sự ra đời của tiền giấy, kèm theo đặc trưng của nó chỉ là đại biểu cho giá trị, đã
dẫn đến một sự thay đổi trong lưu thông hàng hóa và trao đổi. Trong thời kỳ vàng
còn được coi là tiền tệ thì bản thân vàng đã có thể tự điều chỉnh các mối quan hệ


21
cung cầu trong xã hội, làm cho lượng tiền trong lưu thông luôn giữ được tính ổn
định, từ đó dẫn đến việc luôn có được một lượng tiền hợp lý trong lưu thông thì với
tiền giấy lại khác.Tiền giấy, xét trên một khía cạnh, chỉ là đại biểu của tiền vàng hay
là giá trị danh nghĩa mà thôi. Nhưng tiền giấy lại không có đổi được ra vàng nên
bản thân tiền giấy không thể tự điều hòa được trong lưu thông. Nếu như lượng tiền
giấy đưa vào lưu thông quá cao, thừa tiền giấy sẽ dẫn đến lạm phát và ngược lại. Vì
vậy, việc nghiên cứu các quy luật cung và cầu tiền tệ chính là để có được một lượng
tiền giấy trong lưu thông tối ưu.
Ngân hàng Trung ương là cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm cung ứng tiền cho
nền kinh tế, giữ cho quan hệ cung cầu tiền luôn cân đối để ổn định thị trường, giá
cả, sản xuất, lưu thông... Bằng các biện pháp nghiệp vụ, Ngân hàng Trung ương rút
bớt tiền khỏi lưu thông khi nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát, cung thêm tiền vào lưu
thông khi nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái. Bằng cách tăng giảm việc cung ứng
tiền, Ngân hàng Trung ương đã điều tiết các hoạt động kinh tế.
Cung tiền
Mức cung tiền là mức tiền được cung ứng cho nền kinh tế.
Cung về tiền tệ hay còn được gọi là quá trình cung ứng tiền tệ thông qua các

hành vi kinh tế của các chủ thể trên thị trường. Có nhiều tác nhân tham gia vào quá
trình cung ứng tiền tệ, trong đó có NHTW có vai trò quan trọng. NHTW vừa là một
tác nhân tham gia vào quá trình cung ứng, vừa có trách nhiệm kiểm soát quá trình
cung ứng tiền tệ thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của mình theo
chính sách tiền tệ mở rộng (mở rộng khối lượng tiền cung ứng) hay thắt chặt, từ đó
làm giảm lãi suất thị trường (hoặc tăng) và có thể còn làm tăng (hoặc giảm) mức
lạm phát của nền kinh tế.
Cung tiền tệ phụ thuộc vào các nhân tố như : dự tính về khả năng sinh lợi của
những cơ hội đầu tư; lạm phát dự tính; các hoạt động của Chính phủ (Phát hành các
công cụ nợ của Chính phủ trên thị trường để bù đắp bội chi ngân sách).
Nhìn chung, hiện nay trong xã hội có hai nguồn chính để tạo nguồn cung tiền ra
thị trường, đó là NHTW và NHTM, trong đó NHTW phát hành tiền pháp định còn
NHTM phát hành tiền tín dụng. Vì vậy đầu tiên có thể nhận định về mức cung của
hai loại tiền này và các nhân tố ảnh hưởng như sau:


22
Tiền pháp định (tiền giấy)
Đây là tiền pháp định do NHTW phát hành, còn được gọi là cơ số tiền MB hay
lượng tiền cơ sở. Lượng tiền giấy trong lưu thông tồn tại dưới hai dạng, dạng thứ
nhất được nắm giữ bởi các chủ thể kinh tế, và được ký hiệu là C (Cash hay còn
được hiểu là tiền mặt). Dạng thứ hai tồn tại trong các ngân hàng dưới dạng dự trữ,
ký hiệu là R (Reserve).
Như vậy: MB = C+R (2)
Tiền tín dụng
Bên cạnh tiền pháp định do NHTW phát hành, còn có loại tiền tín dụng do các
NHTM phát hành, lượng tiền này dựa trên cơ sở số tiền dự trữ R mà các NHTM
nắm giữ, được ký hiệu là D (Deposit - tiền gửi tiết kiệm).
Trên cơ sở của những phân tích trên, cộng với nhận xét lượng tiền dự trữ R
không được đưa vào lưu thông (nếu đưa vào lưu thông thì sẽ không còn là dự trữ

nữa), chúng ta sẽ có được công thức tổng lương cung tiền MS (Money Supply).
MS = C+D(3)
Trên thực tế, với việc sử dụng tiền tín dụng của các NHTM, lượng tiền cung ứng
ra lưu thông đã lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ sở, để so sánh sự gia tăng của
lượng tiền với cơ số tiền người ta sử dụng đại lượng số nhân tiền tệ m (money
multiplier)
m = MS/MB
Từ công thức này có thể thấy MS = MB x m, hay nói cách khác, lượng cung
tiền phụ thuộc vào lượng tiền cơ sở và số nhân tiền tệ.
Thay MS = C +D và MB = R + C có m = (1 + C/D)/(R/D +C/D)
C/D được gọi là c (Currency Ratio): Tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi tiết kiệm
R/D được gọi là r (Reserve Ratio): Tỷ lệ dữ trữ của ngân hàng thương mại.
khi đó sẽ có công thức tính m: m = (1 + c) /(r + c)
Từ đây cũng có thể rút ra kết luận rằng số nhân tiền phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ
của các Ngân hàng Thương mại và tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi tiết kiệm.
2
3

Tiền tệ Ngân hàng, Thị trường tài chính”, Nxb TC, Hà nội-2001.
N. GREGORY MANKIW, Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB TK, Hà Nội năm 2000.


23
Cầu tiền
Cầu tiền tệ chính là nhu cầu nắm giữ tiền của các chủ thể kinh tế trên thị trường,
bao gồm Chính phủ, các trung gian tài chính, doanh nghiệp, hộ gia đình và các tầng
lớp dân cư...Nhu cầu tiền tệ của xã hội bao gồm, nhu cầu tiền tệ cho việc chi tiêu
theo kế hoạch đã định trước; nhu cầu tiền tệ cho nhu cầu chi tiêu đột suất và nhu
cầu đầu tư vào các công cụ sinh lời của thị trường. Cầu tiền tệ phụ thuộc vào nhiều
nhân tố như sau:

-Thu nhập của công chúng: Khi thu nhập (mức sống) của công chúng tăng lên
thì nhu cầu đầu tư vào thị trường tiền tệ (ngoài nhu cầu sinh hoạt) sẽ tăng lên từ đó
làm cho cầu tiền tệ tăng lên. Điều này cũng lý giải vì sao ở các nước có thu nhập
cao thì thị trường tiền tệ phát triển hơn các nước có thu nhập thấp.
-Mức giá cả: Keynes quan niệm rằng công chúng quan tâm đến việc số tiền (thu
nhập) mà họ kiếm được có thể đáp ứng được một khối lượng tài sản, dịch vụ như
thế nào. Khi thu nhập danh nghĩa không thay đổi nhưng mức giá tăng lên thì thu
nhập thực tế giảm đi và đồng nghĩa với cầu tiền tệ giảm đi.
-Rủi ro và tính lỏng của các công cụ nợ
-Lợi tức thu được của công cụ nợ so với tài sản thay thế khác.
Tuy nhiên, vấn đề cần nghiên cứu trong mục này là lượng tiền trong lưu thông
như thế nào là vừa đủ. Câu hỏi đặt ra là mối tương quan giữa cung tiền và cầu tiền
như thế nào sẽ làm cho nhu cầu đối với tiền tệ trở lên cân bằng. Để trả lời câu hỏi
này đã có rất nhiều nhà kinh tế học xây dựng những học thuyết tiền tệ khác nhau,
dưới đây là một số quan điểm tiêu biểu. Tuy nhiên, tất cả các học thuyết này đều có
một điểm chung, đó là dựa trên phương trình tương quan giữa tổng giá cả sản phẩm
xã hội và lượng tiền trong lưu thông. Phương trình này có dạng chung như sau:
M.V = P.Q
(Đại lượng Q còn có thể được ký hiệu là Y – Yield)
Trong công thức này:
+ M: Lượng tiền trong lưu thông, hay nói cách khác là lượng cung tiền.
+ V: Số vòng quay của tiền tệ trong đơn vị thời gian
+ P: Giá cả sản phẩm xã hội.
+ Q: Lượng sản phẩm xã hội.


24
Ngoài quan điểm của K.Marx đã trình bày ở trên và một lần nữa khẳng định
rằng K.Marx là người đặt nền móng cho những lý luận về tiền tệ, thì các quan điểm
đề cập tiếp theo đây sẽ đi sâu hơn vào các biến số trong công thức trên để xác định

khối lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông.
1.1.1.3 Một số lý thuyết tiền tệ cổ điển
Lý thuyết tiền tệ của D.Ricardo
D.Ricardo (1772-1823) là đại biểu xuất sắc nhất của trường phái kinh tế chính trị tư
sản cổ điển Anh. Ông là nghị viện Anh và là chuyên gia về lý thuyết tiền tệ vào cuối
thế kỷ thứ XVIII. D.Ricardo nghiên cứu về tiền tệ và lưu thông tiền tệ trong điều
kiện vào năm 1793 chiến tranh Anh – Pháp bùng nổ, buộc Chính phủ Anh phải tăng
thuế và công trái từ năm 1797 Ngân hàng Anh ngừng việc đổi tín phiếu lấy vàng,
làm giá cả hàng hóa tăng cao sinh ra lạm phát. Ông đặc biệt chú ý ổn định tiền tệ và
chống lạm phát.
Trên quan điểm coi vàng là cơ sở của tiền tệ, Ông cho rằng phải khôi phục
lại việc đổi tín phiếu ngân hàng lấy vàng. Ông ủng hộ quan điểm dùng tiền giấy
thay thế tiền vàng, vì tiền giấy có ưu thế là rẻ hơn tiền vàng và dễ thay thế hơn tiền
vàng. Từ đó Ông đưa ra phương án lưu thông tiền giấy đổi được vàng và đưa ra
khái niệm giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Ông cũng khẳng định số lượng
tiền cần thiết trong lưu thông phụ thuộc vào tổng giá cả hàng hóa; giá trị của tiền tệ
do hao phí lao động khai thác ra tiền quyết định. Điều này dựa trên cơ sở lý luận giá
trị lao động. Tuy nhiên, Ông lại không nhất quán quan điểm của mình, Ông lại cho
rằng giá trị của tiền tệ phụ thuộc và số lượng của tiền. Như vậy Ông đã lẫn lộn lưu
thông tiền tệ vàng và lưu thông tiền giấy.
Lý thuyết tiền tệ của K.Max
Lý thuyết tiền tệ của K.Max vẫn có giá trị hiện thực trong nền kinh tế thị trường.
Ông cho rằng: Số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông là bao nhiêu là do lưu thông
hàng hóa quyết định. Việc xác định số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông phải căn
cứ vào các nhân tố sau đây:
-Số lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường.
-Giá cả trung bình của hàng hóa.
-Tốc độ lưu thông trung bình của các đồng tiền cùng loại.



25
Sự ảnh hướng của các nhân tố nói trên tới số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông
được thể hiện bằng công thức: M =

P.Q 4
()
V

Trong đó:
M: Số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông
P: Giá cả trung bình của hàng hóa
Q: Số lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường
V: Tốc độ lưu thông trung bình của các đồng tiền cùng loại
Điều kiện: Tất cả các nhân tố nói trên phải được xem xét trên cùng một
không gian và trong cùng một thời gian.
Công thức nói trên, trước tiên được áp dụng cho lưu thông tiền vàng. Về sau
tiền giấy dần dần thay thế cho tiền vàng và nếu số lượng tiền giấy được phát hành
phù hợp với số lượng tiền vàng thì công thức này cũng áp dụng được cho tiền giấy.
Tuy nhiên, tiền giấy chỉ là giá trị danh nghĩa hay là phù hiệu của giá trị, nên nếu phát
hành tiền giấy vượt quá số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông sẽ sinh ra lạm phát.
Khi tiền vừa làm chức năng phương tiện lưu thông, lại vừa làm chức năng
phương tiện thanh toán thì công thức số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác
định như sau:
M =

PQ - (PQ b + PQ k ) + PQ d 5
()
V

Trong đó:

M: Số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông
PQ: tổng số giá cả của hàng hoá lưu thông trên thị trường
PQb: tổng giá cả hàng hoá bán chịu
PQk: tổng giá cả hàng hoá khấu trừ nhau
PQd: tổng giá cả hàng hoá thanh toán đã đến kỳ hạn
V: Tốc độ lưu thông trung bình của các đồng tiền cùng loại
Điều kiện:Tất cả các nhân tố nói trên phải được xem xét trên cùng một
không gian và trong cùng một thời gian.

4

Tư (Lê văn), “Tiền tệ, Ngân hàng, Thị trường tài chính”; NXB TC năm 2006

5

Tiền tệ Ngân hàng, Thị trường tài chính”, Nxb Tài chính, Hà nội-2001.


26
Lý thuyết tiền tệ của I. Fisher6
Quan điểm của I.Fisher được thể hiện trong học thuyết số lượng tiền tệ7 của ông.
Cũng dựa trên phương trình M.V = P.Q. Fisher đã đặt ra giả thiết đối với đại lượng
V (số vòng quay của tiền tệ) trong ngắn hạn. Theo ông, trong ngắn hạn V là một đại
lượng bất biến vì tốc độ quay vòng tiền phụ thuộc vào thói quen thanh toán, mà thói
quen này rất khó thay đổi. Fisher đặt 1/V = k, (k được gọi là hệ số ưa thích tiền) từ
đó dẫn đến công thức
Md = k.P.Q
(Md số lượng tiền do các chủ thể nắm giữ - cầu tiền tệ)
Với k không đổi nên lúc này Md hoàn toàn phụ thuộc vào P.Q, với P.Q là tổng
chi tiêu của xã hội (cũng có thể hình dung như tổng thu nhập). Do đó, Fisher kết

luận là cầu tiền là một hàm số thuần túy của thu nhập. Đồng thời lúc đó, với việc
cho rằng các chủ thể kinh tế giữ tiền chỉ nhằm mục đích giao dịch nên ông đưa ra
thêm một kết luận khác là lãi suất hoàn toàn không có tác động gì tới cầu tiền.
Quan điểm của trường phái Cambridge
Cũng dựa trên phương trình tương tự như Fisher, nhưng các nhà kinh tế học
theo trường phái Cambridge lại xuất phát từ động cơ nắm giữ tiền của các cá nhân
để nghiên cứu, theo đó các cá nhân có thể nắm giữ tiền xuất phát từ động cơ giao
dịch (giống như Fisher), nhưng bên cạnh đó họ có thể giữ tiền vì mục đích cất trữ
của cải.
Tuy nhiên, họ cũng xây dựng công thức giống như Fisher, với k là một hằng số
không đổi, cũng có nghĩa là cầu tiền vẫn là một hàm số phụ thuộc vào thu nhập
danh nghĩa. Và mặc dù không gạt bỏ được lãi suất nhưng trong công thức của họ lãi
suất không được để cập tới.
Trên thực tế, bằng những khảo sát người ta đã phát hiện ra rằng, trái ngược với
những gì hai học thuyết trên giả định, V không bất biến. Do đó, những lý thuyết này
không thể giải quyết được vấn đề cần tiền vì đã không có sự hiện diện yếu tố biến
động của V.

6
7

Irving Fisher 1887 – 1947, nhà kinh tế học Mỹ
Quantity theory of Money


27
Quan điểm của J.M.Keynes8
Vốn là một nhà kinh tế theo trường phái cổ điển Cambridge, Keynes cũng có
cách tiếp cận vấn đề tương đối giống so với những gì trường phái này theo đuổi, đó
là bắt đầu từ việc nghiên cứu nhu cầu của các cá nhân trong việc nắm giữ tiền. Tuy

nhiên, ở Keynes đã có những thay đổi phản ánh được sự hiện diện của những yếu tố
khác bên cạnh thu nhập. Quan điểm của ông được thể hiện trong lý thuyết ưa thích
tiền mặt9, trong đó đề cập đến ba động cơ chính để con người nắm giữ tiền:
+ Giao dịch: Tiền được sử dụng cho các giao dịch hàng ngày
+ Dự phòng: Tiền được cất trữ để dự phòng cho các sự kiện bất ngờ
+ Đầu cơ: Tiền được sử dụng cho mục đích mang tính đầu cơ
Ở động cơ giao dịch và động cơ dự phòng, theo phân tích của Keynes thì cầu
tiền vẫn tỷ lệ với thu nhập, như vậy chưa có sự thay đổi vào so với trường phái
Cambridge, sự tiến bộ của Keynes chỉ thể hiện ở động cơ thứ ba, đó là động cơ đầu
cơ. Trong động cơ này, con người nắm giữ tiền trên cơ sở so sánh với việc nắm giữ
những tài sản chính có tính sinh lời khác10. Nếu như việc nắm giữ tiền có lợi hơn so
với việc nắm giữ trái phiếu thì các cá nhân sẽ giữ tiền, điển hình của trường hợp này
là lãi suất giảm xuống. Như vậy theo Keynes cầu tiền tệ cho nhu cầu đầu cơ có liên
hệ âm với lãi suất. Do đó, ông xây dựng một công thức tính cầu tiền tệ như sau:
Md = f(i,Q).P
Với i là lãi suất
Tuy nhiên, điểm cần lưu ý trong công thức này là M liên hệ nghịch với i và liên
hệ thuận với Q, vì vậy có thể biểu diễn dưới dạng sau:

Dấu trừ thể hiện mối liên hệ nghịch còn dấu cộng thể hiện mối liên hệ thuận.
Trong điều kiện cân bằng Md bằng M, chúng ta có công thức xác định V như sau:

- +
Quan điểm thời kỳ hậu Keynes và học thuyết
tiền tệ hiện đại của M.Friedman
+ 8

John Maynard Keynes, 1883 – 1946, nhà kinh tế học Anh
Liquidity Preference Theory
10

Trong học thuyết của Keynes là trái phiếu
9


28
Sau thời kỳ của Keynes, đã có nhiều nhà kinh tế học tiếp tục phát triển học
thuyết của ông như James Tobin, William Baumol. Đặc biệt nhà kinh tế học người
Mỹ M.Friedman đã cho ra đời học thuyết tiền tệ hiện đại nổi tiếng với quan điểm
cho rằng cầu tiền tệ cũng là một loại cầu đối với tài sản.
Lý thuyết tiền tệ của M. Friedman
Mitol Friedman, Nhà kinh tế học Mỹ được giải thưởng Nobel năm 1976. Quan điểm
của Ông về tiền tệ được thể hiện trong tác phẩm: Nghiên cứu về thuyết số lượng
tiền tệ (1956), bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, mức cung tiền tệ là nhân tố có tính chất quyết định đối với việc
tăng sản lượng quốc gia.
Theo công thức: M.V = P.Q ; trong đó:
M : Mức cung tiền
V : Tốc độ chu chuyển lưu thông của tiền (có tính ổn định)
P : Mức giá cả hàng hóa
Q : Sản lượng hàng hóa
P.Q : Tổng giá trị sản phẩm quốc gia (GNP)
Vì V ổn định nên P.Q phụ thuộc vào mức cung tiền M, nếu M tăng thì P.Q tăng.
M.Friedman cho rằng, mức cầu tiền có tính ổn định, vì cầu tiền có liên quan
chặt chẽ với thu nhập quốc dân. Ông đưa công thức tính cầu tiền:
Md = F(Yn)
Md : Là mức cầu tiền
Yn : Là thu nhập quốc dân danh nghĩa.
Trong khi, mức cung tiền lại không ổn định, vì nó phụ thuộc vào quyết định
của cơ quan quản lý tiền tệ của Chính Phủ. Nếu cơ quan quản lý tiền tệ quyết định
phát hành quá nhiều tiền sẽ sinh ra lạm phát, còn nếu phát hành quá ít tiền sẽ sinh ra

khủng hoảng kinh tế. Từ đó ông cho rằng mức cung tiền cần tăng theo một tỷ lệ ổn
định khoảng từ 3 – 4 %/năm, sẽ làm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Nhưng
trong thời kỳ nền kinh tế khủng hoảng nên tăng mức cung tiền, còn trong thời kỳ
hưng thịnh thì nên giảm mức cung tiền.
Thứ hai, mức cung tiền cũng ảnh hưởng đến giá cả nên phải quan tâm đến ổn
định giá cả và chống lạm phát.


29
Từ công thức M.V = P.Q
Nếu M tăng trong thời gian ngắn sẽ làm cho PQ tăng, nhưng nếu M tăng trong
thời gian dài sẽ làm giá cả tăng và sinh ra lạm phát. Vì V ổn định, mà Q không hoặc
rất ít phụ thuộc vào M nên M tăng làm cho P tăng. Ông coi lạm phát là một căn
bệnh xã hội hết sức nan giải, nguy hiểm, gây ra mất ổn định và là nguyên nhân sinh
ra khủng hoảng, thất nghiệp. Vì vậy, vấn đề cơ bản là phải có những biện pháp hữu
hiệu chống lạm phát. (Lịch sử các học thuyết kinh tế - NXB ĐHKTQD năm 2009).
Lý thuyết tiền tệ của P.A.Samulson
Paul.A.Samulson, Nhà kinh tế học Mỹ năm 1970 được nhận giải thưởng
Nobel về kinh tế học. Trong lý thuyết về tiền tệ của ông, tiền tệ có liên hệ mật thiết
với ngân hàng. Theo ông, thành phần mức cung tiền bao gồm:
-

Tiền giao dịch (M1): Bao gồm các khoản tiền thực tế được dùng
cho giao dịch, để mua bán đồ vật, gồm tổng số tiền kim khí và tiền
giấy lưu thông ngoài ngân hàng.

-

Tiền rộng (M2): Bao gồm tài sản, tài khoản gửi tiết kiệm ngoài
tiền kim khí, tiền giấy và tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc.


-

Tổng số tín dụng hoặc nợ (D): Bao gồm toàn bộ các công cụ tài
chính - tiền tệ - chuẩn tệ, công trái, văn tự cầm cố…

Như vậy, theo P.A.Samulson: Mức cung tiền = M1 + M2 + D
P.A.Samulson còn phân tích quá trình tạo nguồn tiền gửi ngân hàng, đó là (sự
mở rộng nhiều lần của tiền gửi ngân hàng). Theo ông, nếu các ngân hàng giữ 100%
tiền mặt so với tổng số tiền gửi không có việc tạo ra nguồn tiền tăng lên gấp nhiều
lần. Nhưng nếu NHTW quyết định các ngân hàng phải đảm bảo một tỷ lệ dự trữ bắt
buộc từ quỹ tiền gửi mới thì từ số tiền dự trữ đó sẽ được mở rộng gấp nhiều lần qua
hệ thống ngân hàng.
Ví dụ, từ một khoản tiền gửi mới là 1000 USD, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%, thì
qua 10 ngân hàng hệ số tiền đó sẽ tăng lên gấp 10 lần, quá trình đó khái quát theo
công thức:
1000 USD + 900 USD + 810 USD + 729 USD + … =
= 1000 USD x [1 + (9 / 20) + (9 / 10) mũ 2 + (9 / 10) mũ 3 + …] =
= 1000 USD x 1 /(1 – 9/10) = 1000 USD


30
1.1.2. Những vấn đề cơ bản của thị trường tiền tệ
1.1.2.1- Khái niệm về thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường bán buôn các công cụ nợ với thời hạn ngắn, độ
rủi ro thấp và tính lỏng cao. Nói cách khác, thị trường tiền tệ là thị trường mua bán
các công cụ nợ ngắn hạn có thể chuyển nhượng được trong một năm hay dưới một
năm. Cũng có thể hiểu, thị trường tiền tệ là thị trường mà ở đó người ta chuyển giao
các khoản vốn ngắn hạn giữa các chủ thể nhằm thoả mãn nhu cầu thanh khoản và
đầu tư ngắn hạn.

Theo điều 9, Luật sửa đổi một số điều của Luật NHNN (năm 2003): “TTTT là
thị trường vốn ngắn hạn nơi mua,bán ngắn hạn các giấy tờ có giá, bao gồm tín
phiếu kho bạc, tín phiếu NH, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác”. Theo
điều 6, Luật NHNN (năm 2010): “TTTT là nơi giao dịch ngắn hạn về vốn”.
Thị trường tiền tệ rất linh hoạt. Tuỳ theo mỗi nước mà phạm vi và đối tượng
tham gia thị trường có thể khác nhau, song phần lớn các giao dịch trên thị trường
này có kỳ hạn dưới 1 năm, có lúc dưới 5 năm, song chủ yếu là từ 1 ngày đến 3
tháng.Thị trường tiền tệ, ở đó những công cụ tài chính ngắn hạn, thông thường dưới
một năm, được đem ra mua bán như tín phiếu kho bạc, các khoản vay ngắn hạn giữa
các ngân hàng, hợp đồng mua lại, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, v.v... Hay nói
một cách khác, thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn – là nơi mua bán, trao
đổi các chứng khoán ngắn hạn, có rủi ro thấp, tính “lỏng” cao và khả năng chuyển
nhượng dưới một năm.
Từ các quan niệm nêu trên về thị trường tiền tệ có thể định nghĩa: Thị trường
tiền tệ là nơi giao dịch ngắn hạn về vốn (mua,bán,vay,mượn…) giữa các chủ thể
kinh tế như các NHTM, Định chế tài chính, NHTW, tổ chức, cá nhân…Các chủ thể
này đều có thể tham gia giao dịch các chứng khoán ngắn hạn hoặc các công cụ nợ
ngắn hạn theo cơ chế thị trường, với lãi suất biến động tự do.
Đề cập đến khái niệm thị trường tiền tệ, cần phải nói đến vị trí và mối quan hệ
của nó trong thị trường tài chính. Có rất nhiều ý kiến khác nhau về cơ cấu thị trường
tài chính. Có nước, thị trường vốn bao trùm cả thị trường tiền tệ và thị trường tài
chính. Lại có quốc gia, để phù hợp với việc thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của
Nhà nước, thị trường tài chính được nâng lên bao trùm cả hai bộ phận cấu thành là
thị trường tiền tệ và thị trường vốn.


31
Sơ đồ dưới đây minh họa cơ cấu thị trường tài chính là thị trường bao trùm,
với kết cấu hợp thành là thị trường tiền tệ và thị trường vốn.


THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ

THỊ TRƯỜNG VỐN

Sơ đồ 1.1. Cấu trúc thị trường tài chính
Sự phân chia thị trường tài chính thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn
được căn cứ vào thời gian sử dụng vốn vay của người đi vay và thời gian cho vay
của người tích luỹ. Các nguồn vốn ngắn hạn (thường dưới 1 năm) là đối tượng của
thị trường tiền tệ. Các nguồn vốn dài hạn (từ 1 năm trở lên) là đối tượng của thị
trường vốn. Trên thực tế, các hoạt động của thị trường tiền tệ và thị trường vốn
được thực hiện đồng bộ đan xen lẫn nhau, tác động và chịu ảnh hưởng qua lại, tạo
thành cơ cấu hoàn chỉnh của một thị trường tài chính.
Như vậy, thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, bổ sung
cho thị trường tiền gửi hay thị trường tiền vay qua hệ thống các tổ chức tài chính
trung gian và nó chính là tiền đề của thị trường vốn dài hạn mà chủ yếu là thị trường
chứng khoán.
1.1.2.2-Đặc điểm của thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ xuất hiện khá sớm, ngay từ giai đoạn đầu của nền kinh tế
hàng hoá - tiền tệ. Khi mà nền kinh tế thị trường phát triển thì thị trường tiền tệ
cũng đã đạt được mức độ phát triển cao và nó đã gắn với nghiệp vụ thị trường mở
do có sự tham gia và điều hành của Ngân hàng Trung ương. Tùy thuộc vào mỗi
quốc gia mà thị trường tiền tệ có đặc điểm khác nhau. Nhìn chung, có sáu đặc điểm
nổi bật.
Một là, trong thị trường tiền tệ, hàng hoá được đưa ra trao đổi mua bán chủ yếu
là các chứng khoán ngắn hạn tức là các giấy tờ có giá trị ngắn hạn, và có tính thanh
khoản rất cao.



32
Hai là, việc mua bán, trao đổi trên thị trường nhằm thoả mãn nhu cầu vốn hoặc
nhằm đến khả năng sinh lời của tiền tệ.
Ba là, “Gía cả hàng hoá” chính là lãi suất trên thị trường tiền tệ do các nhà kinh
doanh tiền tệ mua, bán hay vay, mượn vốn lẫn nhau do các bên thoả thuận theo qui
luật cung – cầu về nguồn vốn ngắn hạn và chứng khoán ngắn hạn.
Bốn là, trong thị trường này, có sự tham gia của nhiều thành viên, trong đó sự
tham gia của Ngân hàng Trung ương là không thể thiếu được.
Năm là, có thể nói một cách khái quát thị trường tiền tệ là tổng hòa các quan hệ
giao dịch vốn ngắn hạn. Nó không bị giới hạn bởi không gian địa lý, các quan hệ
này diễn ra giữa các ngân hàng có tham gia mua bán các chứng khoán ngắn hạn. Thị
trường tiền tệ hoạt động dựa trên cơ sở tôn trọng và tín nhiệm lẫn nhau qua các
phương tiện thông tin hiện đại. Thị trường tiền tệ ngày nay không diễn ra ở một địa
chỉ cụ thể, nó chỉ là một khái niệm nói lên sự tiếp xúc giữa cung và cầu để hình
thành giá cả từng loại chứng khoán nợ.
Sáu là, một đặc điểm đã có tính thống kê, thị trường tiền tệ là thị trường bán
buôn với những lượng hàng giao dịch rất lớn.
1.1.2.3- Vai trò của thị trường tiền tệ đối với nền kinh tế - xã hội
Về mặt lý luận kinh tế học cho thấy thị trường tiền tệ rất phát triển ở các nước
có nền kinh tế thị trường. Một thị trường tiền tệ hoạt động tích cực, tổ chức hoàn
hảo chẳng những đem lại nhiều lợi ích cho Ngân hàng Thương mại, mà còn cho các
cơ sở tài chính, doanh nghiệp và cho nền kinh tế. Nó giúp cho Ngân hàng Thương
mại hạn chế tài sản không sinh lời, góp phần mở rộng qui mô thực tế của hệ thống
ngân hàng đảm bảo hiệu quả hơn.
Thêm vào đó, một thị trường tiền tệ hoạt động tốt sẽ giúp cho các công ty, và
nói chung là các doanh nghiệp ngoài ngân hàng, có thể đầu tư ngắn hạn một cách
thuận lợi những khoản thặng dư cho dù tạm thời. Đồng thời nó giúp cho các nhà
doanh nghiệp vay ngắn hạn trên thị trường quốc tế. Một thị trường tiền tệ phát triển
ổn định, bền vững đảm bảo an toàn trong quá trình luân chuyển vốn huy động được
phục vụ sự phát triển nền kinh tế, nhờ đó nguồn tiết kiệm trong nước được sử dụng

một cách hiệu quả.
Trong lịch sử hình thành và phát triển thị trường tài chính, thị trường tiền tệ ra
đời trước so với thị trường vốn, xuất phát từ nền kinh tế lúc này còn kém phát triển
và do vậy nhu cầu về vốn cũng như tiết kiệm trong dân cư chưa cao và chủ yếu là
nhu cầu vốn ngắn hạn. Sau đó, cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu về các nguồn


33
vốn dài hạn cho đầu tư tăng lên và từ đó, thị trường vốn ra đời nhằm đáp ứng các
nhu cầu này. Với vai trò chủ yếu hoạt động trong phạm vi điều tiết cung cầu về vốn
ngắn hạn trên thị trường, thị trường tiền tệ đã hỗ trợ tích cực đối với hoạt động của
các doanh nghiệp, đặc biệt là hỗ trợ cho các ngân hàng, bổ sung kịp thời cho nhu
cầu vốn thông qua việc điều hòa các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Thị
trường tiền tệ ràng buộc chặt chẽ với lãi suất tín dụng. Thị trường tiền tệ góp phần
sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tạm thời dư thừa tại các ngân hàng,ngân hàng
thiếu tìm được nguồn vay, ngân hàng dư thừa vốn tạm thời có cơ hội đầu tư sinh lời.
Thị trường tiền tệ đã tạo điều kiện để các nguồn vốn chủ động lưu thông,luân
chuyển phục vụ đầu tư phát triển nền kinh tế.
Là một bộ phận không thể thiếu được của thị trường tài chính, thị trường tiền
tệ có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc thực hiện chức năng điều tiết cung –
cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong xã hội và tạo điều kiện cho việc cân đối,
điều hòa nguồn vốn giữa các ngân hàng thương mại, giúp cho các doanh nghiệp này
đảm bảo nguồn vốn kinh doanh, cũng như khả năng thanh toán. Ngoài ra, Ngân
hàng Trung ương thông qua các hoạt động trên thị trường tiền tệ để thực hiện quá
trình điều tiết tiền tệ trên phạm vi toàn quốc nhằm thực thi chính sách tiền tệ đã
được đề ra cho từng giai đoạn phát triển kinh tế đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, sự phát triển của thị trường tiền tệ là nhân tố thúc
đẩy sự phát triển của sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa không những trên
phạm vi một quốc gia mà còn mở rộng ra quốc tế. Sự tồn tại và không ngừng hoàn

thiện của thị trường tiền tệ vừa là “bà đỡ” cho các doanh nghiệp mới ra đời có thể
phát triển trong nền kinh tế thị trường, vừa là “mảnh đất” để Chính phủ và Ngân
hàng Trung ương các nước ứng dụng và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Thị trường tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế, cụ thể:
a-Thị trường tiền tệ góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế
Thị trường tiền tệ là nơi tạo ra môi trường thuận lợi để dung hòa các lợi ích kinh
tế khác nhau của các thành viên trên thị trường. Điều hòa các nguồn vốn nhàn rỗi từ
nơi tạm thừa đến nơi tạm thiếu vốn, tận dụng triệt để nguồn vốn sẵn có trong nền
kinh tế, tránh phát hành mới của ngân hàng trung ương. Đồng thời thực hiện phân
bổ có hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Những chủ thể có nhu cầu vốn (Chính
phủ, doanh nghiệp, ngân hàng thương mại…) có thể phát hành các công cụ nợ
(ngắn hạn) để vay vốn trên thị trường. Những người mua công cụ nợ là những


34
người có nhu cầu tiết kiệm và đầu tư. Các công cụ nợ này là tài sản đối với người
mua đồng thời là tài sản nợ (nghĩa vụ) đối với người bán. Như vậy, Thị trường tiền
tệ đã thực hiện chức năng dịch chuyển nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi sang những
người có nhu cầu, từ đó hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống
của tất cả các chủ thể trong xã hội. Trong điều kiện thị trường vốn (thị trường cổ
phiếu và công cụ nợ dài hạn) chưa phát triển thì vai trò của thị trường tiền tệ càng
quan trọng và nó đảm nhiệm phần nào vai trò của thị trường vốn. Sự phát triển thị
trường tiền tệ đã góp phần quyết định cơ cấu đầu tư từ đó quyết định cơ cấu kinh tế,
đẩy nhanh tốc độ quay vòng của vốn, góp phần tăng trưởng kinh tế.
b-Thị trường tiền tệ là cơ sở phát triển thị trường tài chính
Thị trường tiền tệ làm cơ sở và tạo điều kiện cho sự phát triển và hoạt động có
hiệu quả của thị trường vốn. Thị trường tiền tệ là thị trường thanh khoản của các
công cụ dài hạn, vì các công cụ nợ dài hạn được giao dịch ngắn hạn trên thị trường.
Thị trường tiền tệ góp phần thúc đẩy thị trường huy động và cho vay vốn trung dài
hạn.Hoạt động mua,bán các công cụ nợ dài hạn (giao dịch ngắn hạn) trên thị trường

thứ cấp sôi động, sẽ tạo điều kiện phát hành dễ dàng các công cụ nợ đó trên thị
trường sơ cấp. Thị trường tiền tệ còn tạo điều kiện dễ dàng cho các nhà đầu tư cơ
cấu lại thời hạn của các công cụ nợ, như chuyển đổi các công cụ ngắn hạn thành các
công cụ dài hạn và ngược lại. Thị trường tiền tệ đóng vai trò là thị trường thứ cấp,
thị trường thanh khoản của các thị trường dài hạn,vì vậy thị trường tiền tệ hoạt động
tích cực sẽ thúc đẩy thị trường tài chính dài hạn hoạt động tích cực.
c-Thị trường tiền tệ là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước
Thị trường tiền tệ là phương tiện của Ngân hàng Trung ương thực hiện mục tiêu
chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Thực sự TTTT luôn hỗ trợ đắc lực trong việc
thực thi chính sách tiền tệ và điều tiết cân đối vĩ mô vì thông qua thị trường tiền tệ
có thể thấy được quá trình luân chuyển vốn, thực trạng vốn khả dụng của các
TCTD, đồng thời truyền tải các thông tin, tín hiệu của NHTW tới nền kinh tế một
cách kịp thời. Thực tiễn cho thấy, thị trường tiền tệ liên ngân hàng (thị trường mà
các thành viên là các ngân hàng) là thị trường hoạt động tích cực và năng động
nhất, góp phần sử dụng có hiệu quả nguồn vốn khả dụng và đảm bảo khả năng chi
trả cho các NHTM. NHTW là một thành viên đặc biệt của thị trường tiền tệ, thông
qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ như dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị
trường mở, tái cấp vốn…NHTW có thể kiểm soát và điều tiết được cơ số tiền tệ.


35
Các mức lãi suất trên TTTT được coi là lãi suất tham chiếu cho các giao dịch về
vốn của nền kinh tế. Ví dụ như LIBOR và SIBOR là các mức lãi suất được nhiều
Ngân hàng tham chiếu để xác định giao dịch trên thị trường, lãi suất huy động và lãi
suất cho vay trên thị trường tín dụng…trên cơ sở cộng hoặc trừ một biên độ phản
ánh mức độ rủi ro đối với từng đối tượng giao dịch. Như vậy, nếu NHTW kiểm soát
được lãi suất của thị trường tiền tệ thì có thể kiểm soát được toàn bộ nền kinh tế.
1.1.2.4- Cấu trúc của thị trường tiền tệ

Sân chơi trên thị trường tiền tệ chính là hệ thống các thị trường cấu thành thị

trường tiền tệ, bao gồm thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường tiền tệ mở
rộng. Có thể hình dung thị trường tiền tệ trong cấu trúc của hệ thống thị trường tài
chính qua sơ đồ sau.
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

THỊ TRƯỜNG VỐN

THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ

THỊ
TRƯỜNG
TIỀN TỆ
LIÊN
NGÂN
HÀNG

Thị
trường
Nội tệ
Liên
ngân
hàng

THỊ
TRƯỜNG
TIỀN TỆ
MỞ RỘNG

Thị
trường

Ngoại
tệ liên
ngân
hàng

THỊ
TRƯỜNG
TRÁI

THỊ
TRƯỜNG
CỔ

PHIẾU

PHIẾU

Thị
trường
Giấy tờ

Thị
trường
Tín
dụng

có giá

Sơ đồ 1.2: Thị trường tiền tệ trong cấu trúc hệ thống của thị trường tài chính



36
(*)- Thị trường tiền tệ liên ngân hàng
-Khái niệm thị trường tiền tệ liên ngân hàng
Thị trường liên ngân hàng là thị trường bán buôn vốn ngắn hạn giữa các
NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân hàng với nhau và với Ngân hàng Trung ương
nhằm đáp ứng khả năng thanh toán và khả năng sử dụng nguồn vốn của các tổ chức
tham gia. Thông qua TT LNH, các NHTM thực hiện trao đổi với nhau các khoản
vốn tạm thời thừa ở một số ngân hàng này, với các khoản vốn tạm thời thiếu ở một
số ngân hàng khác thông qua các tài khoản của họ ở ngân hàng Trung ương, nhằm
bù đắp số thiếu hụt quỹ dự trữ bắt buộc, đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách
hàng, bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng. Nói cách khác,
thị trường liên ngân hàng là nơi trao đổi vốn khả dụng giữa các tổ chức tài chính
trung gian, nhất là giữa các NHTM với nhau. Hay, thị trường liên ngân hàng là thị
trường mà ở đó diễn ra quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các ngân hàng.
Thành phần tham gia thị trường tiền tệ liên ngân hàng là những người kinh
doanh chứng khoán chính phủ, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các công ty phi
tài chính lớn, nhưng đông đảo nhất vẫn là các ngân hàng thương mại.
-Đặc điểm thị trường tiền tệ liên ngân hàng
Một là, thị trường liên ngân hàng là thị trường có độ tin cậy rất cao. Các giao
dịch trên TT LNH được thực hiện qua hệ thống thông tin liên lạc được kết nối trực
tuyến như điện thoại, telex, máy tính, fax, giao dịch qua hệ thống REUTER, sau đó
được xác nhận bằng văn bản, điện tín. Hoạt động bằng cách nối mạng giữa các
phòng giao dịch của các thành viên tham gia thị trường, và các công ty môi giới nếu
có, đó là các ngân hàng, công ty tài chính, và có thể là cả công ty bảo hiểm. Các
giao dịch thị trường phần lớn thông qua các nhà môi giới thị trường tiền tệ. Các nhà
môi giới này phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép. Các thành viên phải
là các tổ chức tài chính và với tư cách đó, phải đáp ứng những điều kiện chặt chẽ về
vốn và về chuyên môn.
Thành viên tham gia thị trường là NHTW, NHTM cùng các TCTC khác nên

các yêu cầu về vốn, ký quỹ, chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và giấy phép hành
nghề,v.v luôn được xã hội tôn trọng. Các giao dịch ở đây thường không có tài sản
đảm bảo, chủ yếu dựa trên uy tín của hoạt động kinh doanh. Mọi thủ tục pháp lý và
giao dịch được đơn giản hóa đến mức tối đa.


37
Hai là, thị trường liên ngân hàng là thị trường bán buôn vốn ngắn hạn, thường
giao dịch vốn ngắn hạn với khối lượng lớn, là quan hệ vay và cho vay lẫn nhau giữa
các thành viên (các NHTM, TCTC khác) nên thời hạn vay ngắn hạn, cho vay theo
ngày, tháng, và dưới một năm. Do với tính chất luân chuyển vốn giữa các ngân
hàng là bổ sung, bù đắp thiếu hụt vốn khả dụng nên có thời hạn ngắn.
Ba là, chủ thể tham gia thị trường liên ngân hàng đa dạng. Chủ thể tham gia
thị trường là các ngân hàng, các tổ chức trung gian tài chính, các nhà môi giới, do
đặc điểm kinh doanh tiền tệ mà các nhà kinh doanh tiền tệ thường có nhu cầu vốn
nhanh nên đã phát sinh quan hệ vay mượn lẫn nhau. Ngoài ra còn có NHTW tham
gia với hai tư cách vừa là thành viên, là người cho vay theo mục tiêu của chính sách
tiền tệ đồng thời là cơ quan quản lý và cũng có thể là người tổ chức thị trường.
Bốn là, đồng tiền giao dịch trên trị trường liên ngân hàng là nội tệ và ngoại tệ
Quan hệ vay và cho vay giữa các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng có thể
bằng nội tệ hoặc bằng ngoại tệ tuỳ theo nhu cầu vốn khả dụng cần bổ sung là nội tệ
hay ngoại tệ. Quan hệ vay, mua, bán nội tệ hình thành thị trường nội tệ liên ngân
hàng. Quan hệ mua, bán ngoại tệ hình thành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
- Các hình thức giao dịch trong thị trường liên ngân hàng
Thứ nhất, quan hệ vay vốn giữa các ngân hàng
Ngân hàng có vốn thừa tạm thời cho ngân hàng thiếu vốn tạm thời vay trong
một thời gian thoả thuận, hết hạn vay ngân hàng vay phải thanh toán tiền gửi vay
cho ngân hàng cho vay. Thực hiện quan hệ cho vay bằng cách người đi vay và
người cho vay ký với nhau hợp đồng vay vốn, thị trường liên ngân hàng thường vay
không cần thế chấp là chủ yếu.

Thứ hai, quan hệ gửi vốn giữa các ngân hàng
Ngân hàng gửi vốn vào ngân hàng khác thông qua việc mở cho ngân hàng
nhận tiền gửi một tài khoản tiền gửi. Ngân hàng nhận tiền gửi được phép sử dụng
tiền trên tài khoản đó. Trường hợp gửi tiền lẫn nhau thủ tục đơn giản hơn so với
hình thức cho vay. Khi cho vay phải lập hợp đồng vay vốn và có thể phải có tài sản
thế chấp nhưng hợp đồng gửi vốn thường không cần tài sản thế chấp.
Căn cứ đồng tiền giao dịch, tính đặc thù, thị trường liên ngân hàng được phân
chia thành thị trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.


38
(1)-Thị trường nội tệ liên ngân hàng
Thị trường nội tệ liên ngân hàng (còn gọi là thị trường tiền tệ trong nước), là
nơi giao dịch các nguồn vốn bằng các đồng bản tệ và hoạt động theo các qui chế
quản lý thị trường trong nước do Chính phủ hoặc ngân hàng trung ương nước đó
quy định. Thị trường này thực hiện các giao dịch mua bán các giấy nợ ghi bằng nội
tệ hoặc việc vay nợ giữa các ngân hàng thương mại, hay giữa các NHTM với
NHTW. Các hoạt động này chịu sự chi phối của luật pháp trong nước nhằm nhiều
mục đích.
(2)-Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (ngoại hối)
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (còn gọi là thị trường ngoại hối), là thị
trường mua bán ngoại tệ có tổ chức do Ngân hàng Trung ương thành lập và điều
hành, nhằm mục đích tổ chức việc giao dịch ngoại tệ giữa các ngân hàng thương
mại được phép kinh doanh ngoại tệ, làm cơ sở cho việc triển khai thị trường ngoại
hối hoàn chỉnh ở Việt Nam.
Thông qua thị trường ngoại hối, Ngân hàng Trung ương sử dụng Quỹ điều hoà
ngoại tệ với tư cách là người bán và người mua cuối cùng để can thiệp vào thị
trường một cách có hiệu quả, nhằm thực hiện chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ
của nhà nước. Thị trường ngoại hối là thị trường không có địa điểm về địa lý, do
vậy, trên thế giới chỉ có một thị trường ngoại hối duy nhất. Các giao dịch về một

ngoại tệ được tiến hành đồng thời ở tất cả các thị trường các nước ví dụ: cùng một
thời điểm có thể đồng thời có giao dịch tại Paris, London, New York,…
Sự chuyển hoá vốn giữa hai thị trường làm thay đổi cung, cầu ngoại tệ và nội
tệ, do vậy, hoạt động của hai thị trường luôn có mối quan hệ lẫn nhau và chính mối
quan hệ đó đã tạo điều kiện để hai thị trường hoạt động hiệu quả, thông suốt và có
nhiều sự đồng nhất. Hai thị trường hoạt động như hai bình thông nhau với cơ chế
hoạt động do chính các thành viên tham gia hai thị trường quyết định.
Quan hệ giữa hai thị trường còn được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa lãi
suất và tỷ giá, diễn biến lãi suất của thị trường này sẽ ảnh hưởng đến lãi suất của thị
trường kia. Khi lãi suất thực của đồng nội tệ tăng lên, lợi tức dự tính đầu tư vào
đồng nội tệ tăng, dẫn đến khả năng các ngân hàng di chuyển vốn từ ngoại tệ sang
nội tệ thông qua thị trường hối đoái giao ngay. Ngược lại, nếu trên thị trường đồng
nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ, các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư vào


39
ngoại tệ, có thể xảy ra tiền gửi nội tệ tại các ngân hàng giảm, nhu cầu vay nội tệ
tăng, để cân bằng các ngân hàng thường phải tăng lãi suất nội tệ nhằm hạn chế việc
đầu tư vào ngoại tệ. Như vậy, một sự thay đổi về lãi suất nội tệ đều ảnh hưởng đến
hoạt động của hai thị trường này. Sự biến động của tỷ giá cũng làm ảnh hưởng đến
cung cầu vốn nội tệ và vốn ngoại tệ giữa hai thị trường. Tỷ giá tăng (giá ngoại tệ
tăng) có thể xảy ra xu hướng nội tệ chuyển sang ngoại tệ và ngược lại.

(*)- Thị trường tiền tệ mở rộng
Thị trường tiền tệ mở rộng là thị trường mà đối tượng mua bán bao gồm các
ngân hàng, các công ty kinh doanh, môi giới chứng khoán và công chúng. Hay nói
cách khác, thị trường tiền tệ mở rộng là thị trường vốn ngắn hạn giữa các chủ thể
kinh tế như nhà nước, ngân hàng, doanh nghiệp và cả các cá nhân.
Căn cứ tính chất sản phẩm dịch vụ, thị trường tiền tệ mở rộng được chia thành
hai bộ phận đó là thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn và thị trường tín dụng.

(1)-Thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn
Thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn là nơi mua bán trao đổi các giấy tờ có giá
ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu thương mại, kỳ phiếu ngân hàng, chứng
chỉ tiền gửi tiết kiệm,tín phiếu của các công ty tài chính, khế ước giao hàng, v.v...
(2)-Thị trường tín dụng
Thị trường tín dụng là thị trường mà các nguồn vốn được luân chuyển theo
nguyên tắc tín dụng để huy động vốn từ những người có vốn và cho vay những
người cần vốn nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Căn cứ vào thành viên tham gia,
thị trường tín dụng được phân chia như sau:
-Tín dụng ngân hàng: Chủ thể tham gia là các ngân hàng với nhau (là thị
trường liên ngân hàng), hoặc giữa các ngân hàng và khách hàng của họ.
-Tín dụng thương mại: Chủ thể tham gia là các doanh nghiệp có quan hệ kinh
doanh thường xuyên với nhau.
-Tín dụng Nhà nước: Chủ thể tham gia là Nhà nước và các tầng lớp dân cư.
-Tín dụng tự do giữa các tầng lớp dân cư.
1.1.2.5-Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ
Mọi thành viên trong nền kinh tế đều có thể tham gia thị trường tiền tệ nên họ
đều có thể là chủ thể của thị trường này. Thành viên của thị trường tiền tệ gồm hai


40
loại chính. Loại thứ nhất đại diện cho bên cung vốn, là những tổ chức, cá nhân tạo
nên thị trường, như cung ứng hàng hoá, tổ chức việc giao dịch, mua bán, vay mượn,
đổi chác, thế chấp, thanh toán, v.v... Loại thứ hai đại diện cho bên cầu vốn, là các
nhà đầu tư, doanh nghiệp lớn nhỏ tham gia mua bán hàng hoá trên thị trường và tất
cả những người có tài khoản séc. Tuy nhiên sự phân định bên cung và bên cầu cũng
chỉ mang tính khái quát và có ý nghĩa trên thị trường sơ cấp, còn trên thị trường thứ
cấp các chủ thể tham gia thường xuyên có sự chuyển hóa trong từng mối quan hệ,
có lúc xuất hiện với tư cách là cung, nhưng có lúc lại xuất hiện với tư cách là cầu.
Vì vậy, có thể phân chia những thành viên chủ yếu của thị trường tiền tệ ra

thành năm loại như sau.
-Kho bạc Nhà nước là tổ chức phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ.
Kho bạc nhà nước tham gia thị trường tiền tệ chủ yếu để vay nợ, bù đắp thiếu
hụt tạm thời của ngân sách nhà nước và thực hiện chính sách tiền tệ của Chính phủ.
Đối tượng thường xuyên mua tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ là các doanh
nghiệp, các NHTM, các tổ chức tài chính và các tầng lớp dân cư. Thông qua việc
vay nợ và trả nợ, kho bạc nhà nước đã làm tăng thêm thu nhập cho các doanh
nghiệp và các tầng lớp dân cư dự trữ tín phiếu kho bạc, phát triển và mở rộng thị
trường tiền tệ, mặt khác tín phiếu kho bạc còn là một trong những công cụ quan
trọng để thực hiện chính sách tiền tệ. Như vậy, Kho bạc nhà nước là tổ chức cung
ứng hàng hoá cho thị trường tiền tệ.
Tín phiếu kho bạc là một loại chứng khoán nợ ngắn hạn của Chính phủ, có
mệnh giá phù hợp với sức mua của công chúng, thuận tiện trong việc mua bán, vay
mượn, trao đổi, thế chấp, thanh toán, dự trữ cho vay, ứng vốn, tạo tiền, bảo đảm các
khoản vay.
-Các Ngân hàng Thương mại là tổ chức phát hành kỳ phiếu ngân hàng, chứng
chỉ tiền gửi CDs và phiếu chấp nhận BAs.
Thị trường tiền tệ trước hết là nơi diễn ra quá trình cân bằng khả năng thanh
toán theo chiều ngang trong nội bộ hệ thống ngân hàng. Do cơ cấu kinh doanh khác
nhau, và những bất ngờ về nhu cầu thanh toán không dự tính trước được, các ngân
hàng phải mua bán tiền của Ngân hàng Trung ương với nhau, là khoản tiền dự trữ
của các ngân hàng thương mại gửi tại ngân hàng trung ương, qua tài khoản dư có
của mình tại Ngân hàng Trung ương.


41
Hoạt động của thị trường tiền tệ không thể tách rời hệ thống ngân hàng. Theo
quan hệ ngang, thị trường tiền tệ chủ yếu là thị trường giữa các ngân hàng. Còn theo
quan hệ dọc, thị trường tiền tệ là thị trường giữa một bên là các ngân hàng thương
mại, các tổ chức tín dụng và một bên là Ngân hàng Trung ương. Có tổ chức tham

gia hoặc với tư cách là người cho vay, hoặc với tư cách là người vay hoặc thường
vừa là người cho vay, vừa là người vay.
-Ngân hàng Trung ương.
Đây là cơ quan Chính phủ chịu trách nhiệm trực tiếp kiểm soát, điều chỉnh
hoạt động của các ngân hàng thương mại và cung cấp cho hệ thống ngân hàng khả
năng thanh toán cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng
trung ương là chủ thể số một đặc biệt quan trọng trên thị trường tiền tệ, là ngân
hàng cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua việc thực hiện chính sách tín dụng và
chính sách tiền tệ nhằm thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, ổn định giá
cả, đảm bảo việc làm.
-Nhà đầu tư.
Người đầu tư của thị trường tiền tệ bao gồm các tổ chức tài chính tín dụng và
người đầu tư tư nhân tham gia. Nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng tham gia
thị trường tiền tệ như hiệp hội tiết kiệm và cho vay, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng,
các tổ chức xã hội, các tổ chức tài chính quốc tế. Những tổ chức này có cùng mục
đích như các ngân hàng thương mại, đó là duy trì khả năng thanh toán, cho vay số
vốn nhàn rỗi để kiếm lãi và vay vốn khi cần thiết. Người đầu tư tư nhân theo qui
luật về lợi ích cá nhân thường chỉ tham gia thị trường tiền tệ khi lãi suất tăng với
mục đích là để thanh toán những khoản vay mượn mua sắm, đề phòng những tình
huống chưa dự kiến được, và tất nhiên là họ đầu cơ, hy vọng lãi suất tăng cao để
kiếm lời.
-Người môi giới và người kinh doanh.
Người kinh doanh tiền tệ (Dealers) là người tạo ra thị trường để các công cụ
thị trường tiền tệ lưu thông được, bằng cách báo giá chào mua và thông báo với
những người khác, với những người phát hành và những người đầu tư.
Người môi giới tiền tệ (Brokers) hay công ty môi giới là người dẫn dắt hai bên
mua, bán chứng khoán gặp nhau để được nhận tiền hoa hồng. Họ không kinh doanh
chứng khoán cho mình, phần lớn những người môi giới xuất hiện giữa các ngân



42
hàng đang mua vốn, hoặc chứng khoán, hay bán vốn cho ngân hàng khác, họ có mặt
ở mọi nơi trên thị trường tiền tệ. Đối với người môi giới, hệ thống giao tiếp rất quan
trọng. Họ sử dụng điện thoại trực tiếp, hệ thống máy tính truyền tin về giá hiện
hành, giá chào bán, giá chào mua.
1.1.2.6 -Các công cụ được trao đổi, mua bán trên thị trường tiền tệ
Để hiểu đầy đủ về phương thức luân chuyển vốn của thị trường tiền tệ, cần
nghiên cứu các loại công cụ của thị trường - chính là hàng hoá lưu thông của thị
trường tiền tệ. Do có kỳ hạn thanh toán ngắn nên các công cụ nợ được mua bán trên
thị trường tiền tệ có mức dao động giá thấp và có rủi ro ít nhất. Các công cụ của thị
trường tiền tệ (Money market instruments) là các chứng từ (chứng khoán nợ) có khả
năng chuyển nhượng, thể hiện nghĩa vụ của người phát hành phải trả một khoản tiền
nhất định vào một ngày đã định thường trong phạm vi một năm cho người sở hữu
chứng khoán. Các công cụ này được phân biệt thành hai loại là công cụ chiết khấu
và công cụ mang lãi suất.
1. Công cụ chiết khấu là những giấy chứng nhận nợ ngắn hạn không mang lãi
suất, được bán với giá chiết khấu và được thanh toán khi đến hạn với đầy đủ mệnh
giá. Có một số loại công cụ chiết khấu như sau.
Tín phiếu kho bạc (treasury bills- T.bills).
Tín phiếu kho bạc (TPKB) là loại chứng khoán nợ ngắn hạn của Chính phủ do
kho bạc nhà nước phát hành nhằm bù đắp số thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà
nước. TPKB còn là một trong những công cụ quan trọng để ngân hàng trung ương
điều hành chính sách tiền tệ.
Thương phiếu (Commercial paper).
Thương phiếu là giấy nhận nợ ngắn hạn do các doanh nghiệp phát hành để tài
trợ nhu cầu vốn tạm thời của doanh nghiệp. Tuy có nhiều loại nhưng thương phiếu
đều xuất phát từ quan hệ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp. Hầu hết thương
phiếu có thời hạn dưới 270 ngày, nhưng trên thực tế phần lớn thương phiếu có thời
hạn 30 ngày hay nhỏ hơn. Lãi suất của thương phiếu phụ thuộc vào thời hạn thanh
toán của nó, vào số lượng tiền vay và vào mức lãi suất chung của thị trường tiền tệ.

Phiếu chấp nhận của ngân hàng (Bankers’ acceptances- BAs).
Chấp nhận của ngân hàng là hối phiếu do doanh nghiệp phát hành và được
ngân hàng đóng dấu “đã chấp nhận” lên hối phiếu và có thể được chuyển nhượng.


43
Bas cung cấp cho người vay tín dụng lãi suất thấp và cung cấp cho ngân hàng một
loại chứng khoán có khả năng mua bán trao đổi trên thị trường.
2 Công cụ mang lãi suất.
Các chứng khoán mang lãi suất được phát hành với mệnh giá cố định, được
đáo hạn vào những ngày nhất định và có lãi suất – là lãi suất hàng năm mà người
phát hành hứa thanh toán cho người nắm giữ tính trên mệnh giá của chứng khoán
khi chưa đến hạn thanh toán. Trên thực tế có rất nhiều loại công cụ mang lãi suất.
Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng (Certificate of deposit – CDs).
Chứng chỉ tiền gửi là công cụ vay nợ do NHTM bán cho người gửi tiền với lãi
suất nhất đinh, thời hạn nhất định và được lưu thông khi chưa đến hạn thanh toán.
Người sở hữu CDs có thể được hoàn trả hết toàn bộ số tiền gửi cộng với lãi suất
hoặc có thể bán CDs trên thị trường thứ cấp. Các CDs là công cụ mạng lãi suất, lãi
suất của nó được tính toán trên cơ sở 360 ngày và được trả theo mệnh giá và thời
hạn. CDs là công cụ vay nợ của ngân hàng do ngân hàng bán cho người gửi tiền với
lãi suất được qui định cho từng thời hạn nhất định, lãi suất được trả hàng năm (360
ngày/năm ). Khi đến thời hạn thanh toán, CDs được thanh toán theo mệnh giá ( giá
mua ban đầu ).
Hợp đồng mua lại (Repurchase agreement – REPO hay RP).
Hợp đồng mua lại là những món vay ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán thường ít
hơn 2 tuần lễ) trong đó tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ…được dùng làm
vật bảo đảm một tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không
thanh toán được nợ. Lãi suất của RP thấp hơn lãi suất vay vốn của ngân hàng
trung ương. Lãi suất qua đêm (1 ngày) là một trong những loại lãi suất thấp nhất
trên thị trường tiền tệ.

Vốn Ngân hàng Trung ương.
Vốn ngân hàng trung ương không phải là vốn phát hành tiền giấy, cũng không
phải là khoản chi của ngân sách nhà nước cấp cho ngân hàng trung ương hoạt động,
mà là một phần tiền gửi dự trữ bắt buộc của tất cả các ngân hàng thương mại và tổ
chức tín dụng trong cả nước gửi tại ngân hàng trung ương.


×