Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

đề cương quản lý và quy hoạch đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.58 KB, 19 trang )

Quy hoạch, sử dụng và quản lý tài nguyên đất
1. Trình bày và giải thích cấu trúc phân tầng đất. Những tác động nào của con
người và thiên nhiên có thể làm suy thoái, xói mòn hoặc giảm thiểu độ dày và năng
lực sản xuất tầng đất mặt. Cho ví dụ minh họa
Trình bày và giải thích cấu trúc phân tầng đất.
- Tầng O: tầng thảm mục
Tầng thảm mục nằm trên mặt đất, chứa cành lá và những vật rơi rụng
Tầng O chỉ xuất hiện dưới rừng, dưới đồng cỏ nơi mà chất hữu cơ trả lại cho đất khá
nhiều. Ngoài ra sự xuất hiện của tầng O còn phụ thuộc vào khả năng phân giải các chất
hữu cơ. Những nơi phân giải chất hữu cơ thuận lợi tầng O thường ít xuất hiện hoặc mỏng.
Ở Việt Nam, càng lên cao theo độ cao thuyệt đối thì càng dễ thấy tầng O
Dưới rừng cây họ dầu, cây lá kim cũng dễ xuất hiện tầng O
Người ta còn có thể phân nhỏ tầng đất này thành các lớp, tùy thuộc hiện trạng phân hủy
của vi sinh vật.
- Được chia làm 3 tầng nhỏ hơn:
O1: Chứa những hợp chất hữu cơ chưa phân giải
O2: Lớp chứa những vật thể hữu cơ đã bán phân hủy, đã mềm nhũn, màu sắc biến đổi
gần như là màu nâu và có các sợi nấm chằng chịt, những sợi nấm này có thể bó những vật
thể hữu cơ thành từng bánh, từng tấm khi lật nó lên, thường thì lớp này có mùi hắc hắc
như mùi kháng sinh.
O3: Chứa những hợp chất hữu cơ đã bị phân giải, hầu như không còn hình dáng ban đầu,
màu nâu, độ ẩm lớn, độ chua cao, thường màu đen, màu nâu đôi khi có sợi nấm, người ta
có thể gọi đây là lớp mùn khô.
- Tầng A: Tầng mùn
Là lớp đất mặt tích lũy rất nhiều các chất hữu cơ, có màu đen hơn so với các lớp đất dưới
Được chia thành 3 tầng
A1: là tầng tích lũy nhiều mùn nhất, màu đen nhất, giàu dinh dưỡng. Tầng đất A1 thường
là tơi xốp, có kết cấu viên hạt, chứa nhiều chất dinh dưỡng khoáng, nhiều vi sinh vật.
Những nơi xuất hiện tầng đất A1 thì đất phì nhiêu phong phú, thường là đất dưới tán
rừng, đồng cỏ, nơi hàm lượng chất hữu cơ trả lại cho đất khá phong phú.
A2: nằm dưới tầng A1 còn gọi là tầng rửa trôi, màu sáng hơn các tầng bên cạnh.




Tầng đất này không có kết cấu, nghèo dinh dưỡng, đất chua, chứa chủ yếu là cát thứ sinh
(thạch anh thứ sinh) hạt nhỏ mịn. Nghèo vi sinh vật, mùn, dinh dưỡng. Tầng này thường
thấy ở đặc trưng của đất potzon.
Được hình thành ở vùng khí hậu ôn đới. Ở Việt Nam có ở Phaxipăng, Ngọc Linh.
A3: nằm dưới tầng A2, gọi là tầng chuyển tiếp xuống tầng B, vừa mang tính chất của
tấng đất A vừa mang tính chất của tầng đất B, tuy nhiên nó mang tính chất của tầng đất A
nhiều hơn.
- Tầng B: tầng tích tụ
Sự tích tụ của sét, ion, các chất hữu cơ của các tầng trên O, A, A2
Sự thay đổi về màu sắc và cấu trúc của đá mẹ (Bw)
B1: tầng chuyển tiếp từ A
B2: tầng tích tụ điển hình, chứa một số chất bị rửa trôi từ các tầng đất phía trên xuống.
B3: tầng chuyển tiếp sang C
- Tầng C: tầng mẫu chất
Nằm dưới tầng đất điển hình A và B kéo dài xuống tầng đá mẹ
Được hình thành từ sự phong hóa đá và khoáng ban đầu, nó đã bị tơi xốp, đã có khả năng
chứa khí, chứa nước nhưng độ phì chưa hoàn thiện. Thông thường nó vẫn còn giữ nguyên
vết nứt của đá, nhưng dùng cuốc xẻng cũng có thể cạo được.
- Tầng D: tầng đá mẹ, cứng chưa phân hóa.
* Những tác động nào của con người và thiên nhiên có thể làm suy thoái, xói mòn
hoặc giảm thiểu độ dày và năng lực sản xuất tầng đất mặt. Cho ví dụ minh họa
- Xói mòn do gió: Hiện tượng xói mòn do gió thường xảy ra ở những vùng đất có thành
phần cơ giới nhẹ: như những vùng đất cát ven biển, đất vùng đồi bán khô hạn
Mức độ xói mòn do gió mạnh hay yếu phụ thuộc vào những yếu tố sau:
+ Tốc độ gió
+ Thành phần cơ giới của đất
+ Độ ẩm đất và ko khí
+ Độ che phủ của thảm hực vật.

+ Mức độ cản trở của băng chấn


- Xói mòn do nước: là sự xói mòn do sự công phá của những hạt mưa đối với lớp đất mặt
và sức cuốn trôi của dòng chảy trên bề mặt đất. Đây là loại xói mòn ở những vùng đất
dốc khi không có lớp phủ thực vật, gây ra các hiện tượng xói mặt, xói rãnh, xói khe.
- Xói mòn do trọng lực: do đặc tính vật lý của đất là có độ xốp, đất có nhiều khe hở với
nhiều kích thước khác nhau và lực hút của quả đất nên đất có khả năng di chuyển từ tầng
đất trên bề mặt xuống tầng đất sâu do chính trọng lượng của nó hoặc có thể là đất bị trôi
nhẹ theo khe rãnh.
- Xói mòn đất do các hoạt động sản xuất và quản lí của con người
Các hoạt động và quản lí đất đã dẫn đến xói mòn đất: khai thác rừng không hợp lí, phá
rừng làm nương rẫy. Canh tác nông nghiệp không bền vững, cháy rừng, chăn thả gia súc
quá mức, xây dựng đường điện, cầu cống, đường điện ở vùng núi không hợp lý, trồng
rừng quy mô lớn nhưng không chú ý đến hỗn loài và chọn loại cây thích hợp.
Nguyên nhân của sự suy thoái đất
Nguyên nhân của thoái hóa đất do tự nhiên
+ Sông suối thay đổi dòng chảy, núi lở...;
+ Do thay đổi khí hậu, thời tiết: mưa, nắng, nhiệt độ, gió, bão...;
+ Mưa liên tục, cường độ lớn: gây lũ quét, rửa trôi xói mòn trên vùng đồi núi và ngập úng
ở vùng thấp trũng. Trên vùng đất dốc xói mòn rửa trôi mạnh sẽ tạo nên đất xói mòn trơ
sỏi đá hoặc mất lớp đất mặt với tầng mùn/hữu cơ. Ngược lại, tại những vùng thấp trũng
ngập nước liên tục sẽ tạo nên các loại đất lầy thụt, úng trũng, chỉ thích hợp với các loại
thực vật thủy sinh. Cả hai loại đất suy thoái này đều có hại cho sản xuất, thậm chí không
còn khả năng sản xuất nông nghiệp.
Nguyên nhân của sự thoái hóa đất do con người
Nhiều hoạt động sản xuất của con người dẫn đến làm thoái hóa đất
+ Chặt đốt rừng làm nương rẫy, trồng cây lương thực ngắn ngày trên đất dốc theo phương
pháp bản địa: Làm sạch đất (đốt), chọc lỗ bỏ hạt, không có biện pháp chống rửa trôi xói
mòn đất vào mùa mưa và giữ ẩm đất vào mùa khô, không bón phân, đặc biệt trả lại chất

hữu cơ cho đất. Chỉ sau vài ba năm trồng tỉa, đất bị thoái hóa không còn khả năng sản
xuất do đất không còn chất dinh dưỡng, tầng đất mỏng, trơ sỏi đá, thiếu nước.
+ Trong quá trình trồng trọt, không có biện pháp bồi dưỡng, bảo vệ đất như bón phân hữu
cơ, trồng xen hoặc luân canh các loài cây phân xanh, cây họ đậu, trồng độc canh.
Vì vậy, cho dù đất phù sa phì nhiêu màu mỡ, sau một thời gian canh tác độc canh sẽ dẫn
đến đất bị thoái hóa theo con đường bạc màu hóa hoặc bạc điền hóa (đất chua, mất phần


tử cơ giới limon và sét trên tầng mặt, mất chất hữu cơ, mất kết cấu đất, kiệt quệ chất dinh
dưỡng), làm giảm khả năng sản xuất, năng suất cây trồng thấp và bấp bênh.
2. Trình bày và phân tích vai trò của chất hữu cơ trong đất. Quá trình tích lũy và
phân giải chất hữu cơ trong đất xảy ra như thế nào
Trình bày và phân tích vai trò của chất hữu cơ trong đất
Chất hữu cơ chứa nhiều mùn và acid humic đóng vai trò quan trọng trong đất bổ sung các
nguyên tố đa vi lượng, giúp cho các vi sinh vật có ích phát triển làm đất tơi xốp, tăng độ
phì của đất và ngăn chặn hiện tượng ngộ độc hữu cơ cho cây trồng, kích thích hệ rễ phát
triển mạnh, tăng khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng, tăng khả năng chống chịu với các
điều kiện bất lợi như khô hạn, giá rét, tăng tính đệm của đất, đồng thời giúp cho cây trồng
giảm ngộ độc trong vùng đất phèn.
Chất hữu cơ trong đất được chia làm 5 loại chính như sau: Chất thải động vật; Phụ phẩm
trong nông nghiệp (rơm rạ, xác bã cá…); Phân cây xanh; Rác thải đô thị.
Than bùn: chứa nhiều dinh dưỡng cho cây trồng, đặc biệt có acid humic có tác dụng kích
thích tăng trưởng của cây. Hàm lượng đạm tổng số trong than bùn cao hơn trong phân
chuồng gấp 2 – 7 lần nhưng chủ yếu ở dạng hữu cơ. Các chất đạm này cần được phân
hủy thành đạm vô cơ để cây sử dụng.
Có thể nói chất hữu cơ và mùn đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với tất cả quá trình
xảy ra trong đất và hầu hết các tính chất lý, hoá, sinh của đất. Vai trò của chúng được thể
hiện ở những điểm chính sau
1. Ðối với quá trình hình thành và tính chất đất
+ Chất hữu cơ trong đất là dấu hiệu cơ bản phân biệt đất với đá mẹ. Sự tích luỹ của chất

hữu cơ trong đất gắn liền với sự phát sinh đất.
+ Sự tích luỹ chất hữu cơ và mùn tập trung ở tầng đất mặt là dấu hiệu hình thái quan
trọng biểu thị độ phì nhiêu của đất.
+ Với lý tính đất: chất hữu cơ có tác dụng cải thiện trạng thái kết cấu đất, các keo mùn
gắn các hạt đất với nhau tạo thành những hạt kết tốt, bền vững, từ đó ảnh hưởng đến toàn
bộ lý tính đất như chế độ nước (tính thấm và giữ nước tốt hơn), chế độ khí, chế độ nhiệt
(sự hấp thu nhiệt và giữ nhiệt tốt hơn), các tính chất vật lý phổ biến của đất, việc làm đất
cũng dễ dàng hơn. Nhờ đó mà nếu đất giàu chất hữu cơ người ta có thể trồng trọt tốt cả
nơi đất có thành phần cơ giới quá nặng hoặc quá nhẹ.
+ Với hoá tính đất: chất hữu cơ xúc tiến các phản ứng hoá học, cải thiện điều kiện oxy
hoá, gắn liền với sự di động và kết tủa của các nguyên tố vô cơ trong đất. Nhờ có nhóm
định chức các hợp chất mùn nói riêng, chất hữu cơ nói chung làm tăng khả năng hấp phụ
của đất, giữ được các chất dinh dưỡng, đồng thời làm tăng tính đệm của đất.


2. Chất hữu cơ là kho thức ăn cho cây trồng và vi sinh vật
+ Chất hữu cơ đất (kể cả các chất mùn và ngoài mùn) đều chứa một lượng khá lớn các
nguyên tố dinh dưỡng: N, P, K, S, Ca, Mg và các nguyên tố vi lượng, trong đó đặc biệt là
N. Những nguyên tố này được giữ một thời gian dài trong các hợp chất hữu cơ, vì vậy
chất hữu cơ đất vừa cung cấp thức ăn thường xuyên vừa là kho dự trữ dinh dưỡng lâu dài
của cây trồng cũng như vi sinh vật đất.
+ Chất hữu cơ còn là nguồn lớn cung cấp CO2 cho thực vật quang hợp.
+ Chất hữu cơ đất chứa một số chất có hoạt tính sinh học (chất sinh trưởng tự nhiên, men,
vitamin...) kích thích sự phát sinh và phát triển của bộ rễ, làm nâng cao tính thẩm thấu
của màng tế bào, huy động dinh dưỡng...
Theo L.A. Horistreva nồng độ dung dịch thật của axit humic ở nồng độ một vài phần
nghìn, phần vạn có tác dụng kích thích sinh trưởng thực vật, nhưng nếu tăng đến một vài
phần trăm thì trái lại có tác dụng kìm hãm sinh trưởng.
3. Chất hữu cơ đất có tác dụng duy trì bảo vệ đất
+ Chất hữu cơ chứa các hợp chất kháng sinh cho thực vật chống lại sự phát sinh sâu bệnh

và là môi trường rất tốt làm tăng hoạt tính của hầu hết vi sinh vật đất.
+ Tăng cường sự phân giải của vi sinh vật hoặc xúc tác cho sự phân giải các thuốc bảo vệ
thực vật trong đất.
+ Cố định các chất gây ô nhiễm trong đất, làm giảm mức độ dễ tiêu của các chất độc cho
thực vật.
Quá trình tích lũy và phân giải chất hữu cơ trong đất xảy ra như thế nào?
Nguồn gốc chất hữu cơ đất
Trong đất tự nhiên nguồn hữu cơ cung cấp duy nhất cho đất là tàn tích sinh vật bao gồm
xác thực vật, động vật và vi sinh vật. Ðối với đất trồng trọt ngoài tàn tích sinh vật còn có
một nguồn hữu cơ bổ sung thường xuyên đó là phân hữu cơ.
1. Tàn tích sinh vật
+ Sinh vật sống trong đất, lấy chất dinh dưỡng từ đất để sinh trưởng, phát triển, khi chết
để lại những tàn tích hữu cơ (xác hữu cơ). Trong tàn tích sinh vật, chủ yếu (tới 4/5) là tàn
tích thực vật màu xanh. Trong quá trình sống chúng quang hợp tạo chất hữu cơ và khi
chết chúng để lại cho đất: thân, rễ, cành, lá, quả và hạt.
+ Thực vật màu xanh có nhiều loại, số lượng và chất lượng chất hữu cơ chúng đưa vào
đất cũng khác nhau. Cây gỗ sống lâu năm cung cấp chủ yếu là cành, lá khô và quả rụng
tạo thành trên mặt đất một tầng thảm mục ở đất rừng, sau đó mới bị phân giải bởi vi sinh


vật đất. Cây thân cỏ cho lượng chất hữu cơ nhiều và tốt hơn, lượng hữu cơ mà chúng để
lại trong đất chủ yếu lại là rễ. Ở vùng đồng cỏ lượng rễ để lại trong đất ở tầng mặt (0- 1
m) hàng năm 8 - 28 tấn/ha. Ðối với cây thân cỏ hàng năm, lượng rễ để lại trong đất ít
hơn, khoảng 3 - 5 tấn/ha; lượng thân, lá khoảng 0,5 - 13 tấn/ha, phần lớn thân lá của
chúng bị người và súc vật sử dụng, vì vậy lượng tàn tích hữu cơ để lại trong đất để hình
thành mùn không nhiều.
+ Ngoài thực vật màu xanh còn có xác động vật và vi sinh vật, lượng của chúng không
nhiều, thường không vượt quá 100 - 200 kg/ha/năm trong đa số các loại đất, song chất
lượng lại rất tốt đối với dinh dưỡng cây trồng.
+ Thành phần hoá học của những tàn tích hữu cơ rất khác nhau tuỳ thuộc vào nguồn gốc

của chúng. Nhìn chung các tàn tích hữu cơ chứa đến 75 - 90% là nước. Trong thành phần
chất khô, ngoài các chất gluxit, protit, lipit, lignin, tanin, nhựa, sáp, tàn tích hữu cơ còn
chứa một lượng nhất định các nguyên tố vô cơ (bảng 4.1). Phần lớn các hợp chất hữu cơ
trong cây là những hợp chất cao phân tử, ví dụ phân tử lượng protit: 105 - 106,
polisacarit: 106. Tỷ lệ giữa các nhóm hợp chất chính trong các tàn tích hữu cơ khác nhau
cũng rất khác nhau.
Ngoài hợp chất hữu cơ trong tàn tích sinh vật có chứa một lượng các nguyên tố tro.
Lượng chứa và tỷ lệ giữa chúng phụ thuộc vào từng loại sinh vật và điều kiện sống của
chúng. Trong thành phần tro có K, Ca, Mg, Si, P, S, Fe... Chúng được chứa nhiều ở các
cây thân cỏ.
+ Sau khi chết, xác sinh vật đi vào đất hoặc bị phân giải hoặc được chuyển hoá thành các
hợp chất mùn
2. Phân hữu cơ
Ðối với đất trồng trọt, nhất là những nơi có mức độ thâm canh cao thì phân hữu cơ là một
nguồn lớn bổ sung chất hữu cơ cho đất. Trong các thập niên 70, 80 của thế kỷ 20, ở nhiều
vùng đất, người dân thu hoạch cả hạt lẫn cây, vì vậy phân hữu cơ gần như nguồn chính để
tăng lượng mùn trong đất. Hiện nay có nhiều loại phân hữu cơ: phân chuồng, phân bắc,
phân rác, phân xanh, bùn ao... Số lượng và chất lượng của chúng tuỳ theo trình độ kỹ
thuât canh tác, thâm canh cây trồng ở mỗi nơi.
Quá trình phân giải chất hữu cơ và hình thành chất mùn đất
Các chất hữu cơ trong đất có quá trình biến đổi phức tạp với sự tham gia trực tiếp của
các sinh vật đất và chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đất. Một phần trong chúng
bị khoáng hoá hoàn toàn tạo thành các chất khoáng đơn giản, một phần được các sinh vật
đất sử dụng để tổng hợp protein, lipit, đường và các hợp chất khác xây dựng cơ thể
chúng, một phần sẽ trải qua quá trình biến đổi phức tạp và tái tổng hợp thành các hợp
chất cao phân tử được gọi là chất mùn.


Nói một cách khác, các chất hữu cơ khi đi vào đất sẽ chịu tác động của 2 quá trình
xảy ra đồng thời là quá trình khoáng hoá và quá trình mùn hoá. Tuỳ theo điều kiện đất đai

và hoạt động của sinh vật đất mà một trong hai quá trình trên có thể chiếm ưu thế ở trong
đất.
Các hợp chất mùn sau khi được hình thành cũng chịu tác động phân giải chậm để tạo
thành các chất khoáng.
Quá trình khoáng hoá chất hữu cơ trong đất (vô cơ hoá)
Khoáng hoá là quá trình phân huỷ các hợp chất hữu cơ thành các chất khoáng đơn giản
như CO2, H2O, NO3-, NH4+, Ca2+, Mg2+, K+...
Đây là quá trình biến đổi phức tạp và trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trước hết
các chất hữu cơ phức tạp bị phân giải thành các chất hữu cơ đơn giản hơn gọi là các sản
phẩm trung gian. Ví dụ như từ các phân tử protein bị phân huỷ tạo thành các mạch peptit,
sau đó là các axit amin; các hyđratcacbon bị phân huỷ tạo thành các hợp chất đường, sau
đó các hợp chất trung gian này tiếp tục bị phân huỷ tạo thành các sản phẩm cuối cùng là
các chất khoáng.
Tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường và hoạt động của các vi sinh vật đất mà quá trình
khoáng hoá chất hữu cơ có thể diễn ra theo hai con đường khác nhau là thối mục và thối
rữa.
- Thối mục là quá trình hiếu khí diễn ra trong điều kiện có đầy đủ oxy. Sản phẩm
cuối cùng của quá trình này chủ yếu là các chất ở dạng oxy hoá như CO2, H2O, NO3-,
PO43-, SO42-. Đây là quá trình toả nhiệt và kết quả làm tăng nhiệt độ của đất.
- Thối rữa là quá trình kỵ khí diễn ra trong điều kiện thiếu oxy do ngập nước hoặc do
các vi sinh vật hiếu khí phát triển nhanh đã sử dụng hết oxy trong đất. Sản phẩm cuối
cùng của quá trình thối rữa bên cạnh các chất ở dạng oxy hoá như CO2, H2O còn có một
lượng lớn các chất ở dạng khử như CH4, H2S, PH3, NH3...
Tốc độ khoáng hoá các chất hữu cơ trong đất phụ thuộc vào bản chất chất hữu cơ,
điều kiện môi trường và hoạt động của sinh vật đất. Nhìn chung các hợp chất đường và
tinh bột dễ bị khoáng hoá nhất; tiếp đó là các chât protein, hemixenlulô, xenlulô; các hợp
chất linhin, nhựa sáp khó bị phân huỷ hơn.
Các điều kiện môi trường như độ ẩm, nhiệt độ, chế độ không khí, thành phần và tính
chất dung dịch đất cũng có ảnh hưởng mạnh đến tốc độ của quá trình khoáng hoá. Thông
thường ở độ ẩm đất 70%, pH 6,5 – 7,5, nhiệt độ 25 – 30oC và có đủ không khí là thích

hợp cho hoạt động của vi sinh vật đất và do đó quá trình khoáng hoá cũng xảy ra mạnh.
Trong điều kiện như vậy chất hữu cơ bị phân giải nhanh chóng và mùn ít được tích luỹ.
Chính vì vậy mà quá trình phân huỷ chất hữu cơ ở các đất có thầnh phần cơ giới nhẹ (như


đất cát) cũng diễn ra nhanh hơn ở các đất có thành phần cơ giới nặng (đất thịt nặng và đất
sét).
Quá trình mùn hoá
Con đường tích luỹ chất hữu cơ sau 1 năm bón vào đất (theo Brady 1990)
Mùn hoá là quá trình phân giải tái tổng hợp các chất hữu cơ tạo thành chất mùn với sự
tham gia tích cực của các sinh vật đất.
Mùn là1 tập hợp phức tạp gồm các hợp chất hữu cơ, các humic và 2 axit đặc trưng là axit
humic và axit fluvic, vật chất mùn quyết định nhiều tính chất lý hóa họ, nguồn dự trữ
dinh dưỡng và chi phối các điều kiện đất
Ngày nay, nhiều bằng chứng cho thấy sự hình thành chất mùn có sự tham gia tích cực của
các quá trình sinh hoá, đặc biệt là các vi sinh vật đất. Sự hình thành chất mùn bằng con
đường hoá học đơn thuần là rất hạn chế, nó chỉ có thể gặp ở những nơi có điều kiện bất
lợi cho các quá trình sinh học như đất quá chua hoặc quá nhiều độc tố. Chúng ức chế các
quá trình sinh học xảy ra.
Quan điểm sinh hoá về sự hình thành chất mùn cho rằng chất mùn được hình thành từ sản
phẩm phân giải và tái tổng hợp các chất hữu cơ thông thường với sự tham gia tích cực
của các phản ứng sinh hoá, đặc biệt là các men do các vi sinh vật tiết ra.
Tham gia vào quá trình mùn hoá ngoài protit, lignin, tanin còn có những sản phẩn khác
của quá trình phân giải xác hữu cơ đất. Trong quá
trình sống của mình, vi sinh vật đất sửdụng những sản phẩm phân giải hữu cơ, những sản
phẩm trao đổi chất và tổng hợp của vi sinh vật như axit, đường, amin, hợp chất thơm...
cũng tham gia cấu tạo nên phân tử mùn
Quá trình hình thành mùn xảy ra theo ba bước:
Bước 1: từ protit, gluxit, lignin, tanin... (trong xác hữu cơ, hoặc là sản phẩm tổng hợp của
vi sinh vật) phân giải thành các sản phẩm trung gian.

Bước 2: tác động giữa các hợp chất trung gian đểtạo thành những liên kết hợp chất, đó là
những hợp chất phức tạp.
Bước 3: trùng hợp các liên kết trên tạo thành các phân tử mùn
Những nhân tốchính ảnh hưởng đến sựmùn hoá là: chếđộnhiệt, không khí và nước của
đất, thành phần cơ giới và các tính chất lý hoá học của đất, thành phần và cường độ hoạt
động của vi sinh vật, thành phần xác hữu cơ đất


3. Trình bày và lý giải các nguyên nhân xảy ra hiện tượng mặn hóa đất. Nêu 1 giải
pháp có thể có để hạn chế tác tại của quá trình mặn hóa hiện nay tại Việt Nam. Cho
ví dụ.
Đất mặn: là đất có chứa nhiều muối hòa tan (1-1.5% hoặc hơn): NaCl, Na2SO4, CaCl2,
CaSO4, MgCl2, NaHCO3… Những loại muối này có nguồn gốc khác nhau (nguồn gốc
lục địa, nguồn gốc biển, nguồn gốc sinh vật…), nhưng nguồn gốc nguyên thủy của chúng
là từ các thành phần khoáng của đá núi lửa. Trong quá trình phong hóa đá, những muối
này bị hòa tan, di chuyển tập trung ở những dạng địa hình trũng, không thoát nước.
Mặn hóa: là quá trình xâm nhiễm và tích tụ các muối và kim loại kiềm trong môi trường
đất, nước khi các môi trường thành phần này từ chỗ chưa bị mặn trở thành mặn
Nguyên nhân gây mặn: Dựa vào nguồn gốc, đặc điểm tích lũy muối, người ta chia quá
trình mặn hóa này thành 3 loại:
Như ta cũng đã biết, đất có nguồn gốc từ sự phong hóa đá. Các loại đá, bản thân chúng
điều có chứa một lượng muối khoáng nhất định. Đây chính là nguồn gốc của muối trong
đất. Khi đá trong tự nhiên bị các tác động của các quá trình phong hóa vật lí, phong hóa
hóa học gồm có sự thủy phân, sự hydro hóa, sự hòa tan, sự oxy hóa và sự carbonate hóa,
các yếu tố cấu tạo nên đá được thả ra dần và làm hòa tan các muối khoáng có trong đá
ban đầu. Các muối này nếu không bị rửa trôi đi nơi khác sẽ tích tụ ngay tại vùng đất đó,
ngày tháng trôi qua, lượng muối tích tụ này ngày một nhiều…và đến một lúc nào đó,
chúng thật sự làm cho đất có tính chất của đất mặn- đất đã bị mặn hóa…
Từ nguyên nhân này, ta cũng có thể suy ra rằng, các vùng đất trũng, thấp, thường tích tụ
nhiều vật chất từ các nơi khác cũng là những vùng đất có nguy cơ bị mặn hóa cao. Các

vùng đất này có thể là các trũng của đồng bằng, các vùng cửa sông…( tuy các vùng này
không phải là các vùng khô, bán khô hạn, ít mưa…). Ở các vùng này, các ion muối
khoáng có trong đất do quá trình phong hóa đá ở các vùng có địa thế cao sẽ bị các tác
động bên ngoài như mưa, lũ, gió rửa trôi xuống các vùng trũng thấp, do là các vùng trũng
thấp nên các muối này bị giữ lại và lắng xuống, tích tụ ngày một nhiều. làm cho đất trở
thành đất mặn.
*Ảnh hưởng của nước biển: Xảy ra ở miền nhiệt đới do ảnh hưởng trực tiếp của biển.
Nước biển xâm nhập vào nội đồng theo con sông ngoài khi thủy triều lên cao,qua các trận
mưa bão vỡ đê biển hoặc vào mùa khô khi nước ngọt ở các con sông chảy ra biển có lưu
lượng thấp,nước ngọt không đủ lực để đẩy nước mặt khi thủy triều mạnh. Nước mặn
cũng theo các mao mạch ,đường nứt trong đất,đi qua các con đê biển thấm sâu vào nội
đồng. Có nơi cách xa biển tới 40 km vẫn bị ảnh hưởng của quá trình này.Ở Việt Nam, đất
mặn có xấp xỉ 2 triệu hecta, chiếm gần 6% tổng diện tích đất tự nhiên và quá trình mặn
hóa là do ảnh hưởng của nước biển, do đó thành phần các loại muối tan ở đất mặn Việt
Nam giống như thành phần muối tan của nước biển.


*Quá trình mặn hóa lục địa: Ở những vùng khô hạn và bán khô hạn,các loại muối khó
tan vẫn còn lại trong đất,chỉ những muối dễ tan như:NaCl, MgCl2, Na2SO4,…mới bị hòa
tan, rửa trôi nhưng cũng không được vận chuyển đi xa,mà tích đọng ở những địa hình
trũng không thoát nước dưới dạng nước ngầm. Do hanh khô và mực nước ngầm
nông,muối được di chuyển và tập trung lên mặt đất thành một lớp vỏ muối trắng xóa dày
đến 1-2 cm.
Các nguyên nhân gây nên mặn hóa lục địa là:
Dâng nước mao quản từ nước ngầm (là nguyên nhân chính).
Do gió chuyển muối cùng với bụi từ biển và các hồ nước mặn.
Do giáng thủy rửa muối từ các yếu tố địa hình cao xuống chỗ thấp.
Do sự khoáng hóa xác thực vật ưa mặn (galofit) trong chúng chứa nhiều muối, đôi khi
đến 50% khối lượng chất khô.
Do tưới tiêu không hợp lý: nước tưới thường là nước lấy trực tiếp từ các sông…Nước

này thường chứa một lượng muối khoáng lớn( do nhận được từ các vùng đất khác nhau
mà nó chảy qua). Khi tưới, vì một lí do nào đó, hoặc do tưới quá nhiều, lượng muối này
không đươc cây trồng sử dụng hết, lại không bị rửa trôi đi nơi khác, nó sẽ tích lại…và
ngày càng làm cho đất bị nhiễm mặn.
*Quá trình mặn hóa thứ sinh: Thường xảy ra ở những vùng khô hạn và bán khô
hạn,lượng giáng thủy rất thấp(200-500 mm), do đó nền nông nghiệp có tưới và cần tưới
phổ biến. Do việc quản lý đất tưới và dùng nguồn nước tưới bị nhiễm mặn, nên tầng đất
bề mặt bị nhiễm mặn. Như vậy do tác động nhân sinh đã làm mặn hóa tầng mặt. Quá
trình này phổ biến rộng ở vùng Trung Đông, Tây Á và rất nguy hiểm đối với sản xuất
nông_lâm nghiệp. Quá trình thường diễn ra nhanh, mạnh vì nguyên nhân gây mặn sẽ từ
dưới đất lên và từ trên bề mặt đất đi xuống. Trong đó, mực nước ngầm mặn thường là
nguyên nhân trực tiếp làm cho đất bị mặn hóa.Giữa độ sâu và độ mặn của nước ngầm và
độ mặn của đất có tương quan chặt chẽ.
Hiện trạng xâm nhập mặn hiện nay
Tổng diện tích lúa thiệt hại từ cuối năm 2015 đến này là gần 139.000 ha; trong đó,
86.000 ha thiệt hại trên 70% năng suất (chiếm 62%), 43.000 ha thiệt hại từ 30-70% năng
suất (chiếm 31%) và 9.800 ha thiệt hại dưới 30% năng suất (chiếm 7%). Các tỉnh bị thiệt
hại nhiều là Cà Mau: 49.343 ha, Kiên Giang: 34.093 ha, Bạc Liêu: 11.456 ha và Bến
Tre: 13.844 ha.
Trong thời gian tới, nhiều diện tích lúa Đông Xuân sẽ tiếp tục được thu hoạch (hiện tại
đã thu hoạch được hơn 40% diện tích); do vậy, diện tích bị ảnh hưởng của hạn hán sẽ
không nhiều, dự kiến khoảng 46.000 ha.


Đối với vụ Hè Thu 2016, nếu tình hình khô hạn tiếp tục kéo dài đến tháng 6/2016, toàn
vùng sẽ có khoảng 500.000 ha không xuống giống đúng thời vụ do thiếu nước, chiếm hơn
40% diện tích của các tỉnh ven biển và khoảng gần 30% diện tích gieo trồng toàn khu
vực.
Nêu 1 giải pháp có thể có để hạn chế tác tại của quá trình mặn hóa hiện nay tại Việt
Nam. Cho ví dụ.

Muốn sử dụng đất mặn có hiệu quả thì việc cải tạo đất mặn là một việc làm cần thiết và
thiết thực. Cần được thực hiện thường xuyên, chủ động…
Ta có thể cải tạo đất mặn thành đồng cỏ chăn nuôi bằng cách gieo các loại cỏ chịu mặn
làm thức ăn gia súc.
Cải tạo đất mặn bằng biện pháp canh tác: cày sâu không lật, xới đất nhiều lần, cắt đứt
mao quản làm cho muối không thể bốc lên mặt đất được.
Cải tạo đất mặn bằng biện .pháp luân canh cây trồng: lúa – tôm, lúa – cá.
Cải tạo đất mặn bằng áp dụng nhiều biện pháp ( biện pháp tổng hợp).
a/ Biện pháp thủy lợi.
- Rửa mặn:
Đối với đất mặn, do chứa chủ yếu là các muối hòa tan như chloride, sulfate Na, Ca và
Mg, nên chúng có thể dễ dàng được rửa trôi mà không làm tăng pH đáng kể. Chỉ cần rửa
với nước có chứa Na thấp.
Đối với đất mặn kiềm, do chứa lượng lớn các muối trung tính hòa tan và ion Na hấp phụ
trên keo sét nên có ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sự sinh trưởng của thực vật. Mặc dù
ESP > 15%, nhưng pH của đất này thường là < 8.5, đó là do ảnh hưởng của các muối
trung tính hòa tan, tương tự ph của đất mặn. Nhưng khi rửa đất mặn kiềm sẽ làm tăng pH
rất đáng kể, trừ khi nồng độ muối Ca hay Mg trong đất hay trong nước tưới cao. pH tăng
là do khi Na được rửa se nhanh chống bị thủy phân làm tăng nồng độ OH- trong dung
dịch đất. Trong thực tiễn, đây là vấn đề bất lợi vì ion Na đối với cây trồng gia tăng.
Đưa nước ngọt vào rửa mặn: dẫn nước ngọt vào ruộng, cày, bừa, sục bùn để các muối
hòa tan, ngâm ruộng sau đó tháo nước ra kênh tiêu.
b/ Biện pháp nông lý:
Cày sâu, đưa CaCO3 và CaSO4 ở các lớp đất sâu lên mặt đất, cày phá đáy làm tơi xốp
tầng đế cày. Đây là biện pháp thường áp dụng đối với các loại đất mặn nội địa được hình
thành trong điều kiện khô hạn và bán khô hạn.
C/ Biện pháp sinh học:


Tuyển chọn và lai tạo các giống cây chống chịu mặn, xác định các loại cây trồng có khả

năng chịu mặn khác nhau, phù hợp với từng giai đoạn cải tạo đất.
- Mô hình trồng các loại cây chịu mặn giỏi như cói, lác, rừng ngập mặn.
d/ Biện pháp hóa học:
Ion Na+ đóng vai trò quan trọng trong đất mặn, có thể ở dạng muối tan như NaCl,
NaHCO3, Na2SO4…và quan trọng hơn là Na+ ở dạng trao đổi hấp phụ trên bề mặt keo
đất. Những tính chất xấu của đất mặn về phương diện vật lí, hóa học, sinh học…tính chất
vật lí của nước chủ yếu do ion này gây ra. Muốn cải tạo đất mặn điều kiện tiên quyết là
phải loại trừ ion Na+ trong dung dịch đất và trong phức hệ hấp thụ bằng việc thay thế bởi
ion Ca2+. Đó là nguyên lý cơ bản trong cải tạo hóa học đất mặn.
Người ta thường dùng thạch cao ( CaSO4.2H2O ) hoặc phốtphát thạch cao.
Na+
[KĐ] + CaSO4

———>[KĐ] Ca2++

Na2SO¬4

Na+
Na2CO3

+ CaSO4

———> CaCO3

+

Na2SO

e, Bằng cách áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp
+ Biện pháp thủy lợi: rửa mặn, loại trừ muối tan trong đấ, hạ nước ngầm và tiêu nước

ngầm mặn


Do vậy, trước mắt giải pháp đưa ra lúc này là cùng với việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo
hiệu quả các công trình thủy lợi hiện có để đóng cống, đắp đập ngăn mặn giữ ngọt; phát
động trong nhân dân thực hiện ngay các biện pháp thủ công sử dụng tích nước bằng lu,
bể, ao chứa; thực hiện tiết kiệm nước ngọt trong sản xuất và sinh hoạt.
Về lâu dài, Chính phủ, các Bộ, ngành khi đầu tư các công trình thủy lợi, hồ đập ngăn
mặn, trữ ngọt cho vùng ĐBSCL cần tính tới yếu tố vận hành liên vùng, liên tỉnh; các tỉnh,
thành trong vùng cần có liên kết trong phòng chống hạn mặn và biến đổi khí hậu, tránh
manh mún, cục bộ; đặc biệt là phát động trong nhân dân liên kết hình thành các ao, hồ, bể
trữ nước ngọt liên hộ, liên khóm, ấp.
Bên cạnh đó, chủ động chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý phù hợp với điều kiện sản
xuất chống hạn mặn, theo phương châm tiết kiệm nước. Ở những vùng bị hạn mặn
thường xuyên cần có các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp, bảo đảm sản xuất hiệu quả mà
bền vững, không gây ảnh hưởng xấu đến các vùng ngọt hóa.
Ở cấp độ quốc tế, cần chủ động khuyến nghị các quốc gia vùng thượng nguồn như Trung
Quốc, Lào, Campuchia có chính sách liên kết trong khai thác và sử dụng nguồn nước
sông Mê Kông đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các quốc gia dân tộc.


4. Trình bày 4 lĩnh vực thể hiện quyền và bảo vệ quyền quản lý đất đai của nhà
nước. Cho ví dụ minh họa cho từng lĩnh vực
Quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai;đó là các
hoạt động nắm chắc tình hình sử dụng đất;phân phối và phân phối lại quỹ đất đai theo
quy hoạch,kế hoạch;kiểm tra giám sát quá trình quản lý và sử dụng đất;điều tiết các
nguồn lợi từ đất đai
*Thứ nhất :Nhà nước nắm chắc tình hình đất đai, tức là Nhà nước biết rõ các thông tin
chính xác về số lượng đất đai, về chất lượng đất đai, về tình hình hiện trạng của việc quản

lý và sử dụng đất đai. Cụ thể:
-Về số lượng đất đai: Nhà nước nắm về diện tích đất đai trong toàn quốc gia, trong từng
vùng kinh tế, trong từng đơn vị hành chính các địa phương; nắm về diện tích của mỗi loại
đất như đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, v.v...; nắm về diện tích của từng chủ sử dụng và
sự phân bố trên bề mặt lãnh thổ...
- Về chất lượng đất: Nhà nước nắm về đặc điểm lý tính, hoá tính của từng loại đất,độ phì
của đất, kết cấu đất, hệ số sử dụng đất v.v..., đặc biệt là đối với đất nông nghiệp.
-Về hiện trạng sử dụng đất: Nhà nước nắm về thực tế quản lý và sử dụng đất có hợp lý,
có hiệu quả không? có theo đúng quy hoạch, kế hoạch không? cách đánh giá phương
hướng khắc phục để giải quyết các bất hợp lý trong sử dụng đất đai.
Thứ hai: Nhà nước thực hiện việc phân phối và phân phối lại đất đai theo quy hoạch và
kế hoạch chung thống nhất. Nhà nước chiếm hữu toàn bộ quỹ đất đai, nhưng lại không
trực tiếp sử dụng mà giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng. Trong quá trình phát triển
của đất nước, ở từng giai đoạn cụ thể, nhu cầu sử dụng đất đai của các ngành, các cơ
quan, tổ chức cũng khác nhau. Nhà nước với vai trò chủ quản lý đất đai thực hiện phân
phối đất đai cho các chủ sử dụng; theo quá trình phát triển của xã hội, Nhà nước còn thực
hiện phân phối lại quỹ đất đai cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Để thực hiện
việc phân phối và phân phối lại đất đai, Nhà nước đã thực hiện việc chuyển giao quyền
sử dụng đất giữa các chủ thể khác nhau, thực hiện việc điều chỉnh giữa các loại đất, giữa
các vùng kinh tế. Hơn nữa, Nhà nước thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất, cho phép chuyển quyền sử dụng đất và thu hồi đất. Vì vậy,
Nhà nước quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất đai. Đồng thời, Nhà nước còn
quản lý việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất;
quản lý việc chuyển quyền sử dụng đất; quản lý việc lập quy hoạch, kế hoạch và thực
hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Thứ ba: Nhà nước thường xuyên thanh tra, kiểm tra chế độ quản lý và sử dụng đất đai.
Hoạt động phân phối và sử dụng đất do các cơ quan nhà nước và do người sử dụng cụ thể
thực hiện. Để việc phân phối và sử dụng được phù hợp với yêu cầu và lợi ích của Nhà



nước, Nhà nước tiến hành kiểm tra giám sát quá trình phân phối và sử dụng đất. Trong
khi kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện các vi phạm và bất cập trong phân phối và sử dụng,
Nhà nước sẽ xử lý và giải quyết các vi phạm, bất cập đó.
Thứ tư. Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai. Hoạt động này được
thực hiện thông qua các chính sách tài chính về đất đai như: thu tiền sử dụng đất (có thể
dưới dạng tiền giao đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, có thể dưới dạng
tiền thuê đất, có thể dưới dạng tiền chuyển mục đích sử dụng đất), thu các loại thuế liên
quan đến việc sử dụng đất (như thuế sử dụng đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế
thu nhập cao có được từ việc chuyển quyền sử dụng đất...) nhằm điều tiết các nguồn lợi
hoặc phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại
Các mặt hoạt động trên có mối quan hệ trong một thể thống nhất đều nhằm mục đích bảo
vệ và thực hiện quyền sở hữu Nhà nước về đất đai. Nắm chắc tình hình đất đai là tạo cơ
sở khoa học và thực tế cho phân phối đất đai và sử dụng đất đai một cách hợp lý theo quy
hoạch, kế hoạch. Kiểm tra, giám sát là củng cố trật tự trong phân phối đất đai và sử dụng
đất đai, đảm bảo đúng quy định của Nhà nước.

5. Trình bày các phương pháp quản lý nhà nước về đất đai. Cho ví dụ minh họa
Các phương pháp quản lý nhà nước về đất đai là tổng thể những cách thức tác động có
chủ đích của Nhà nước lên hệ thống đất đai và chủ sử dụng đất nhằm đạt được mục tiêu
đã đề ra trong những điều kiện cụ thể về không gian và thời gian nhất định. Các phương
pháp quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về đất đai nói riêng có vai trò rất
quan trọng trong hệ thống quản lý. Nó thể hiện cụ thể mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước
với đối tượng và khách thể quản lý. Mối quan hệ giữa Nhà nước với các đối tượng và
khách thể quản lý rất đa dạng và phức tạp. Vì vậy, các phương pháp quản lý.thường
xuyên thay đổi tuỳ theo tình huống cụ thể nhất định, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng đối
tượng.
Các phương pháp quản lý nhà nước về đất đai được hình thành từ các phương pháp quản
lý nhà nước nói chung. Vì vậy, về cơ bản nó bao gồm các phương pháp quản lý nhà nước
nhưng được cụ thể hoá trong lĩnh vực đất đai. Trong quản lý nhà nước có rất nhiều
phương pháp nên trong quản lý nhà nước về đất đai cũng sử dụng các phương pháp cơ

bản đó. Có thể chia thành 2 nhóm phương pháp sau:


Các phương pháp thu nhập thông tin về đất đai

Theo Trịnh Đình Thắng (2002), có các phương pháp chính thu thập thông tin về đất đai
như sau:
*Phương pháp thống kê: là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong quá trình nghiên
cứu các vấn đề kinh tế, xã hội. Đây là phương pháp mà các cơ quan quản lý nhà nước tiến


hành điều tra, khảo sát, tổng hợp và sử dụng các số liệu trên cơ sở đã tính toán các chỉ
tiêu. Qua số liệu thống Kế phân tích được tình hình, nguyên nhân của sự vật và hiện
tượng có thể tìm ra được tính quy luật và rút ra những kết luận đúng đắn về sự vật, hiện
tượng đó.
Trong công tác quản lý đất đai các cơ quan quản lý sử dụng phương pháp thống Kế để
nắm được tình hình số lượng, chất lượng đất đai, nắm bắt đầy đủ các thông tin về đất đai
cho phép các cơ quan có kế hoạch về quản lý đất đai.
*Phương pháp toán học: là phương pháp quan trọng do sự tác động của tiến bộ khoa học
công nghệ và ngày càng chứng tỏ tính cấp thiết của nó trong công tác quản lý nói chung
và quản lý đất đai nói riêng. Phương pháp toán học sử dụng ởđây là phương pháp toán
kinh tế, các công cụ tính toán hiện đại được dùng để thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin...
giúp cho việc nghiên cứu các vấn đề xã hội phức tạp. Trong công tác quản lý đất đai,
phương pháp toán học được sử dụng nhiều ở các khâu công việc như: thiết kế, quy hoạch;
tính toán quy mô, loại hình sử dụng đất tối ưu...
Phương pháp điều tra xã hội học :Đây là phương pháp hỗ trợ, bổ sung, nhưng rất quan
trọng. Thông qua điều tra xã hội học, Nhà nước sẽ nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của
các tổ chức và các cá nhân sử dụng đất đai. Mặt khác qua điều tra xã hội học, Nhà nước
có thể biết sâu hơn diễn biến tình hình đất đai, đặc biệtlà nguyên nhân của tình hình đó.
Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, phạm vi, quy mô về vốn và người thực hiện mà trong điều

tra có thể lựa chọn các hình thức như:điều tra chọn mẫu, điều tra toàn diện, điều tra
nhanh, điều tra ngẫu nhiên...


Các phương pháp tác động đến con người trong quản lý đất đai

Theo Hoàng Anh Đức (2000) và Trịnh Đình Thắng (2002), có các phương pháp chính tác
động đến con người trong quản lý đất đai như sau:
*Phương pháp hành chính :là phương pháp tác động mang tính trực tiếp. Phương pháp
này dựa vào mối quan hệ tổ chức của hệ thống quản lý, mà thực chất đó là mối quan hệ
giữa quyền uy và sự phục tùng.
Phương pháp quản lý hành chính về đất đai của Nhà nước là cách thức tác động trực tiếp
của Nhà nước đến các chủ thể trong quan hệ đất đai, bao gồm các chủ thể là cơ quan
quản lý đất đai của Nhà nước và các chủ thể là người sử dụng đất (các hộ gia đình, các cá
nhân, các tổ chức, các pháp nhân) bằng các biện pháp, các quyết định mang tính mệnh
lệnh bắt buộc. Nó đòi hỏi người sử dụng đất phải chấp hành nghiêm chỉnh, nếu vi phạm
sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Trong quản lý nhà nước về đất đai phương pháp hành chính có vai trò to lớn, xác lập
được kỷ cương trật tự trong xã hội. Nó khâu nối được các hoạt động giữa các bộ phận có


liên quan, giữ được bí mật hoạt động và giải quyết được các vấn đề đặt ra trong công tác
quản lý một cách nhanh chóng kịp thời.
Khi sử dụng phương pháp hành chính phải gắn chặt chẽ quyền hạn và trách nhiệm của
các cấp quản lý nhà nước về đất đai khi ra quyết định. Đồng thời phải làm rõ, cụ thể hoá
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước và từng cá nhân. Mọi cấp
chính quyền, mọi tổ chức, mọi cá nhân khi ra quyết định phải hiểu rõ quyền hạn của mình
đến đâu và trách nhiệm của mình như thế nào khi sử dụng quyền hạn đó. Các quyết định
hành chính do con người đặt ra muốn có kết quả và đạt hiệu quả cao thì chúng phải là các
quyết định có tính khoa học, có căn cứ khoa học, tuyệt đối không thể là ý muốn chủ quan

của con người. Để quyết định có căn cứ khoa học người ra quyết định phải nắm vững tình
hình, thu thập đấy đủ các không tin cần thiết có liên quan, cân nhắc tính toán đầy đủ các
lợi ích, các khía cạnh khác chịu ảnh hưởng đảm bảo quyết định hành chính có căn cứ
khoa học vững chắc.
*Phương pháp kinh tế :là phương pháp tác động gián tiếp lên đối tượng bị quản lý
không trực tiếp như phương pháp hành chính.
Phương pháp quản lý kinh tế của Nhà nước về quản lý đất đai là cách thức tác động của
Nhà nước một cách giản tiếp vào đối tượng bị quản lý, thông qua các lợi ích kinh tế để
đối tượng bị quản lý tự lựa chọn phương án hoạt động của mình sao cho có hiệu quả nhất.
Trong công tác quản lý, phương pháp kinh tế là phương pháp mềm dẻo nhất, dễ thu hút
đối tượng quản lý, do vậy nó ngày càng mang tính phổ biến và được coi trọng. Mặt mạnh
của phương pháp kinh tế là ở chỗ nó tác động vào lợi ích của đối tượng bị quản lý làm
cho họ phải suy nghĩ, tính toán và lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất vừa
đảm bảo lợi ích của mình, vừa đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội.
Phương pháp kinh tế nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân giúp cho Nhà nước giảm
bớt được nhiều công việc hành chính như công tác kiểm tra, đôn đốc có tính chất sự vụ
hành chính. Vì vậy, sử dụng phương pháp này vừa tiết kiệm được chi phí quản lý, vừa
giảm được tính chất cứng nhắc hành chính, vừa tăng cường tính sáng tạo của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Một trong những thành công lớn của Nhà nước trong công tác
quản lý đất đai là việc áp dụng phương pháp khoán trong nông nghiệp và giao quyền sử
dụng đất ổn định lâu dài cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân, đã tạo ra động lực to
lớn cho phát triển sản xuất nông nghiệp và cho phép sử dụng có hiệu quả đất đai. Đây
chính là Nhà nước đã áp dụng phương pháp kinh tế trong quản lý đất đai.
*Phương pháp tuyên truyền,giáo dục :là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận
thức và tình cảm của con người nhằm nâng cao tính tự giác và lòng nhiệt tình của họ
trong quản lý đất đai nói riêng và trong hoạt động kinh kế -xã hội nói chung. Tuyên
truyền, giáo dục là một trong các phương pháp không thể thiếu được trong công tác quản
lý nhà nước bởi vì mọi đối tượng quản lý suy cho cùng cũng chỉ là quản lý con người mà



con người là tổng hoà của nhiều mối quan hệ xã hội và ở họ có những đặc trưng tâm lý
rất đa dạng. Do đó, cần phải có nhiều phương pháp tác động khác nhau trong đó có
phương pháp giáo dục.
Trong thực tế, phương pháp giáo dục thường được kết hợp với các phương pháp khác, hỗ
trợ cùng với phương pháp khác để nâng cao hiệu quả công tác. Nếu chúng ta tách rời
phương pháp giáo dục với các phương pháp khác, tách rời giáo dục với khuyến khích lợi
ích vật chất, tách rời giáo dục với sự cưỡng chế bắt buộc thì hiệu quả của công tác quản
lý không cao, thậm chí có những việc còn không thực hiện được. Nhưng nếu chúng ta kết
hợp tốt, kết hợp một cách nhịp nhàng, linh hoạt phương pháp giáo dục với các phương
pháp khác thì hiệu quả của công tác quản lý sẽ rất cao.
Nội dung của phương pháp giáo dục rất đa dạng, nhưng trước hết phải giáo dục đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung; chính sách, pháp luật về đất
đai nói riêng thể hiện qua các luật và các văn bản dưới luật.
6. Trình bày và phân tích 8 nguyên tắc quy hoạch và xây dựng kế hoạch sử dụng
đất. Cho ví dụ minh họa.
1. Phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh.
2. Được lập từ tổng thể đến chi tiết; quy hoạch sử dụng đất của cấp dưới phải phù hợp
với quy hoạch sử dụng đất của cấp trên; kế hoạch sử dụng đất phải phù hợp với quy
hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Quy hoạch sử
dụng đất cấp quốc gia phải bảo đảm tính đặc thù, liên kết của các vùng kinh tế - xã hội;
quy hoạch sử dụng đất cấp huyện phải thể hiện nội dung sử dụng đất của cấp xã.
3. Sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu quả: Tiết kiệm là cơ sở, là nguồn gốc của hiệu quả.
Nguyên tắc này trong quản lý đất đai được thể hiện bằng việc:
-Xây dựng tết các phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, có tính khả thi cao;
Quản lý và giám sát tốt việc thực hiện các phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Có như vậy, quản lý nhà nước về đất đai mới phục vụ tốt cho chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội, đảm bảo sử dụng tiết kiệm đất đai nhất mà vẫn đạt được mục đích đề ra
4. Khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; thích ứng với biến đổi
khí hậu.

5. Bảo vệ, tôn tạo di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.
6. Dân chủ và công khai.
7. Bảo đảm ưu tiên quỹ đất cho mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia,
công cộng, an ninh lương thực và bảo vệ môi trường.


8. Quy hoạch, kế hoạch của ngành, lĩnh vực, địa phương có sử dụng đất phải bảo đảm
phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định, phê duyệt.



×