Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Truyện Robinxơn ngoài đảo hoang ( đầy đủ các chương)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.6 KB, 76 trang )

Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Robinson Crusoe
Tác giả: Daniel Defoe
Thể loại: Tuổi Học Trò
Website: o
Date: 28-October-2012

Trang 1/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Chương 1
Tôi sinh năm 1632, tại thành phố Ai-ớc, trong một gia đình nề nếp, nhưng không phải là dân ở
đó. Bố tôi người Bờ-rem đến Hơn lập nghiệp. Buôn bán phát đạt và trở lên giàu có, ông chuyển
đến Ai-ớc. Tôi là con trai thứ ba và rất được nuông chiều, chẳng phải tập làm một nghề nghiệp
gì. Chỉ có ngồi rồi, đầu óc tôi sớm quay cuồng với nhiều mơ ước viển vông, táo bạo. Bố tôi đã
cao tuổi lắm; ông luôn luôn cố gắng cho tôi được hưởng một sự giáo dục trọn vẹn và tốt đẹp.
Nhưng chí hướng tôi lại khác hẳn. Ngày đêm tôi say sưa với cái thú đi biển, đến nỗi tôi ngang
nhiên chống lại ý muốn và những mệnh lệnh của bố tôi. Tôi lại cũng bỏ ngoài tai tất cả những
lời răn đe, hoặc van lơn khẩn thiết của mẹ tôi và bà con xóm giềng. Mọi người đều phàn nàn lo
lắng cho tôi và đoán trước rằng cuộc đời tôi sẽ gặp nhiều nỗi đắng cay khổ cực. Một hôm, trong
khi đi chơi lang thang tình cờ tôi gặp một người bạn sắp sửa đáp tàu biển của bố anh ta đi Luânđôn. Anh ta mời tôi cùng đi. Và để lời mời thêm hấp dẫn, anh ta dùng ngay kiểu nói của thủy
thủ, rằng tôi không phải trả tiền tàu. Thế là chẳng hỏi bố cũng chẳng chịu bỏ chút công báo tin


cho gia đình biết, tôi phó mặc cho sự việc lôi cuốn đi, muốn ra sao thì ra. Tôi đến ngay chiếc tàu
sắp nhổ neo đi Luân-đôn.
Đó là ngày 1-9-1651, ngày xấu nhất trong đời tôi. Có lẽ không có một tay giang hồ trẻ tuổi nào
bị rủi ro sớm như tôi và dai dẳng như tôi. Chiếc tàu vừa ra khỏi con sông Hưm-bơ, gió biển đã
trở mát và mặt biển cồn sóng dữ dội. Chưa từng đi biển, tôi say sóng và sợ kinh hồn. Thể xác và
tinh thần tôi như rơi tõm vào một cơn mê sảng khủng khiếp không tả xiết, Tôi bắt đầu suy nghĩ
nghiêm chỉnh về việc làm nông nổi của mình, của một đứa con lêu lổng và ương ngạnh. Thế là
những lời khuyên nhủ khôn ngoan, những giọt nước mắt, những lời khuyên của bố mẹ tôi, tất cả
đều hiện rõ mồn một trong tâm trí tôi. Lương tâm tôi cắn rứt và trách tôi sao lại coi thường
những bài học bổ ích đến thế để đến nỗi xa rời bổn phận làm con! Trong lúc ấy, bão mạnh
thêm, biển động dữ dội. Thực ra thì chưa thấm vào đâu so với những lần tôi gặp sau này, và
trước hết là với tình trạng mấy ngày sau, nhưng chừng đó cũng đủ cho một người lần đầu làm
quen với sóng nước phải chết khiếp. Trong cơn kinh hoảng, nhiều lần tôi tự hứa nếu tai qua nạn
khỏi thì suốt đời sẽ không bao giờ đặt chân lên bất cứ một chiếc tàu biển nào để khỏi lâm vào tai
nạn như lần này; tôi sẽ trở về với bố mẹ tôi và sống ngoan ngoãn theo những lời khuyên của họ.
Ngày hôm sau, gió tạnh, biển trở lại yên lặng, tôi bắt đầu quen dần. Chiều đến, trời trong hẳn,
gió lặng ngắt, hoàng hôn thật êm ả. Mặt trời lặn, không gợn chút mây và sáng hôm sau mọc lên
cũng như vậy. Gió nhẹ và êm, mặt biển phẳng như một tấm gương phản chiếu ánh mặt trời, tạo
nên một cảnh tượng hết sức đẹp mắt. Ngày thứ sáu trong chuyến đi, chúng tôi đến cảng Y-ácmao. Bị trái gió từ sau cơn băo, chúng tôi chưa đi được mấy đành phải ghé vào đó, nghỉ lại. Gió
vẫn trái, theo chiều tây nam luôn bảy tám ngày. Suốt thời gian này tàu từ Niu-cát-tơn cũng vào
cảng, chỗ hẹn hò chung của tất cả những ai chờ một cơn gió thuận để vào cửa sông Ta-mi-dơ.
Nhưng đến ngày thứ tám, vừa sáng sớm, gió lại nổi lên dữ dội. Tất cả trai bạn trên tàu được lệnh
hạ các cột buồm xuống, sắp xếp mọi thứ thật ngăn nắp và chèn thật kỹ cho tàu gọn nhẹ hơn.
Đến trưa, biển nổi sóng kinh khủng. Mũi tàu luôn chúi xuống và sóng tràn qua tàu nhiều lần.
Chủ tàu tức tốc ra lệnh thả neo cái; nhưng rồi chiếc tàu lại cũng bị đánh trôi đi, kéo lê cả neo.
ông chủ tàu xưa nay nổi tiếng là người cương nghị, sống chết quyết giữ tàu đến cùng, vậy mà lúc
này cũng luôn luôn thốt ra những lời tuyệt vọng. Khi ông ra vào phòng riêng hoặc đi gần tôi, tôi

Trang 2/76


o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

nghe thấy những tiếng kêu "Trời ơi! Chết mất!
Chẳng còn trông mong gì nữa!". Tôi nằm dài trong buồng riêng ở phía lái, không động đậy,
người lạnh ngắt vì khiếp đảm. Vào quãng chiều, viên hoa tiêu và viên thuyền phó bàn với ông
chủ tàu chặt cột buồm phía trước. ông này không chịu, nhưng viên thuyền phó nói rõ cho ông
hiểu rằng nếu không làm như thế, nhất định tàu sẽ đắm ngay. Cuối cùng, ông chủ tàu phải bằng
lòng. Cột buồm trước vừa chặt gãy thì cột buồm sau bị gió quật đảo qua đảo lại dữ dội đến nỗi
cũng phải chặt nốt, sàn tàu trống trơn từ đầu đến cuối. Chiếc tàu của chúng tôi chắc chắn nhưng
chở quá nặng; thỉnh thoảng thủy thủ lại kêu lên là tàu sắp đắm mất rồi. ấy thế mà cơn bão vẫn
dữ dội, đến nỗi ông chủ tàu, viên thuyền phó và một số người khác thất vọng đến mức độ quỳ
xuống cầu kinh, mỗi khi tưởng là tàu đắm. Đó là một hiện tượng hiếm thấy! Thế mà đã hết đâu!
Vào khoảng nửa đêm, một người được cử xuống xem xét dưới hầm tàu bỗng kêu lên dưới đó có
một lỗ hổng, rồi một người khác lại la rằng nước đã ngập tới bốn bộ. Thế là mọi người xúm lại
bơm nước ra. Chỉ riêng hai tiếng "bơm nước" cũng đã khiến tôi kinh hoảng tột độ. Tôi ngã nhào
xuống bất tỉnh. Lúc ấy thì ai lo phận nấy, chẳng thèm để ý đến tôi. Có ai đó gạt phắt tôi ra một
bên, để mặc tôi nằm sóng xoài, yên chí là tôi đã từ giã cõi đời. Mãi một hồi lâu tôi mới tỉnh lại.
Mọi người càng ra sức bơm, nhưng nước cứ càng dâng cao; rõ ràng là chiếc tàu sẽ đắm. Tuy cơn
bão đã có chiều dịu đi nhưng chiếc tàu không sao nổi trên mặt nước được, trước lúc có thể ghé
vào một bến nào đó. ông chủ tàu quyết định bắn súng đại bác cầu cứu. Một chiếc tàu khác vừa
đi qua liền thả xuồng xuống. Cũng phải vất vả vô cùng chiếc xuồng ấy mới tiến dần đến gần
chúng tôi, nhưng loay hoay mãi không áp nổi được vào mạn tàu! Cuối cùng những tay chèo đã
cố gắng tới mức liều mạng để cứu chúng tôi. Từ sau lái, chúng tôi quăng cho họ một chiếc dây
thừng có buộc phao rồi tháo dây cho nó kéo dài mãi ra theo chiếc dây phao bập bềnh trên
sóng. Đằng kia, họ cũng không quản hiểm nguy mệt nhọc, tìm cách bắt được đầu sợi dây thừng.

Sau dó chúng tôi hết sức lôi họ về phía lái tàu rồi kéo nhau xuống xuồng. Tất cả đều gắng sức
chèo về tàu nhưng không được. Thế là đành phải đồng ý với nhau rằng cứ để xuồng lênh đênh
trên mặt biển, đồng thời hướng cho mũi xuồng vào phía đất liền chừng nào tốt chừng ấy. ông
chủ tàu chúng tôi lại hứa rằng nếu xuồng có bị hư hỏng vì phải lướt trên bờ cát, ông sẽ xin bồi
thường xứng đáng cho ông chủ tàu kia. Cứ như thế, khi chèo khi buông xuồng trôi theo gió
thuận, chúng tôi hướng dần về phía bắc, cũng gần với Uán-tớc-tơn. Không đầy một khắc đồng
hồ sau khi chúng tôi xuống xuồng, chiếc tàu bị đắm hẳn.
Chỉ từ lúc đó tôi mới hiểu thế nào là một chiếc tàu bị đắm. Chúng tôi chèo cật lực để tiến dần
vào bờ được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Khi xuồng nhô cao trên ngọn sóng thì từ xa trên bờ mọi
người đã trông thấy nó. Có rất nhiều người đổ ra chạy dọc bờ biển, sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi
trước khi chúng tôi vòng qua cột đèn biển ở Uán-tớc-tơn để tiến lại gần. Bên kia, bờ biển lõm
vào phía tây, phía Cơ-rô-mơ, và như thế thì luồng gió mạnh cũng đã bị chắn bớt. Chính ở đó,
chúng tôi sung sướng bước lên đất liền. Chúng tôi cuốc bộ về Y-ác-mao, được đối xử ân cần, và
những người bị nạn thấy được an ủi. Tòa án cấp cho chúng tôi mọi thứ chứng từ, các nhà buôn
cùng các ông chủ tàu thì tặng chúng tôi khá nhiều tiền bạc để có thể về tới Luân-đôn hoặc Hơn,
tùy ý mỗi người. Đáng ra tôi phải khôn ngoan tìm đường về Hơn với gia đình. Đó là con đường
tôi phải theo để được sung sướng. Chắc chắn bố tôi sẽ mổ bò ăn mừng. Nhưng thấy trong túi
còn rủng rỉnh ít tiền, tôi lại đi bộ ra Luân-đôn.

Trang 3/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Chương 2
Vừa tới Luân-đôn, dịp đâu may mắn tôi gặp ngay mấy người bạn tốt. Trước hết, tôi làm quen với

một ông thuyền trưởng vẫn thường qua lại bờ biển xứ Ghi-nê. ông ta đã gặp nhiều phen thuận
buồm xuôi gió nên định đi tiếp một chuyến nữa. ông ta mời tôi cùng đi và tôi không bỏ lỡ dịp
may hiếm có ấy. Tôi nhận lời và kết bạn với ông thuyền trưởng. Theo lời ông khuyên tôi bỏ ra
bốn chục đồng xtéc-linh để mua cầu may các thứ hàng lặt vặt bằng kim khí. Có một số bà con
thường vẫn thư từ qua lại thăm hỏi tôi đã giúp tôi món tiền ấy, những người này cũng nài nỉ bố
mẹ tôi bí mật gửi tiền cho tôi để thỏa mãn chuyến đi đầu tiên của tôi. Có thể nói rằng trong tất
cả các chuyến đi của tôi thì chuyến này là may mắn nhất, phần lớn nhờ ở nhiệt tình và sự giúp
đỡ của ông thuyền trưởng. Ngoài những món lợi về hàng hóa được chia khá nhiều, tôi còn được
ông ta bảo cho khá đầy đủ về toán học và về nghề đi biển, biết ước lượng đúng con đường đi
của một chiếc tàu và biết điều khiển buồm cho thuận hướng. ông ta càng tận tình dạy bảo bao
nhiêu, tôi phấn khởi học tập bấy nhiêu; thành ra chuyến đi này đã rèn luyện tôi trở thành thủy
thủ giỏi kiêm luôn tay buôn tài.
Kết quả tôi đã đưa về riêng phần mình được năm cân và chín lạng vàng vụn, giá trị ở Luân-đôn
phải được ba trăm đồng xtéc-linh. Món lời ấy gợi cho tôi nhiều tham vọng to lớn và từ đó đã dẫn
đến thất bại hoàn toàn. Vậy là tôi trở thành lái buôn đi Ghi-nê thực thụ. Nhưng rủi thay, sau khi
trở về được dăm bảy hôm thì ông bạn thuyền trưởng tốt ấy mất. Tuy vậy, tôi vẫn quyết định đi
thêm chuyến nữa. Tôi gửi bà vợ góa ông thuyền trưởng một món tiền là hai trăm đồng xtéc-linh.
Tôi lại ra đi, cũng trên chiếc thuyền ấy, cùng ông thuyền trưởng mới và viên hoa tiêu trong
chuyến đi trước. Không một chuyến đi nào khốn khổ hơn chuyến này. Nó đã gieo cho tôi những
tai họa không ngờ. Trên đường đi tới quần đảo Ca-na-ri, một buổi sáng tinh sương, bất ngờ
chúng tôi bị một chiếc tàu cướp biển người Thổ-nhĩ-kỳ ở Xa-lê đuổi theo. Trên tàu chúng tôi có
mười hai khẩu đại bác, tàu cướp biển có tới những mười tám khẩu. Khoảng ba giờ chiều, tàu
cướp biển đến đúng tầm, bắt đầu tấn công và đã mắc sai lầm: đáng lẽ bắn thẳng vào phía lái thì
chúng lại nhằm vào sườn chúng tôi. Thế là chúng tôi chĩa luôn tám khẩu đại bác ra bắn trả. Loạt
đạn đầu tiên chúng tôi buộc kẻ địch phải lùi. Chúng bắn trả dữ dội, bồi thêm một loạt đạn của
chừng hai trăm tay súng trường. Tuy vậy, chúng tôi vẫn giữ vững, chưa ai bị thương. Bọn cướp
chuẩn bị đợt tấn công mới và chúng tôi sẵn sàng đánh trả. Nhưng bọn cướp lại đánh cả từ phía
bên kia. sáu chục tên xông lên sàn tàu đánh tập hậu, dùng búa hạ ngay tất cả những cột buồm
và dây rợ. Chúng tôi đón chúng bằng súng ngắn, đoản đao, tạc đạn cùng mọi vũ khí có trong tay
và đã hai phen hất chúng khỏi sàn tàu. Nhưng chiếc tàu đã tả tơi, ba người trong bọn tôi bị giết,

tám người bị thương.
Chúng tôi đành phải bó tay hàng và bị bắt làm tù binh giải về Xa-lê, một cửa biển của người Morơ. Tên tướng cướp thấy tôi còn trẻ và lanh lẹ, bèn giữ riêng lại để hầu hạ nó. Được hai năm,
một dịp may mắn lạ lùng xảy đến khiến tôi lại có há vọng thoát thân. Dạo này lão chủ tôi ở nhà
luôn vì thiếu tiền mộ thủy thủ. Vài ba tuần lễ một lần hắn lại đưa một chiếc thuyền lớn đi đánh
cá trong vịnh. Mỗi chuyến đi, hắn đều đem theo tôi và một tên tay chân người Mo-rơ, để chèo
thuyền. Cả hai chúng tôi thường bày trò vui giải trí cho hắn. Tôi lại tỏ ra rất thành thạo nghề câu
cá nên dần dần được hắn mến. Thỉnh thoảng hắn lại sai tôi với một người bà con thân tín của
hắn tên là ít-ma-en và một chú nhỏ da đen tên là Xu-ri ra vịnh đánh cho hắn một mẻ cá về ăn.

Trang 4/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Một hôm, hắn mời mấy ông khách quí người Mo-rơ đến chơi, định cùng nhau đi đánh cá ngoài
biển tiêu khiển. Hắn sai đem xuống thuyền một số lớn thực phẩm, ba khẩu súng trường với đầy
đủ thuốc đạn để thỉnh thoảng bắn chim biển trong khi câu. Tôi chuẩn bị mọi thứ chu đáo theo
lệnh hắn.
Hôm sau tôi chờ hắn trên thuyền, sẵn sàng đón tiếp khách quí. Nhưng tôi chỉ thấy hắn ra một
mình. Hắn bảo mấy ông khách còn bận nên tạm hoãn cuộc đi biển đến một hôm khác. Nhưng
hắn vẫn sai tôi cùng với ít-ma-en và chú nhỏ da đen, đem thuyền ra biển như mọi lần đánh cho
hắn một mẻ cá ngon để thết đăi mấy người bạn quí ăn cơm tối. Tôi coi như mình sắp có một
chiếc tàu nhỏ tự mình chỉ huy. Ngay sau khi hắn quay đi, tôi bắt tay vào soạn sửa mọi việc thật
chu đáo, không phải để đi đánh cá mà là chuẩn bị cho một cuộc đi xa, mặc dầu tôi chưa biết sẽ
đi theo đường nào. Việc trước tiên tôi tìm gặp ngay tên bà con người Mo-rơ của lão chủ. Viện
cái cớ tưởng như rất đúng là cần chuẩn bị đầy đủ cho suốt cả thời gian ra khơi, tôi bảo hắn rằng

không được đụng đến bánh của lăo chủ vẫn để sẵn ở đó. Hắn trả lời là tôi nói rất đúng. Hắn đi
bưng về một thúng lớn đầy bánh khô để chúng tôi ăn, lại thêm ba vò nước ngọt nữa. Tôi cũng
đã biết rõ chỗ hầm chứa rượu. Trong khi tên Mo-rơ kia đương ở trên bờ, tôi bèn vào lấy luôn
một số chai rượu đem ra thuyền. Như vậy, hắn sẽ nghĩ là rượu ấy đã đem xuống từ trước để cho
chủ dùng. Tôi còn vác xuỗng một tảng sáp nặng trên năm chục cân, một cuộn dây gai to tướng,
một cái rìu và một cái búa. Tất cả những thứ đó sau này quả là được việc vô cùng, nhất là tảng
sáp dùng làm nến thắp. Tôi lại cài thêm một cái bẫy nữa và tên Mo-rơ đã sa bẫy như thế này:
Tôi bảo nó: "ở đây đã có sẵn súng của ông chủ rồi! Thế thì liệu anh có thể kiếm được một ít
thuốc súng và đạn ghém khôngâ Chúng ta rất có thể kiếm riêng những con chim biển béo múp
chứ. Và rõ ràng là cái đó ông ta vẫn cất khối ở trên tàu!"
-úi dà, được, -hắn trả lời, -tôi sẽ đi lấy ngay.
Đầy đủ mọi thứ cần thiết, chúng tôi kéo thẳng buồm lên, đường hoàng ra khỏi cảng đánh cá. Ra
được độ một dặm biển, chúng tôi hạ buồm và ngồi đánh cá. Chúng tôi câu măi chẳng được con
cá nào, bởi vì mỗi lúc cá cắn câu thì tôi cố ý không kéo lên. Để cho ít-ma-en khỏi thấy, tôi bảo
hắn:
-ở đây chẳng làm ăn gì được cả! ông chủ không đùa đâu! Không có nhiều cá cho ông ta thì khó
mà ăn nói. Phải ra xa nữa mới được! Thằng cha ngờ nghệch ấy không lường trước mưu mẹo của
tôi nên nghe theo ngay. Hắn đi thẳng lại đầu mũi thuyền kéo buồm lên theo hướng gió. Tôi
ngồi giữa lái điều khiển cho thuyền chạy xa thêm chừng một dặm đường nữa để tính kế thoát
thân. Sau đó, tôi cho dừng thuyền lại, làm như để sửa soạn đánh cá. Đột nhiên tôi chuyển tay lái
cho chú bé Xu-ri, bước thẳng lại gần ít-ma-en lúc đó đương ngồi ở đầu mũi thuyền. Tôi giả vờ cúi
xuống định nhặt một vật gì đằng sau hắn ta rồi bất thình lình luồn hai cánh tay vào giữa đùi hắn,
hất mạnh hắn ra ngoài, rơi xuống biển. Hắn ngoi được ngay lên mặt nước, bơi giỏi như cá. Hăn
gọi tôi, van tôi cho hắn lên thuyền, thề sống thề chết xin theo tôi đi khắp thế giới nếu tôi muốn.
Tôi không do dự, chạy ngay vào khoang thuyền lấy một khẩu súng ra ngắm thẳng vào hắn:
-Anh bạn ơi! Anh hãy nghe tôi! Tôi không muốn xử tệ với anh đâu, nhưng tôi cũng không thể
giữ anh trên thuyền được. Anh có thừa sức để bơi vào bờ, mặt biển cũng êm lặng đấy. Anh hãy
nhân dịp này mà bơi ngay đi và như thế là chúng ta chia tay nhau một cách thân ái. Nhưng nếu
anh cứ liều mạng lại gần thuyền, tôi bắt buộc phải bắn vỡ đầu anh ra vì tôi nhất quyết phải giành
cho được tự do đấy!


Trang 5/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Nghe tôi nói thế, hắn ta không nói năng gì nữa, thong thả bơi vòng trở lại và tiến thẳng vào bờ.
Quả là một con cá kình lợi hại. Tôi chắc thế nào hắn cũng vào tới nơi dễ dàng. Giải quyết xong
anh chàng ít-ma-en, tôi quay lại, nghiêm giọng nói với Xu-ri:
-Này chú Xu-ri! Nếu chú đồng tình với tôi trong việc này thì chúng ta cùng đi với nhau. Nếu
không thì lại bắt buộc tôi cũng phải mời chú xuống biển thôi! Chú bé mỉm cười và nói với tôi
những lời lẽ rất ngây thơ làm tiêu tan nốt chút nghi ngờ còn lại của tôi đối với chú. Chú ta hứa sẽ
hết lòng với tôi và sẽ theo tôi đến cùng trời cuối đất.
Tôi cứ giong thuyền chạy luôn không nghỉ suốt năm ngày đêm theo chiều gió thuận. Sau đó, gió
lại trở chiều và chuyển qua hướng nam. Thế là tôi có thể yên lòng: nếu có chiếc tàu nào ở Xa-lê
đuổi theo thì bây giờ chúng cũng phải bỏ dở cuộc săn mà quay về. Tôi bèn thử liều ghé vào bờ
và thả neo ở cửa một con sông nhỏ xa lạ. Hai bên bờ sông có vẻ hoang vu, không thấy một
bóng người hay vật. Nhưng tôi cũng không có ý muốn gặp ai cả; lúc này tôi chỉ cần nước ngọt
thôi. Chiều đến, chúng tôi cho thuyền vào sâu trong cái cửa sông nhỏ ấy. Tôi định chờ trời tối
sẽ bơi vào bờ tìm hiểu cảnh vật trên đất liền. Nhưng đêm vừa đến, chúng tôi nghe một thứ tiếng
rất kinh khủng không biết của giống thú dữ gì gào rú trên bờ. Thằng bé sợ chết khiếp, một hai
van nài tôi đừng vội lên bờ trước khi mặt trời mọc. Chúng tôi thả neo ngay giữa sông, suốt đêm
nằm im dưới thuyền.

Trang 6/76


o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Chương 3
Dù sao đi nữa, chúng tôi cũng bắt buộc phải ghé lên một chỗ nào đó để kiếm nước ngọt. Nhưng
biết lúc nào mới lên được và lên ở chỗ nàoâ Thật là khó nghĩ! Xu-ri bảo tôi để cho chú xách một
cái vò lên bờ, chú sẽ tìm cho được nước đem về. Tôi hỏi vì sao chú lại đòi đi như thế; đáng lẽ ra
tôi đi mà chú ở lại trên thuyền mới đúng. Câu trả lời của chú thật là chân thành và đầy tình
thương mến, khiến tôi càng yêu quí chú bé vô cùng. Chú nói bập bẹ tiếng được tiếng mất nhưng
thật là cảm động:
-ồ, để tôi lên cho! Nếu có thú dữ thì chúng ăn thịt tôi, còn ông không việc gì! Tôi bèn trả lời chú:
-Được, được! Chú Xu-ri thân yêu ơi! Cả hai chúng ta cùng đi nhé! Chúng tôi cùng lên bờ, chỉ
đem theo súng và hai chiếc vò thôi.
Sau đó cũng chẳng cần nhọc công như thế để lấy nước ngọt. Nước thủy triều dâng lên vào con
sông này nên khi thủy triều xuống, chỉ cần đi vào quá cửa sông một chút là có nước ngọt rồi.
Sau khi giong buồm đi về phía nam được chừng mươi mười hai hôm, tôi nhận thấy trên bờ biển
có người ở. Một đôi chỗ còn thấy những người đứng trên bờ nhìn thuyền chúng tôi đi qua. Tôi
rất muốn ghé lên bờ gặp họ, nhưng chú bé Xu-ri, luôn luôn có những ý hay, lại khuyên tôi nên
thận trọng. Tuy vậy, tôi cũng lái thuyền cho đi gần bờ để có thể nói chuyện với họ. Trong lúc đó
thì họ cũng chạy dọc bờ biển. Tôi nhận thấy họ không cầm khí giới, trừ một người trong tay chỉ
có chiếc gậy nhỏ. Xu-ri bảo đó chính là một ngọn vắn, có thể phóng từ xa rất trúng đích. Bởi
thế, tôi phải cẩn thận giữ cự lá đúng mức và dùng dấu hiệu để nói chuyện, ngỏ ý muốn xin chút
gì ăn. Họ ra hiệu bảo tôi dừng thuyền và đi lấy thức ăn đưa đến. Tôi bèn hạ buồm rồi dừng
thuyền. Ngay lúc đó, hai người trong bọn họ chạy về phía trong và không đầy nửa giờ đã quay
trở ra, mang theo hai tảng thịt và một thứ hạt, có lẽ do họ trồng trọt. Chúng tôi chẳng biết là
thịt gì, hạt gì nhưng cũng sẵn sàng nhận bởi vì trên thuyền đã hết nhẵn lương ăn. Lại còn phải

nghĩ cách nào thuận tiện để tiếp nhận, bởi vì tôi thì không muốn lên bờ chút nào, mà về phía họ
thì hình như cũng có ý ngại giáp mặt chúng tôi. Sau họ dùng một cách hợp với cả hai bên: Họ
đem những thứ ấy ra bày cả trên bờ rồi rút lui đứng ở xa cho tới khi chúng tôi lên lấy tất cả đem
xuống thuyền.
Sau đó tôi lại xin nước uống. Đầy đủ mọi thứ, chúng tôi lại kéo buồm lên và tiếp tục đi xuống
phía nam trong chừng mười một ngày nữa. Suốt thời gian đó, không lúc nào tôi ghé vào bờ nữa.
Tôi nhận thấy rõ ràng đất liền ăn dài ra biển ngay trước mặt, cách chừng bốn hoặc năm dặm.
Trời yên biển lặng lạ lùng. Tôi phải đi một đường vòng dài để tới được chỗ mũi đất rồi vòng sang
phía kia và thấy mình lại ở cách bờ độ hai dặm. Phía kia cũng lại có những hòn đảo khác. Tôi
nhận ra ngay, và cũng rất đúng, là tôi đương đi giữa, một bên là Mũi Xanh và bên kia là những
hòn đảo cũng mang tên ấy. Tuy thế, tôi vẫn chưa tính ra được là nên hướng về phía nào, bởi vì
nếu bất ngờ nổi lên một cơn gió, chỉ hơi to một chút cũng đủ cho tôi xôi hỏng bỏng không.
Phân vân như thế lại càng thêm mơ hồ. Tôi bèn trao tay lái cho Xu-ri, chui vào khoang ngồi
nghỉ. Bỗng nhiên, chú bé kêu lên: "ạng chủ, ông chủ! Tôi thấy ở kia có một chiếc tàu có buồm"
và chú bé tỏ vẻ sợ hãi vô cùng đến nỗi không thể tự chủ được nữa. Chú ta rất dễ dàng tin rằng
đó là chiếc tàu của lão chủ ở Xa-lê đuổi theo chúng tôi. Nhưng tôi thì lại rất vững dạ và biết rằng

Trang 7/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

khoảng cách đã quá xa tới mức không còn phải sợ hãi gì về phía ấy nữa. Sau khi đã dùng tất cả
mọi cách có thể làm được, tôi thấy mình không thể nào đuổi kịp chiếc tàu kia. Mỗi lúc họ một
bỏ xa tôi trước khi tôi có thể làm một dấu hiệu nào báo cho họ biết. May thay, đúng vào lúc tôi
đã dốc cạn sức lực để đẩy nhanh con thuyền theo, và bắt đầu mất hết há vọng, hình như những

người trên tàu đã nhận ra chúng tôi qua kính viễn vọng. Có lẽ họ cho là một chiếc thuyền sống
sót của một chiếc tàu châu âu nào đó đã bị đắm. Họ hạ bớt buồm để tàu chạy chậm lại cho
chúng tôi theo kịp. Điều đó khiến tôi phấn khởi hẳn lên.
Trên thuyền có một lá cờ nhỏ, tôi đem treo ngay lên cao báo hiệu chúng tôi đương gặp nạn, và
tôi bắn một phát súng. Họ đều nhận ra cả hai thứ tín hiệu ấy, sau đó họ có nói là trông thấy
khói mặc dầu không nghe thấy tiếng nổ. Thứ hai là họ cuốn buồm lại và có lòng nhân đạo dừng
tàu lại chờ tôi, nhờ thế chỉ ba giờ đồng hồ sau, tôi đến được với họ. Họ dùng các thứ tiếng Bồđào-nha, Tây-ban-nha và Pháp để hỏi tôi là ai, nhưng khốn thay, tôi lại chẳng hiểu được một thứ
tiếng nào họ nói cả. Sau cùng, một thủy thủ người -cốt làm trên tàu, lại nói chuyện với tôi. Tôi
trả lời anh ta rằng tôi là người Anh chính tông, và mới thoát cảnh nô lệ người Mo-rơ ở Xa-lê.
Thế là mọi người vui vẻ mời tôi lên tàu kèm theo tất cả những thứ ở dưới thuyền và đón tiếp rất
niềm nở. Chiếc thuyền của tôi còn tốt nguyên, ông thuyền trưởng nhận thấy thế và ngỏ ý muốn
mua lại để dùng. Ngoài ra, ông rất mến Xu-ri và muốn tôi nhường chú bé lại cho ông. Tôi cân
nhắc mãi, sau cũng đồng ý, một phần vì chính Xu-ri cũng thích cuộc sống thủy thủ... Chuyến đi
này rất may mắn. Chúng tôi yên ổn đi đến Bra-din. Sau chừng hai mươi hai ngày, chúng tôi ghé
vào vịnh Các Thánh. Tôi rất cảm kích về sự đối xử quá rộng rãi của ông thuyền trưởng. Trước
hết, ông không hề lấy một xu nhỏ tiền tàu. ông còn bảo trả lại cho tôi đầy đủ và nguyên vẹn tất
cả những thứ gì tôi đã đem lên tàu. ông nhận mua lại tất cả thứ gì tôi muốn bán, như là một
hòm đầy rượu, hai khẩu súng và tất cả chỗ sáp còn lại. Nói tóm lại, tất cả đã đem lại cho tôi ngót
nghét hai trăm đồng vàng làm vốn cho tôi xuống đất Bra-din. Sau bốn năm sống ở Bra-din, tôi
đã có của ăn của để. Tôi học tiếng địa phương và giao thiệp rộng với những bạn chủ trại khác
cũng như với những tay buôn lớn ở cảng Xăng san-va-đo gần đó.
Trong khi trò chuyện, tôi vẫn kể lại cho họ nghe hai chuyến đi Ghi-nê của tôi. Tôi nhắc lại tỉ mỉ
cách buôn bán ở đó, cách đổi lấy vàng vụn, ngà voi và nhiều vật báu khác bằng những thứ tầm
thường như là giường nằm kiểu nhỏ, nồi niêu, bát đĩa, dao, kéo, đục, búa, gương soi và nhiều
thứ lặt vặt khác nữa. Lần nào cũng thế, mọi người đều hết sức chăm chú nghe câu chuyện của
tôi. Một hôm, ba người bạn chủ trại tới tìm tôi ngỏ ý muốn làm một chuyến buôn ở Ghi-nê. Họ
sẽ chuẩn bị một chiếc tàu và muốn nhờ tôi cùng đi trên chuyến tàu đó với nhiệm vụ tổng quản lý
để điều khiển mọi việc mua bán đổi chác. Lúc trở về, chia hàng, tôi sẽ được hưởng một phần
ngang với mỗi phần của họ mà không phải bỏ vào một xu nhỏ vốn nào. Máu tham mới thấy hơi
đồng là mê! Thật là khó mà từ chối nổi món lợi đó. Tôi vui vẻ nhận lời với điều kiện là họ bảo

đảm trông coi chu đáo cái trại của tôi trong khi tôi đi vắng. Họ sẽ được hưởng cái trại đó nếu tôi
không may bị thiệt mạng ngoài biển khơi. Sau khi tuyển mộ thủy thủ xong, hàng hóa đã bốc lên
đầy đủ, mọi việc đều ổn thỏa đúng như lời giao ước giữa tôi và ba người bạn, tôi xuống tàu để
dấn thân vào cuộc khổ ải sắp tới. Hôm ấy là
Ngày mồng 1 tháng 9 năm 1659, đúng ngày tám năm trước đây ở Hơn, tôi đã bước chân xuống
tàu lần đầu tiên, bất chấp những lời khuyên bảo của bố mẹ. Chiếc tàu của chúng tôi chở được
chừng một trăm hai mươi ton-nô. Trên tàu có sáu khẩu đại bác và mười bốn người. Chúng tôi
chỉ chở độc những thứ hàng hóa để trao đổi như là đồ thủy tinh, xoong, chảo, và nhất là những

Trang 8/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

cái gương xinh xắn, những con dao, kéo, búa và một số vải hoa. Chúng tôi giong buồm lên, đi
dọc bờ biển hướng theo phương bắc, dự định sẽ vòng sang bờ biển châu Phi sau khi đã lên tới
mười, hoặc mười một nam vĩ độ. Đó là con đường hàng hải hồi ấy người ta hay dùng. Suốt thời
gian đi dọc bờ biển, trời rất tốt mặc dầu thời tiết nóng bức vô cùng. Lên tới ngang mũi đất
Thánh s-guýt-xtanh, chúng tôi dần dần quay mũi ra khơi. Khi không còn trông thấy đất liền nữa,
chúng tôi hướng về bắc đông bắc, vượt đường xích đạo sau mười hai ngày đi trên mặt biển.
Theo những tính toán mới nhất thì chúng tôi đương ở vị trí bảy độ và hai mươi phút bắc vĩ độ.
Bỗng dưng một cơn dông tố nổi lên làm cho chúng tôi hoàn toàn lạc hướng. Bắt đầu ở đông
nam, cơn dông chuyển thành gần như tây bắc, rồi dừng lại ở đông bắc. Tới đây, nó trở nên
mãnh liệt vô cùng, làm cho suốt mười hai hôm liền, chúng tôi chỉ biết trôi xuôi theo chiều cơn
gió hung dữ.
Suốt thời gian đó, lúc nào tôi cũng nơm nớp lo bị vùi thây dưới lớp sóng cuồn cuộn, và thật ra

cũng không có ai trên tàu dám tự yên ủi rằng mình sẽ thoát hiểm. Cuối ngày thứ mười hai, sức
gió đã giảm. Viên thuyền trưởng ước lượng vị trí chiếc tàu và nhận thấy chúng tôi đang ở vào
quãng mười một bắc vĩ độ, nhưng cách xa mũi đất Thánh s-guýt-xtanh hai mươi hai tây kinh độ.
Như vậy là tàu đã trôi giạt lại bờ biển ở Guy-an hoặc phía bắc Bra-din, phía trên sông A-ma-dôn,
ngược về phía sông s-rê-nốc-cơ thường gọi là "sông Lớn". Viên thuyền trưởng hỏi ý kiến tôi bây
giờ nên đi đường nào. Chiếc tàu đã bị hư hỏng trầm trọng và nước vào cũng khá nhiều nên
không thể đi xa được nữa. Chúng tôi cùng nghiên cứu lại bản hải đồ châu Mỹ và quyết định đi
vòng ra khơi, tiến về phía đảo Bác-bát-đơ trong quần đảo Ca-ra-íp để ghé lại, há vọng có thể dễ
dàng cập bến sau mười lăm ngày. Bây giờ nếu tàu không được sửa chữa, người không được nghỉ
ngơi thì khó lòng mà sang tới châu Phi được nữa. Quyết định như thế, chúng tôi đổi đường và
chuyển về bắc tây bắc. Nhưng hành trình của chúng tôi lại chấm dứt một cách khác. Đương đi ở
vị trí mười hai độ mười tám phút bắc vĩ độ, chúng tôi lại vấp phải một cơn băo thứ nhì hung hãn
không kém cơn bão trước. Bão cuốn chúng tôi về phía tây, xa hẳn xã hội loài người. Cơ sự này
nếu có thoát nạn sóng nước thì cũng đến sa vào tay những thổ dân chứ mong gì được may mắn
trở về quê nhà. Thật là tuyệt vọng.

Trang 9/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Chương 4
Trời vừa sáng, một người trong bọn chúng tôi bỗng kêu lên: "Đất liền!" Chúng tôi ra khỏi phòng
để xem đó là xứ nào và hiện đang lênh đênh ở miền nào trên quả đất thì chiếc tàu đâm sầm vào
một dải cát. Tàu đứng sững lại, sóng tràn vào ào ạt; chúng tôi chỉ còn chờ chết nữa thôi. Chúng
tôi đứng sát với nhau tựa vào thành tàu để tránh sức quật mãnh liệt. Chúng tôi chỉ còn một chút

hy vọng, đó là chiếc tàu chưa bị vỡ
-trái với phỏng đoán
và ông chủ tàu cho biết gió đã bắt đầu dịu dần. Trên tàu vẫn còn một chiếc xuồng, nhưng sóng
gió lay tàu mạnh quá không sao đem xuống được. Sóng gió quật mạnh, thân tàu kêu răng rắc.
Ai nấy đều cho là tàu sắp vỡ đến nơi rồi. Trong cơn tiến thoái lưỡng nan, may sao người hoa
tiêu tìm được cách lấy xuồng. Chúng tôi xúm lại giúp anh ta hạ xuồng xuống biển, ngay sát
thành tàu. Tất cả anh em chúng tôi đều xuống xuồng, trao phó tính mạng cho Trời, bỏ mặc
chiếc tàu cho biển cả hung dữ. Chúng tôi chèo, hay nói cho đúng là trôi, được chừng một dặm
rưỡi thì một làn sóng lớn như một quả núi cuồn cuộn đuổi theo. Phút chốc nó đổ xuống chúng
tôi dữ dội vô cùng. Chiếc xuồng bị hất ngược, chúng tôi bắn ra khỏi xuồng, chìm nghỉm dưới vực
nước, mỗi người một ngả chẳng còn kịp gọi nhau. Ngọn sóng vồ lấy tôi, cuốn vào đất liền rồi dịu
đi, để tôi nằm trơ nửa nổi nửa chìm trên cát, gần chết vì ngạt thở và uống nước quá nhiều. Nhìn
thấy đất liền gần mình hơn là dự đoán, tôi tỉnh táo lại ngay và khỏe hơn lên. Tôi vùng đứng dậy,
cố sức chạy thật nhanh vào phía bờ, trước khi một đợt sóng khác có thể ào tới và cuốn tôi trở ra.
Nhưng không kịp nữa! Phía sau, biển cả hung hãn dâng lên cao và dữ dội như một kẻ địch nguy
hiểm mà tôi không thể đọ sức. Tôi cố gắng nín hơi, nhoai người lên trên mặt sóng để có thể thở
tự do và bơi thẳng được vào. Đáng lo nhất là sau khi đưa tôi về phía đất liền, ngọn sóng lại rút lui
và sẽ có thể cuốn tôi trở ra biển cả. Đợt sóng thứ nhì này đổ ào lên đầu tôi và vùi tôi xuống dưới
một cây nước cao chừng hai mươi đến ba mươi bộ. Tôi có cảm giác bị cuốn đi rất xa, rất mạnh
và rất nhanh vào phía đất liền. Tôi bèn nín thở, bơi cật lực để được gần bờ thêm chút nữa.
Nhưng vì cố gắng quá sức, tôi gần như bị ngạt. Vừa may tôi thấy mình như nổi dần lên, đầu và
tay nhô ra khỏi mặt nước, trong người dễ chịu hẳn. Mặc dầu chỉ nhô lên được chừng hai giây
đồng hồ, tôi cũng đã kịp thở và trấn tĩnh trước khi lại bị dìm sâu xuống nước. Lần này thì tôi
không đến nỗi ngột ngạt quá lâu nữa. Đợt sóng vừa dịu đi và bắt đầu rút lui ra biển cả, tôi đã
vùng chạy miết lên phía trước để khỏi lại bị cuốn đi lần nữa: tôi đứng im một chút, thở lấy sức và
chờ cho nước rút ra hết, rồi chạy cật lực về phía bờ. Tuy vậy gian nan vẫn chưa hết; tôi còn bị
vùi dưới hai đợt sóng mạnh nữa. Sóng lại cuốn và đẩy tôi tới phía trước, đưa tôi lại gần bờ thêm.
Đợt sóng thứ nhất trong hai đợt này thật tai hại quá chừng. Nó ném vào một mỏm đá, mạnh
đến nỗi tôi choáng váng bất tỉnh. Sườn và ngực bị đập mạnh vào đá, tôi nghẹt thở mất một lúc.
Nếu sóng dồn đến tới tấp thì chắc chắn tôi đã bị chết ngạt. Nhưng tôi đã tỉnh lại trước khi đợt

sóng sau xô tới. Vừa thấy sóng sắp sửa nhào đến, tôi cắn răng bám chặt lấy một mỏm đá, nín
thở cho tới khi ngọn sóng rút ra. May sao đất liền cũng đã gần, sức sóng đã giảm nên dù sóng
dồn qua dồn lại trên đầu, tôi vẫn bám chặt được vào mỏm đá. Ngọn sóng vừa rút lui, tôi không
bỏ lỡ dịp tốt, chạy thẳng vào được gần bờ, đợt sóng sau tuy vẫn vượt qua đầu tôi nhưng không

Trang 10/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

cuốn tôi trở ra được nữa. Tôi chỉ còn phải chạy tiếp một chặng đường nữa là đến bờ. Tới nơi, tôi
trèo lên một mỏm đất, ngồi bệt xuống cỏ, tránh những ngọn sóng bất lực đương hung hăng
nhào tới và réo ầm ầm chưa chịu buông tha tôi. Thế là thoát nạn. Tôi cảm thấy vô cùng sung
sướng, chẳng khác gì được cứu sống sau một cơn ốm thập tử nhất sinh. Tôi đi đi lại lại trên bờ
biển, lòng vui dào dạt, tỏ nỗi vui sướng của mình bằng nhiều cử chỉ bây giờ cũng không nhớ lại
được nữa. Nhớ tới các bạn cùng đi trên tàu, tôi ngậm ngùi vô hạn. Có lẽ chỉ còn một mình tôi
sống sót. Từ khi bị nạn, tôi chẳng còn thấy bóng dáng một ai hoặc một vết tích gì của họ, ngoài
bốn cái mũ, vài chiếc giày rách bị sóng ném vào bờ. Tôi ngoảnh nhìn về phía chiếc tàu mắc cạn.
Mặt biển vẫn đầy những con sóng bạc đương réo lên hung hãn. Chiếc tàu lại còn ở cách rất xa
nên tôi chỉ có thể thấy mờ mờ bóng dáng nó. Bất giác tôi kêu lên: "Trời ơi! Sao mà mình lại có
thể vào được đất liền thế nàyâ" Nghĩ tới hoàn cảnh may mắn của mình, tôi thấy vững dạ thêm.
Tôi bắt đầu nhìn xung quanh xem mình hiện ở nơi nào, mình phải lo tới việc gì trước. Thế là tôi
lại thấy ngao ngán quá, vì thực ra chưa có gì đáng mừng. Trái lại, tình cảnh tôi còn bi đát lắm:
ướt lạnh không có quần áo thay, đói không có ăn, khát không có uống, đau yếu không có thuốc
thang; trong tay chỉ có mỗi một con dao nhỏ để giữ mình. Như vậy hỏi còn có thể nhìn thấy gì
ngoài cái cảnh mình sẽ bị chết đói hoặc làm mồi cho thú dữâ

Cách giải quyết tạm thời và tốt nhất là trèo lên một cây cao trông giống như cây thông nhưng
cành lá rườm rà mà thân lại có gai mọc gần đó. Tôi quyết định ngủ trên đó cho qua một đêm,
chờ xem ngày hôm sau cái chết sẽ đến như thế nào với tôi, bởi vì hiện tại tôi vẫn không thấy gì
ngoài cái chết. Tôi đi sâu vào đất liền chừng một phần tư dặm để tìm nước uống. Gặp một dòng
nước ngọt chảy róc rách, tôi mừng rỡ cúi xuống uống lấy uống để. Sau khi uống thỏa thuê và
nhai một nhúm thuốc lá cho quên đói, tôi trèo lên cây tìm một chỗ nằm thật chắc chắn để dẫu
có ngủ mê cũng không thể rơi xuống đất được. Tôi chặt một đoạn gậy ngắn đem theo phòng
thân. Vì mệt quá nên vừa tới nơi là tôi nằm vật xuống ngủ thiếp đi một giấc dài. Chính giấc ngủ
này đã giúp tôi lấy lại sức khỏe. Chắc không mấy ai đã có thể ngủ một giấc ngủ ngon lành như
tôi lúc ấy, trên một chỗ nằm khá cheo leo. Sáng bạch tôi mới dậy. Trời trong xanh, bão đã tan,
mặt biển không còn hung hãn như hôm qua nữa. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy thủy triều lên
cao đã nâng chiếc tàu của chúng tôi lên khỏi dải cát và đưa nó giạt vào gần ghềnh đã mà hôm
qua tôi đã bị mấy phen quật vật lao đao. Từ chỗ tôi ngồi đến đó chỉ chừng một dặm biển. Thấy
chiếc tàu vẫn có vẻ chưa suy suyển, tôi mong có thể ra đó, may ra tìm được một vài thứ cần
thiết cho cuộc sống của tôi từ nay. Vừa tụt xuống khỏi "giường", tôi nhìn quanh một lần nữa và
thấy ngay chiếc xuồng đã bị gió và thủy triều đẩy giạt vào bờ, ở bên phải tôi, cách chừng hai
dặm biển. Tôi cứ men dọc mãi theo bờ biển, định đi tới đó.
Nhưng tôi gặp ngay một cái phá rộng chừng nửa dặm biển chắn ngang đành phải quay trở về,
chờ dịp khác. Vả lại mục tiêu chính của tôi hôm nay vẫn là chiếc tàu, há vọng tìm ngay ở đó
được chút gì ăn uống tạm. Quá trưa một tí, mặt biển phẳng lặng, nước triều xuống cạn đến mức
tôi có thể đi bộ ra cách con tàu còn độ một phần tư dặm biển mới phải bơi. Lòng tôi lại càng
thêm chua xót ngậm ngùi. Rõ ràng là nếu chúng tôi cứ ở yên trên tàu thì chắc chắn là sẽ bảo
toàn tính mạng. ít nhất chúng tôi cũng có thể yên ổn lên được đất liền; bản thân tôi sẽ không
đến nỗi cơ cực như bây giờ, một thân một mình trơ trọi. Những ý nghĩ đó làm cho tôi ứa nước
mắt. Nhưng khóc thì cũng chẳng giảm nhẹ đau khổ được mấy chút, tôi quyết định ra chỗ chiếc
tàu, nếu có thể ra được. Trời nắng gay gắt. Tôi cởi hết quần áo rồi nhảy xuống nước, bơi đi.
Nhưng khi tới bên sườn tàu, tôi mới thấy khó lên quá. Bây giờ tàu nằm ghếch trên một dải cát
và nhô khỏi mặt nước khá cao, ven sườn lại chẳng có gì để bấu víu mà lên được. Tôi bơi quanh
tàu hai vòng và cuối cùng gặp được "cứu tinh"; đó là một đoạn thừng treo lủng lẳng ở phía trước.


Trang 11/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Tôi phải cố gắng lắm mới nắm được mẩu thừng mà trèo lên phía mũi. Tới nơi, tôi thấy chiếc tàu
bị vỡ một mảng lớn tướng, nước tràn vào ngập gần hết cả khoang hầm. Nó nằm chúi vào sườn
một dải cát thoai thoải cho nên lái thì nhô lên thật cao mà mũi lại tụt xuống quá thấp, gần chìm
nghỉm trong nước. Như vậy, sàn tàu nằm cao hơn mặt nước, và tất cả những thứ gì để trên đó
đều còn khô ráo cả. Việc trước tiên là sục sạo khắp nơi xem cái gì đã hư hỏng, cái gì còn tốt.
Trước hết, tôi mừng rỡ thấy tất cả thực phẩm trên tàu đều còn khô ráo và nguyên lành. Bụng
đói meo, tôi lấy bánh khô nhét đầy túi rồi vừa ăn vừa làm những việc khác, vì tôi không thể bỏ
phí một chút thì giờ nào. Tìm được trong phòng viên thuyền trưởng một ít rượu mạnh, tôi uống
ngay một ngụm lớn để cho tinh thần thêm vững mà đương đầu với tất cả những khó khăn trong
những ngày sắp tới.
Vừa bước ra khỏi phòng viên thuyền trưởng, tôi nghe văng vẳng có tiếng cào cửa, tiếp đó là một
thứ tiếng rên ư ử. Tôi kinh ngạc, nửa sợ nửa mừng. Ai đóâ Các bạn đồng hành đều cùng xuống
xuồng với tôi và đều đã bỏ mình dưới biển cả rồi! Tôi lắng nghe và đoán ra những tiếng đó phát
ra từ khoang hầm. Quả nhiên xuống tới đó thì nghe thấy rõ hơn. Tôi cảm động mở tung cửa
hầm để giải thoát cho người bạn khốn khổ. Một cái bóng vụt ra, nhảy bổ vào tôi. Đó là con chó
trên tàu. Tội nghiệp, nó bị mệt lả và đói mèm nên chỉ sủa được vài tiếng rất yếu ớt. Nó quấn
quít lấy tôi như gặp chủ cũ. Tôi quăng cho nó miếng bánh đương ăn dở và ngồi xuống vuốt ve
nó: "Thôi, mày lên đảo với tao cho có bầu có bạn!".
Nhưng nhiều việc cấp bách không cho phép tôi ngồi với nó lâu hơn nữa. Tôi ném cho nó thêm
mấy miếng bánh khô rồi quay trở lại với công việc của mình. Tôi không thể cứ ngồi khoanh tay
mặc thời gian trôi đi mà mơ ước viển vông. Nhu cầu cấp bách đã đốc thúc và khuyến khích tôi

phải cố gắng bắt tay vào việc ngay. Trên tàu có rất nhiều trục buồm, vài ba cột buồm dự trữ và
mấy phiến gỗ lớn. Tôi bèn lấy ngay mấy thứ đó, vốn cũng không lấy gì làm nặng quá, đẩy xuống
nước buộc chặt vào một sợi dây thừng để chúng khỏi trôi đi. Xong xuôi tôi tụt xuống theo sườn
tàu, kéo những cây gỗ ấy lại, buộc bốn khúc dài nhất vào nhau thật chặt, thành hình một chiếc
bè. Tôi đặt ngang trên đó mấy mảnh ván ngắn để có thể đi lại được. Nhưng bè còn nhẹ quá
chưa thể chở nặng. Tôi lại trèo lên tàu cưa thêm một cái trục lớn thành ba đoạn, rồi nhọc nhằn
lắm mới đem buộc được vào cho bè nặng thêm. Cứ nghĩ rằng mình sẽ có thể thu nhập được
nhiều vật dụng cần thiết, tôi lại càng hăng hái và làm được những việc vượt sức tôi rất nhiều.
Chẳng mấy chốc tôi đã có một chiếc bè tạm đủ sức chở một chuyến khá nặng. Bây giờ chỉ còn
chọn xem phải chở gì và làm thế nào để đồ đạc khỏi bị ướt. Nhưng tôi cũng chẳng phải suy tính
lâu! Trước hết, tôi ném xuống bè tất cả những tấm ván đã tìm thấy trên tàu. Tiếp đến, sau một
phút đắn đo, cân nhắc xem cái gì cần thiết trước, tôi lấy ngay ba chiếc hòm rỗng lớn buộc dây
ròng xuống. Tôi xếp đầy thức ăn vào cái hòm lớn nhất, bánh mì, gạo, ba bánh phó mát Hà-lan,
năm súc thịt dê khô và một ít lúa mì vẫn dùng để nuôi gà trên tàu, nhưng gà đã bị thịt gần hết từ
lâu rồi. Tôi cũng tìm được một ít lúa mạch các loại trộn lẫn với nhau, nhưng tiếc thay chuột đã
ăn hoặc nhằn mất lői, chỉ còn lại trấu. Tôi đành chỉ lấy về tất cả những thứ gì hiện nay tôi
không thể thiếu, trong đó phải có một số đồ dùng để làm việc khi lên đất liền. Sau khi tìm kiếm
rất lâu, tôi vớ ngay được cái hòm đựng đồ nghề của bác thợ mộc. Quả là một kho tàng quí báu,
hơn hẳn một chiếc tàu chở đầy vàng. Tôi ròng ngay cái hòm ấy xuống bè, cũng chẳng cần kiểm
lại nữa vì tôi đã biết đại khái trong đó có những gì rồi. Sau đó, tôi sục tìm khí giới và đạn dược.
Trong buồng viên thuyền trưởng có hai khẩu súng trường rất tốt và một cặp súng ngắn; tôi cho
ngay mấy cây súng xuống bè cùng với hai túi thuốc súng, một bao đạn ghém và hai thanh gươm
cũ đã gỉ. Tôi biết trên tàu còn có ba thùng thuốc súng nữa, nhưng không rõ người pháo thủ xếp
vào đâu. Nhưng rồi tôi cũng moi ra được sau khi sục sạo không thiếu một ngóc ngách nào. Đáng

Trang 12/76

o



Robinson Crusoe

Daniel Defoe

tiếc là một thùng đã ngấm nước; còn hai thùng kia vẫn khô ráo và đang tốt; tôi đem luôn lên bè
cùng với súng đạn. Như vậy, tạm thời tôi cũng đã có đủ mọi thứ cần thiết; bây giờ chỉ còn lo đưa
chiếc bè yên ổn vào cho tới bờ. Bè không buồm, không bơi chèo, không tay lái; một cơn gió bất
chợt đến cũng đủ đánh chìm tất cả thật đáng ngại. Bè đi được một quăng thì tôi nghe tiếng chó
sủa trên tàu. Thì ra tôi đã bỏ quên con vật đáng thương ấy. Trong khi tôi bận túi bụi vào những
công việc kể trên thì nó sục khắp hầm tàu để tìm chuột cho nên lúc tôi xuống bè thì quên mất
nó. Tôi giơ tay vẫy. Nó nhảy từ trên tàu xuống biển, bơi vào bờ và tới nơi trước cả bè. Lúc bè
cập bến, tôi đã thấy nó ngồi chồm chỗm trên bờ để đón. Cách chỗ tôi chừng một dặm biển có
một quả núi rất cao và lởm chởm, nổi bật hẳn lên trước một dãy núi khác ở phía bắc. Tôi mang
một khẩu súng trường và một khẩu súng ngắn, kèm thêm một cái túi thuốc súng và một bao đạn
ghém, rồi lên đường trèo lên đỉnh núi cao để khám phá vùng đất đó.
Sau bao nhiêu nhọc nhằn mới lên tới nơi, tôi càng đau xót cho số phận mình. Tôi thấy rõ ràng
hiện nay mình đang bơ vơ trên một hòn đảo trơ trọi giữa biển cả mênh mông, không còn mảnh
đất nào khác mấy mỏm đá ở xa tít mù khơi. Cách đảo lớn này chừng ba dặm đường về phía tây
chỉ có hai hòn đảo khác nhỏ hơn nhiều. Tôi bị cầm tù trong một hòn đảo thật hoang vu. Tôi có
thể tin chắc rằng ở đây không có dân cư mà chỉ có thú dữ. Nhưng tôi cũng chưa thấy bóng con
thú dữ nào. Tôi chỉ gặp rất nhiều những giống chim lạ mà cũng chẳng biết giết chúng để làm gì!
Lúc trở về, tôi bắn rơi một con chim rất to đang đậu trên một cây cao ở ngay bìa khu rừng lớn.
Có lẽ đó là phát súng đầu tiên ở đây từ khi khai thiên lập địa. Tiếng nổ chưa dứt, từ khắp nơi đã
ầm ầm ào ào không biết bao nhiêu tiếng kêu, tiếng chí choé, đủ giọng đủ kiểu đến lạ. Con chim
bị bắn có lẽ là một loại diều hâu, màu lông và mỏ thì giống, nhưng cựa và móng thì lại khác, thịt
thì hăng hắc khó chịu, chẳng được tích sự gì. Thôi thì biết thêm được tí nào hay tí ấy! Tôi trở về
chiếc bè và bắt tay vào việc dỡ đồ đạc. Tôi mải mê với công việc đến nỗi đêm đến lúc nào
không hay, thành thử chưa kịp nghĩ đến thu xếp nơi ăn chốn ngủ, dù là tạm thời. Tôi không
dám nằm liều xuống đất mà ngủ, chỉ sợ bất ngờ có thú dữ tới vồ, mặc dầu cũng chưa có gì tỏ ra
đáng ngại về mặt đó.

Tuy vậy, tôi cũng xếp tạm một bức rào bằng những hòm và ván lấy ở tàu về; rồi dựng tạm một
chiếc lều nho nhỏ bên trong để ngủ cho qua tối hôm đó. Tôi cũng chưa nghĩ ra cách sẽ kiếm ăn
thế nào trên hòn đảo hoang vu này trừ vài ba con thú giống như thỏ rừng chạy ra lúc tôi bắn con
chim. Tôi lót vội cho con chó một cái ổ ngay bên cạnh; như vậy tôi thấy vững dạ hơn. Thỉnh
thoảng nó rên ư ử như đương nằm mơ thấy lại những cảnh hãi hùng vừa qua. Vào quãng nửa
đêm nó vùng dậy sủa lên mấy tiếng; tôi cầm súng đứng dậy nhìn ra ngoài nhưng không thấy
động tĩnh gì lại nằm xuống để ngủ đến sáng. Tôi ước tính còn có thể lấy ở chiếc tàu về được
nhiều thứ rất cần thiết, đặc biệt là dây chão, vải buồm. Tôi lại tìm cách trở ra tàu. Tôi biết chỉ
một cơn bão nữa nổi lên là đủ phá vỡ tan chiếc tàu ra ngay, nên tôi hoãn tất cả mọi công việc
khác để đi vài chuyến nữa. Tôi để chiếc bè cũ ở nhà; ra tàu tôi sẽ lấy ván đóng một cái khác
vững vàng hơn. Tôi bèn chờ nước thủy triều xuống để đi ra như lần trước. Nhưng lần này tôi cởi
hết quần áo ngay từ trong lều, chỉ mặc áo lót rách, quần đùi và mang dép nhẹ.

Trang 13/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Chương 5
Tới nơi, tôi đóng ngay chiếc bè. Kinh nghiệm lần trước giúp tôi khéo tay hơn. Chiếc bè này
không cồng kềnh như chiếc trước mà cũng không phải chở nặng quá. Tuy nhiên tôi vẫn mang
về được rất nhiều thứ có ích. Tôi tìm thấy trong kho đồ mộc mấy túi đinh và sắt nhọn, một cái
khoan lớn, có đến hơn chục cái búa, rìu và một hòn đá mài. Tôi để riêng ra cùng với mấy thứ
khác của người pháo thủ, như vài thanh sắt, hai thùng đạn, bảy khẩu súng và thêm vào đó một
khẩu súng săn, một ít thuốc súng, một túi lớn đựng đầy đạn ghém cỡ nhỏ.
Mấy thùng thuốc súng sao mà đồ sộ và nặng đến thế! Tôi phải đục thùng lấy thuốc súng ra dần

dần, chia thành nhiều gói đem bỏ lên bè. Công việc ấy cũng làm tôi mất thêm một số thì giờ.
Vào đến đất liền với ngổn ngang trăm thứ như thế, tôi dựng ngay một cái lều nhỏ bằng tấm vải
buồm lấy ở tàu về và những cọc nhọn đã chuẩn bị sẵn sàng. Tôi mang vào trong lều tất cả
những thứ có thể bị hỏng vì mưa nắng ngoài trời. Sau đó, tôi xếp những hòm và thùng rỗng, cái
này chồng lên cái kia, thành một bức lđá vây quanh chiếc lều để bảo vệ tài sản của tôi, chống
những cuộc tấn công của bất cứ kẻ địch nào. Tôi lại dựng mấy tấm ván phía trong và một cái
hòm rỗng bên ngoài để chặn lối ra vào. Sau khi luồn hai khẩu súng ngắn xuống dưới gối và đặt
khẩu súng săn bên cạnh mình, hôm ấy là buổi đâu tiên tôi được đặt mình xuống giường, đánh
một giấc ngon lành cho tới khi trời sáng rõ. Tối hôm qua tôi bị mệt đến mức không ngủ được
mấy chút, rồi cả ngày hôm nay lại làm việc không nghỉ, suốt ngày ra tàu lấy các thứ về rồi lại
chuyển lên bờ đưa về lều. Kho chứa đồ của tôi có thể coi là một tài sản lớn nhất riêng cho một
người. Tuy nhiên tôi vẫn chưa thỏa mãn. Chiếc tàu còn đứng vững ngoài kia thì tôi còn phải ra
mà lấy cho kỳ hết tất cả những gì có thể đem về được. Ngày nào tôi cũng ra tàu vào lúc nước
triều rút, hôm lấy về thứ này, hôm đem về thứ kia. Đặc biệt trong chuyến đi thứ ba, tôi lấy về tất
cả những đồ dùng đi biển: dây chăo loại nhỏ, sợi gai bện thừng, một tấm vải thô và cả cái thùng
thuốc súng bị thấm nước. Cái gì có thể lấy về được là tôi không từ. Tôi không quên tất cả những
lá buồm các cỡ, từ cái to nhất đến cái nhỏ nhất, trong hoàn cảnh này, nếu không dùng làm
buồm thì cũng dùng làm vải thô. Tôi cắt thành từng mảnh đem dần về.
Sau năm sáu chuyến đi như thế, tưởng rằng trên tàu chẳng còn gì đáng giá nữa, đột nhiên tôi vớ
được một thùng lớn đầy bánh khô, ba thùng rượu mạnh, một hộp đường đen và chừng một
thùng bột mì rất mịn. Cả chừng ấy thứ vẫn tốt nguyên, chưa bị nước mặn làm hỏng. Thật là
thích thú quá chừng! Tôi vội vàng lấy hết bánh khô trong thùng ra đem gói vào trong những
miếng vải buồm đã cắt sẵn, rồi bỏ lên bè chở vào bờ. Chuyến này cũng yên ổn và rôm rả không
kém những chuyến trước. Ngày hôm sau, tôi lại đi một chuyến nữa. Những chuyến trước, tôi đã
lấy tất cả những gì có thể mang đi được một cách tương đối nhẹ nhàng. Lần này tôi nhằm vào
những dây chão lớn. Tôi bắt đầu chặt những dây lớn nhất thành từng đoạn vừa sức tôi kéo đi, rồi
chất hai dây chăo, một dây tam cố và đồ sắt, linh tinh thành một đống. Tôi lại cưa hai cái trục
buồm lớn ra đem kết thành một cái bè lớn, chuyển tất cả cái đống nặng nề đó lên rồi chèo đi.
Nhưng bản thân chiếc bè đã nặng quá lại chở quá sức, cho nên khi tới cái vũng hôm trước, tôi
không điều khiển nổi bè nữa. Thế là bè bị lật, hất tôi và tất cả đồ đạc xuống nước. Tuy chính

mình không bị tai nạn gì vì bè đã vào gần tới bờ, nhưng chuyến này tôi bị thiệt hại khá nhiều,
nhất là các đồ sắt định dùng vào một số việc cần thiết. Cũng may nước triều xuống cạn, tôi vớt
được lên bờ hầu hết những đoạn dây chão và một ít đồ sắt. Tôi cứ phải lặn xuống ngoi lên mãi

Trang 14/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

nên mệt nhoài. Từ hôm đó, tôi vẫn tiếp tục mỗi ngày một chuyến ra tàu để lấy tất cả những gì
có thể chở về được. Tôi đã lên đất được mười ba ngày và ra tàu được mười một chuyến. Tôi đã
lấy về tất cả những thứ mà sức một con người đơn độc có thể lấy và đem đi được. Tôi tin chắc
rằng nếu trời cứ tốt, mặt biển cứ lặng, tôi sẽ lấy về được tất cả chiếc tàu, từng mảnh từng phần
một. Tôi trở ra chuyến thứ mười hai, nhưng biển bắt đầu động nên không đóng bè chở thêm
được. Bất ngờ tôi lục trong ngăn kéo viên thuyền trưởng được một số tiền vàng đủ các loại, mươi
chiếc dao cạo và một tá dao ăn. Tôi định bỏ số tiền lại vì bây giờ nó vô dụng quá chừng, nhưng
sau tôi cũng đem gói lại cùng với dao vào một miếng vải buồm. Tôi ôm lấy cái gói, nhảy xuống
biển bơi vào bờ trước khi mặt biển nổi sóng lớn. Tôi cũng không ngạc nhiên lâu.
Một ý nghĩ chợt đến đã an ủi tôi: may mà mình không bỏ phí một chút thì giờ nào, không ngại
khó khăn, không sợ mệt nhọc, đã lấy được hết mọi thứ cần thiết dù ít dù nhiều. Bây giờ nếu có
còn chút thì giờ nào nữa cũng chẳng còn gì đáng kể mà lấy. Từ nay tôi phải lo tìm cách ổn định
cuộc sống, đề phòng kẻ địch như người hoặc thú rừng. Tôi cân nhắc măi những kinh nghiệm
làm nhà và các kiểu nhà, không biết bây giờ nên đào một cái hang sâu hay dựng một túp lều.
Cuối cùng tôi quyết định làm cả hai thứ. Tôi cũng muốn giới thiệu với các bạn toàn bộ "dinh cơ"
của tôi vì chắc cũng có nhiều điều đáng được các bạn chú ý. Trước hết, tôi nhận thấy chỗ ở tạm
của tôi bây giờ không thích hợp để làm nhà vì vừa thấp vừa lầy lội, lại chẳng gần nguồn nước

ngọt nào. Tôi bèn đi tìm một chỗ ở tốt hơn. Trong hoàn cảnh này, tôi thấy cần phải kết hợp cho
được nhiều mặt thuận lợi. Trước hết, cần có đủ điều kiện để bảo đảm sức khỏe tốt, gần nước
ngọt, tránh được ánh nắng gay gắt ở xứ này. Mặt khác, những điều kiện để tự bảo vệ chống
những cuộc tấn công bất ngờ của kẻ thù cũng không thể thiếu. Sau nữa, tôi lại muốn có thể
nhìn được ra ngoài biển cả để nếu thấy chiếc tàu nào qua lại sẽ tìm cách thoát khỏi đảo vắng.
Há vọng này tuy mỏng manh nhưng tôi vẫn quyết tâm bám chặt lấy. Tôi tìm được một miếng đất
bằng phẳng, nằm sát chân một ngọn núi cao. Sườn núi phía này thẳng đứng như tường, không
dễ gì đi từ trên cao mà xuống đến chỗ tôi ở được. Bên dưới có một chỗ lõm vào giống như một
cửa hang.
Nhưng bên trong chẳng có hang động hoặc đường hẻm. Tôi dựng nhà trên nền đất ngay trước
chỗ lõm ấy. Một khoảng đất rộng chừng năm mươi sải và dài gấp đôi, trải ra trước mặt như một
tấm thảm xanh, ba bề dốc thoải thoải về phía bờ biển. Làm nhà ở đó tức là phía bắc tây bắc
ngọn núi, hàng ngày tôi có thể tránh nắng cho đến lúc mặt trời sắp lặn. Trước khi dựng lều, tôi
vạch một đường vòng cung, bán kính từ chỗ đất lőm thẳng ra chừng mười sải còn đường kính
chạy theo chân núi thì dài hai mươi sải. Theo đường vòng cung, tôi trồng hai dãy cọc gỗ thật
chắc chắn, chôn sâu xuống đất rất vững, cao hơn mặt đất chừng năm bộ rưỡi và đẽo nhọn ở
trên. Hai lớp rào trong ngoài cách nhau chỉ chừng sáu tấc bộ. Xong xuôi, tôi lấy những đoạn dây
chão đã cắt đem đan lại thật sít nhau, vào giữa những cọc hàng rào, từ chân lên đến ngọn. Tôi
lại đóng thêm những cọc gỗ khác cao chừng hai bộ rưỡi, áp chặt vào những cọc trước, để đỡ
phía trong. Công trình ấy vững chãi đến mức không thể có người, hoặc con vật nào phá vỡ hay
vượt qua được. Tôi đã dồn vào đó biết bao công sức, nhất là để cưa xẻ những cọc gỗ rồi kéo từ
bến vào, dựng lên mà chôn sâu xuống. Tôi không làm cổng, nhưng lại làm một cái thang nhỏ để
trèo qua rào, rồi kéo luôn thang vào bên trong. Như thế, chắc chắn tôi được bảo vệ rất cẩn thận
để chống với mọi kẻ địch và từ ngày đó tôi mới được ăn ngon ngủ yên. Nhưng kể cũng thừa, vì
suốt một thời gian dài về sau, thực tế chẳng thấy có kẻ thù nào đáng kể. Chính trong cái chỗ trú
ẩn đó, hoặc gọi là cái pháo đài cũng được, tôi đã chuyển vào tất cả lương thực, khí giới, nói tóm
lại, tất cả tài sản của tôi. Bên trong, tôi dựng một chiếc lều lớn có hai lớp mái để chống những
trận mưa như trút và dai dẳng ở miền này. Trước hết, tôi dựng một lều trung bình, rồi làm một

Trang 15/76


o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

cái khác lớn hơn trùm lên, sau đó lại căng thêm một lớp vải nhựa đem từ tàu về.
Từ đó, một thời gian rất lâu, tôi không ngủ trên cái giường đem ở tàu lên nữa. Sẵn có chiếc
võng rất êm của người hoa tiêu trước kia thường dùng trên tàu, tôi đem mắc trong lều để ngủ, vì
tôi thích ngủ võng hơn. Tôi lại cất vào trong lều tất cả những loại thức ăn có thể bị mưa làm
hỏng. Sau khi đã chuyển hết mọi thứ vào bên trong, tôi bịt kín hàng rào lại. Từ đó, tôi chỉ dùng
cái thang để ra vào như trên kia đã nói. Công việc ấy xong xuôi, tôi bắt đầu đào sâu vào trong
núi. Đào được bao nhiêu đất, tôi đều chuyển qua lều đem ra đổ vào chân hàng rào, dần dần
thành một sân đất nện, cao hơn bên ngoài đến một bộ rưỡi. Chẳng bao lâu tôi đã đào xong một
cái hang, vừa dùng làm chái, vừa dùng làm hầm chứa đồ, ngay sau lều. Tôi đã phải tốn rất nhiều
tâm sức mới hoàn thành toàn bộ những công trình đó. ấy thế mà dạo ấy lại còn một số việc bất
ngờ xảy đến làm tôi lo lắng thêm nữa.
Một hôm, trong thời gian đầu, tôi đương suy nghĩ về cách dựng lều và đào hầm, một đám mây
đen và dày kéo đến rồi một cơn bão nổi lên. Bỗng nhiên, một tia chớp vụt sáng lòe và tiếp đó
một tiếng sét nổ dữ dội. Sét nổ sau chớp là lẽ tất nhiên, cho nên tôi không sợ hãi gì. Nhưng một
ý nghĩ vụt nảy ra cũng nhanh như chớp: "Không biết thuốc súng của mình ra sao rồi đây! Không
còn thuốc súng thì mình kiếm ăn thế nào được!". Tôi lo ngại quá chừng, chỉ sợ kho thuốc súng
có thể bị sét đánh nổ tung lúc nào không biết. ý nghĩ đó day dứt tôi đến nỗi vừa ngớt cơn băo,
tôi vội tạm ngừng ngay tất cả công việc dựng hàng rào và lặt vặt khác để lo cất giấu thuốc súng.
Tôi gấp rút làm những cái bao và những cái hộp để bỏ thuốc súng, chia thành nhiều gói cất ở
nhiều nơi không cho bắt lửa, lỡ khi có một gói bị cháy. Như vậy muôn một có xảy ra chuyện gì
thì tôi không bị mất tất cả thuốc súng. Tôi đã mất đến nửa tháng trời để hoàn thành công việc
đó và tôi ước tính số một trăm rưởi cân thuốc súng của mình đã chia thành chừng một trăm gói

nhỏ. Riêng cái thùng thuốc súng đã bị ướt thì không có gì đáng lo ngại nữa nên tôi đem cất vào
trong cái hang mới đào, cao hứng tôi gọi là nhà bếp. Tôi giấu những gói kia vào những hốc đá
thật khô ráo, và tất nhiên tôi hết sức chú ý để khỏi quên. Mặc dầu bận bịu như thế, không ngày
nào tôi không đi dạo bên ngoài ít nhất là một lần, hoặc để giải trí hoặc để săn bắn kiếm thịt tươi,
hoặc để biết thêm dần cảnh vật trên đảo. Mỗi lần đi ra, tôi đều đem theo con chó. Nó chạy
quanh quẩn bên tôi, sục vào bụi đuổi chim hoặc thú ra cho tôi bắn. Lúc tôi ngồi nghỉ, nó nằm im
bên cạnh, thỉnh thoảng ngước mắt nhìn tôi rất âu yếm. Có nó, tôi cảm thấy bớt được một phần
cô quạnh.
Trong buổi đi dạo đầu tiên, gặp mấy con dê đực, tôi thích thú vô cùng. Nhưng rồi thích thú ấy
cũng giảm bớt đi sau khi tôi thấy giống dê ở đây là một loại dê rừng, tinh khôn và chạy rất
nhanh, khó lòng lại gần được chúng! Tuy thế tôi cũng không nản lòng; tôi tin thể nào thỉnh
thoảng cũng bắn được một vài con. Quả nhiên về sau tôi đã bắn được chúng. Chú ý nghiên cứu
theo dõi lối đi đường về của bầy dê, tôi nhận thấy mỗi khi tôi ở trong cánh đồng cỏ mà chúng ở
trên núi thì chúng tỏ vẻ hoảng sợ, bỏ chạy trốn nhanh như biến. Nhưng khi chúng xuống gặm
cỏ trong cánh đồng mà tôi đứng trên núi thì hình như chúng lại không để ý gì đến tôi. Tôi kết
luận rằng có thể do một sự cấu tạo đặc biệt, mắt chúng luôn luôn nhìn xuống nên không thể
thấy được dễ dàng những vật đứng cao quá tầm mắt. Từ đó về sau, hễ muốn săn dê, tôi lại leo
lên núi để đứng cao hơn, và như thế thì muốn bắn bao nhiêu con cũng được. Ngay phát súng
đầu tiên, tôi hạ được một con dê cái còn nuôi con, thành ra cũng không được hài lòng. Khi dê
mẹ ngã xuống, dê con cứ đứng bên mẹ; lúc tôi vác con dê mẹ lên vai đưa đi thì con dê con cứ
theo tôi mà về tới hàng rào. Tôi đặt dê mẹ xuống, bế con dê con lên, trèo qua hàng rào, đưa nó
vào bên trong, há vọng có thể nuôi được nó. Nhưng nó không chịu ăn uống gì cả, nên buộc lòng

Trang 16/76

o


Robinson Crusoe


Daniel Defoe

tôi phải giết thịt nó vậy. Bữa đó tôi chẳng thấy ngon miệng chút nào. Cái nguồn thịt tươi ấy
cung cấp thức ăn cho tôi trong một thời gian khá lâu. Tôi ăn uống rất dè sẻn, hết sức tiết kiệm
lương thực, nhất là bánh khô, được chừng nào tốt chừng ấy. Tôi có nhà cửa hẳn hoi. Bây giờ cần
phải thu dọn một góc để chất củi đốt. Nhưng tất cả những việc đó, từ cách thức mở rộng hang,
đến những thứ thêm thắt dần vào cho cuộc sống được thoải mái và có nhiều thuận lợi hơn, sau
này tôi sẽ có dịp nói nhiều đến. Bây giờ tôi muốn nói lên những điểm thuộc về con người của
tôi, những ý nghĩ thay đổi trong đầu óc tôi trước một cuộc sống lạ lùng ít ai có thể tưởng tượng
được.
Thực tế hiện ra trước mắt tôi thật là khủng khiếp: sau một cơn bão dữ dội trên một chiếc tàu bị
trôi giạt, tôi bị ném vào hòn đảo hoang vu, cách xa những đường hàng hải hàng trăm dặm. Tôi
cảm thấy cuộc đời tôi sẽ măi mãi bị chôn vùi trong cảnh ngộ éo le bi thảm này. Nghĩ như thế,
nhiều lúc hai dòng nước mắt chảy dài xuống má than thân trách phận, buồn thay cho mình phải
đày đọa thống khổ tới nông nỗi này. Nhưng tiếp theo những ý nghĩ yếu đuối ấy, bao giờ cũng có
ngay những ý nghĩ lạc quan hơn. Một buổi đi dạo trên bãi biển, súng cắp dưới cánh tay, con chó
chậm rãi đi theo sau từng bước, tôi suy nghĩ rất nhiều về hoàn cảnh hiện tại của mình. Ngay lúc
đó, lý trí vốn biết cân nhắc điều hơn lẽ thiệt, đã nổi dậy chống lại những lời than vãn bi quan đó.
Tôi tự nhủ: " Này, mình hiện đương ở trong một hoàn cảnh bi đát, đúng thế! Nhưng những bạn
cùng tàu của mình hiện nay ở nơi nào! Chẳng phải là tất cả có mười một người trên tàu đó saoâ
Vậy thì mười người kia đâu rồiâ Cớ sao họ lại không sống sót, mà mình lại không chếtâ Vì sao
chỉ có một mình ta thoát nạnâ Đàng nào hơnâ ở đây hay là dưới đóâ (đồng thời, tôi chỉ tay
xuống biển). Liệu có nên nhìn nhận mọi sự việc cả mặt tốt lẫn mặt xấu khôngâ Chẳng lẽ những
điều may mắn đã được hưởng lại không thể an ủi ta về những điều đau lòng được saoâ" Hơn
nữa, nhìn lại, tôi thấy mình đã được thừa hưởng một tài sản khá lớn. Số phận tôi sẽ ra sao nếu
không có chiếc tàu đã mắc cạn trên giải cát ngầm giữa biển, khiến tôi có thể ra lấy tất cả tài sản
đó đem về cất trong khoâ Không có sự may mắn đó thì tôi biết làm thế nào mà tự tạo lấy những
vật dụng cần thiết cho đời sốngâ Bất giác tôi nói to lên: " Mình sẽ ra saoâ ừ, mình sẽ ra sao nếu
không có khẩu súng này, không có đạn dược để săn bắn, không có đồ dùng để làm việc, không
có quần áo để che thân, không có giường để nằm, không có lều để ởâ ". Nghĩ thế, tôi lại thấy

phấn khởi hơn. Tôi được hưởng tất cả những thứ đó, dư dật đến mức một ngày nào đó hết thuốc
đạn, khẩu súng trở thành vô ích. Khi đó, chắc chắn tôi vẫn có đủ mọi thứ để sống trong nhiều
năm. Ngay từ buổi đầu, tôi đã tính trước cách đối phó với mọi trở ngại khó khăn có thể xảy đến,
không những chỉ tới ngày thuốc đạn thiếu hẳn, mà cả đến khi sức tôi bị yếu, lực tôi bị hao.

Trang 17/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Chương 6
Đặt chân lên đảo được mười hai hôm, tôi đã lo vì thiếu giấy, bút, mực, rồi đây mình có thể quên
không tính được thời gian. Như vậy, tôi cũng sẽ không phân biệt được chủ nhật với những ngày
khác, nếu không kịp thời tìm cách bổ cứu. Để tránh những sai lầm sau này, ngay trên bờ biển,
đúng vào chỗ tôi đặt chân lên đất lần đầu tiên, tôi dựng một cây cột vuông vắn trên khắc một
dòng chữ: "tôi đặt chân lên đảo ngày 30 tháng 9 năm 1659" ở bốn mặt cái cột, mỗi ngày tôi
vạch một vạch nhỏ; cứ bảy ngày tôi lại vạch một đường dài gấp đôi, và cứ vào mồng một đầu
tháng, một đường dài gấp đôi nữa. Cứ như thế tôi bảo đảm quyển lịch đều đặn suốt thời gian
sống trên đảo vắng. Trong cái kho chứa vật dụng đem từ dưới tàu lên, còn có những thứ như
không cần thiết lắm nhưng thật ra vẫn rất được việc cho tôi, ví dụ ngòi bút, mực và giấy, mấy cái
com-pa, những dụng cụ về toán học, ống viễn kính, bản đồ và nhiều sách về hàng hải, một số
sách linh tinh, v.v... Rất nhiều thứ còn để lộn xộn, tôi chưa có thời giờ lựa ra xem cái gì dùng
được, cái gì bỏ đi. Tôi lại không thể không nhắc tới con chó trên tàu đã theo tôi về đảo ngay từ
chuyến bè thứ nhất. Nó đã sống bên tôi như một người bạn tốt và một người giúp việc tận tình;
có gì đem về được cho tôi dùng là nó cố gắng lấy về. Theo bản năng, nó đã tìm hết cách để
sống với tôi thật là thân mật. Với con vật trung thành ấy, tôi chỉ còn một ước mơ mà ai cũng biết

là không bao giờ thực hiện được, là làm cho nó biết nói. Kể ra kho vật liệu của tôi cũng đã tích
lđá khá nhiều thứ rồi đấy. Nhưng dù bao nhiêu chăng nữa, tôi vẫn còn thiếu nhiều đồ dùng trong
đó phải tính đến kim khâu, kim đính và chỉ để vá may, cái xẻng, cái cuốc, cái mai để đào và đổ
đất đi nơi khác. Do thiếu thốn đồ dùng như thế nên tôi hoàn thành chậm mọi công việc. Tôi
phải mất gần một năm trời mới làm xong hẳn cái hàng rào. Những chiếc cọc rào ấy nặng quá
thể! Tôi phải bỏ nhiều công phu mới dựng lên được. Lại còn phải mất bao nhiêu thì giờ để đẵn
từ trong rừng, đẽo gọt và nhất là đem được về tới nhà. Tính ra mỗi cái cọc cũng đã lấy đứt đi của
tôi hai ngày tròn vừa chặt vừa kéo, lại thêm một ngày nữa để chôn sâu xuống đất. Khó khăn như
vậy nhưng không lúc nào tôi nản chí. Thì giờ và tài trí sức lực không dốc vào bảo vệ cuộc sống
thì tôi còn dùng để làm gì nữa!
Ngày mồng 1 tháng 11. -Tôi bắt đầu dựng lều dưới chân đồi. Tôi cố thu xếp cho lều được rộng
răi và tôi chôn cọc để chống lều lên cho chắc chắn. Xong xuôi, tôi mắc võng vào hai cái cọc và
hôm đó tôi ngủ võng.
Ngày mồng 3. -Tôi xách súng ra dạo bên ngoài và bắn được hai con chim trông giống như vịt
giời, thịt rất ngon. Buổi chiều, tôi đóng một cái bàn. Sáng sớm mồng 4. -Tôi lại tiếp tục làm việc
theo bản chia thời gian đã vạch ra mấy hôm nay. Tôi quyết tâm giữ đúng giờ giấc hàng ngày như
làm việc, đi chơi săn bắn bên ngoài, ngủ và giải trí. Tôi sắp đặt thì giờ như sau: buổi sáng nếu
trời không mưa, tôi xách súng ra ngoài chừng vài ba tiếng đồng hồ; sau đó tôi làm việc cho tới
quãng mười một giờ rồi ăn bữa trưa rất đơn giản, có gì ăn nấy. Tôi nghỉ trưa cho tới hai giờ
chiều, bởi vì ở đây buổi trưa rất nóng, chẳng làm ăn gì được. Ngủ dậy, tôi lại làm việc cho đến
chiều.
Suốt Ngày mồng 4 và cả ngày hôm sau, tôi hì hục đóng cho được một cái bàn gỗ. Thật tình, tôi
cũng chỉ là anh thợ quèn, nhưng dần dần về sau, nhờ thời gian và nhu cầu tôi trở thành lành
nghề. Tôi nghĩ rằng bất cứ ai, khi đã lâm vào cảnh ngộ như tôi, sớm muộn cũng sẽ được hai ông

Trang 18/76

o



Robinson Crusoe

Daniel Defoe

thầy ấy đào tạo cho trở nên khéo chân khéo tay như thế.
Ngày 17. -Tôi bắt đầu đào sâu vào sườn núi sau lều để mở mang nhà cửa cho rộng rãi và thoải
mái hơn. Chắc các bạn còn nhớ tôi còn thiếu ba thứ đồ dùng để làm việc, đó là một cái cuốc,
một cái xẻng và một cái xe cút-kít, hoặc một cái thúng. Tôi đành tạm bỏ dở công việc và tìm hết
cách thay thế bằng những đồ dùng mới, tự làm lấy. Không có cuốc, tôi đã dùng một thanh sắt
làm xà beng tuy hơi nặng, nhưng được việc ra trò. Nhưng đến cái xẻng, dụng cụ cần thiết nhất
thì tôi vẫn chưa có cách gì thay thế.
Ngày hôm sau, 18 tháng 11.- Tôi vào rừng tìm được một cây gỗ, giống loại "thiết mộc" ở Bradin. Tôi đã mất nhiều công sức, chặt mẻ cả lưỡi rìu mới được một đoạn. Khúc gỗ nặng quá
chừng! Tôi lại phải một phen bở hơi tai mới đem được về đến nhà. Gỗ đã cứng như sắt, lại thêm
tay chân vụng về, dụng cụ thô sơ, cho nên tôi vất vả vô cùng. Tuy vậy, mỗi lúc một tí, tôi cũng
đẽo gọt tàm tạm thành một dụng cụ, nửa xẻng nửa mai, nhưng lưỡi thì không viền sắt cho nên
không bền được như xẻng sắt; tuy nhiên nó cũng rất được việc. Tôi vẫn còn thiếu một cái thúng
hoặc một chiếc xe cút-kít. Tôi phải bỏ cái việc đan thúng vì không tìm được một loại cây nào
dẻo như miên liễu để uốn mà đan. Tôi bèn nghĩ cách làm xe cút-kít nhưng lại gặp khó khăn là
không biết cách làm bánh và rèn trục sắt. Thế là tôi lại đành phải bỏ cái mộng làm xe. Tôi bèn
đóng một cái thùng giống như cái chậu đựng vữa của thợ nề để chuyển đất đào trong hang đem
đổ ra ngoài. Làm cái thùng này không mất nhiều công phu như cái xẻng; tuy vậy hai thứ này với
cái xe làm thử đã lấy của tôi hết bốn ngày tròn, trừ những lúc xách súng đi dạo buổi sáng kiếm
thức ăn tươi.
Ngày 23 tháng11.- Tôi tiếp tục công việc đào hang. Suốt mười tám hôm liền, ngày nào tôi cũng
cố gắng làm việc để đảm bảo đúng kế hoạch đã định. Tôi đào cái hang cho rộng và sâu thêm để
có thừa chỗ xếp đặt thứ tự và gọn gàng tất cả "gia tài".
Ngày 10 tháng12.- Tôi đương đứng nhìn lên trần và yên chí là chắc chắn rồi, thì bỗng nhiên đất
đổ ập xuống ở một góc gần đó. Tôi hết cả hồn vía vì nếu lúc ấy tôi đứng đó thì cũng đã "mồ yên
mả đẹp" rồi! Tôi lại mất rất nhiều công sức để sửa chữa lại chỗ đó. Trước tiên là phải chuyển ra
ngoài cho hết đống đất đổ; sau đó, đây là việc quan trọng hơn, lại phải lót ván và chống cái trần

cho chắc chắn để từ nay về sau khỏi xảy ra tai nạn như thế nữa.
Ngày 17 tháng12.- Từ hôm nay cho đến ngày 20, tôi lo lót ván và đóng đinh vào những cái cọc
chống để treo tất cả những thứ gì có thể treo lên được. Bắt đầu từ đó, tôi có thể tự hào rằng mọi
thứ trong nhà đều đã ngăn nắp và có trật tự.
Ngày 20 tháng12.- Tôi đem tất cả đồ đạc vào hang, thu dọn nhà cửa. Tôi lấy ván đóng một cái
bàn đặt trong bếp để xẻ và thái thịt. Dạo này, ván cũng bắt đầu hiếm rồi.
Ngày 27 tháng 12.- Tôi bắn chết con dê con và làm một con khác què chân; con chó đuổi theo
con dê què, bắt được nó và giữ lại cho tôi buộc dây dắt về nhà. Về tới nơi, tôi nắn ngay chân
cho nó và băng bó lại. Tôi chăm chút săn sóc nó rất chu đáo nên nó thoát chết; cái chân bị
thương cũng lành mạnh như ba chân kia. ở với tôi ít lâu thì nó quen dần và yên tâm gặm cỏ
trong bờ rào, không hề tìm cách trốn. Thấy thế, tôi nảy ra ý nghĩ nuôi gia súc để đảm bảo lương
ăn khi hết thuốc súng và đạn ghém.
Mồng 1 tháng 1 năm 1660.- Trời vẫn còn nồng nực lắm. Tuy vậy, cứ sáng tinh mơ hoặc quãng
chiều chiều, tôi vẫn xách súng ra ngoài. Lần này, đi sâu vào những thung lũng ở khoảng giữa

Trang 19/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

đảo, tôi đã gặp vô số dê rừng; nhưng chúng đã quá quen sống hoang nên khó lại gần lắm. Có
một lần, tôi xuỵt con chó đuổi theo, nhưng lũ dê quay đầu sừng chống cự khiến con chó đâm ra
lúng túng. Tôi không dám bắn sợ làm con chó bị thương.
Ngày mồng 3.- Tôi bắt đầu "xây lũy đá" vây quanh nhà. Lúc nào tôi cũng nơm nớp sợ bị tấn
công bất ngờ, cho nên luôn luôn bồi đắp thêm cho bờ lũy đá ngày càng dày, càng vững. Những
ngày mưa cản trở công việc của tôi nhiều. Tuy mưa không dai dẳng suốt ngày, nhưng nhiều khi

cũng kéo đến hàng tuần, hàng tháng. Bức lũy đá chưa xây đắp xong, tôi chưa thể sống yên ổn
được. Những cọc gỗ dùng vào việc này, tôi đã làm to hơn cần thiết, nên cũng khó mà tin và
cũng khó mà nói được là đã tốn bao nhiêu công sức vào mỗi việc làm, nhất là đưa chúng từ rừng
về rồi chôn sâu xuống đất. Làm xong bức lũy đá, tôi lại trồng một lớp cỏ che bên ngoài. Bây giờ
thì dầu có ai bước chân lên đảo, chắc cũng không thể nhận thấy ở đây có một cái nhà và đang
có người ở. Tôi rất sung sướng đã đạt kết quả đó và sau này tôi sẽ nói đến thêm nữa. Ngày nào
tôi cũng không quên vào rừng săn, trừ khi trời mưa phải ở lại nhà. Trong những cuộc đi dạo
thường xuyên như thế, tôi đã tìm được rất nhiều thứ bổ ích. Tôi gặp một loại bồ câu rừng không
ở trên cây như giống gầm ghì, mà lại chui vào làm tổ trong hốc đá. Tôi bắt mấy con chim non
đưa về định nuôi cho quen; nhưng vừa lớn lên, chúng đã bay đi mất, không con nào trở về
chuồng nữa. Tôi lại còn thiếu một vật rất cần thiết, đó là nến. Tôi rất khó chịu vì thiếu nến, như
thế là cứ phải đi ngủ ngay từ chập tối, thường vào quãng bảy giờ. Phương pháp độc nhất để
thoát nạn ngủ sớm là lúc nào giết thịt dê tôi dành mỡ lại. Sau đó, tôi lấy đất sét nặn một cái đĩa
nhỏ đem phơi khô, lấy một sợi dây gai làm bấc. Tôi đã có một cái đèn, mặc dầu ánh sáng chỉ
leo lét, không sáng bằng nến. Có ánh lửa ban đêm, tôi làm thêm được nhiều việc, tránh được
những lo nghĩ vẩn vơ, căn nhà thêm sáng sủa, ấm áp. Trong khi lục lọi các thứ, tình cờ tôi thấy
một cái bao gai đựng thóc cho gà vịt ăn trên tàu. Bao nhiêu lúa mì đều đã bị chuột nhằn hết, chỉ
còn độc trấu và bụi. Định dùng bao gai vào việc khác nếu tôi không nhầm, thì là để đựng thuốc
súng lúc chia nhỏ thành từng bao đề phòng sét đánh. Tôi bèn đem đổ tất cả trấu với những gì
còn lại trong đó vào chỗ chân núi, ngay bên cạnh bức lũy đá. Tôi đổ trấu và thóc lép ấy một thời
gian ngắn trước mùa mưa; rồi không để ý đến nữa, chỉ chừng một tháng sau, là tôi quên hẳn.
Nhưng vừa lúc đó, tôi lại thấy có lơ thơ vài mầm mạ mọc lên; tôi cho là những loại cỏ dại nào đó
nên cũng bỏ qua. Được ít lâu, tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy mười hai bông lúa đã vừa ướm
chín, một thứ lúa mạch rất ngon không khác giống lúa mạch ở châu âu. Tuyệt hơn nữa là lúa
cũng mọc tốt như ở nước Anh vậy. Thoạt tiên tôi kinh ngạc quá đỗi, không hiểu vì đâu lúa mì
không cần giống mà cũng mọc lên được thế này?
Đã có lúc tôi nghĩ có lẽ trời thương tôi nên bỗng dưng sinh ra lúa mì để nuôi sống tôi trên đảo
hoang. Nhưng sau nhớ lại là mình đã rũ một cái bao gai ở đấy và cái bao ấy vẫn đựng thóc cho
gà ăn thì tôi thấy ngay chẳng có phép lạ gì trong câu chuyện này cả. Tuy nhiên cũng thật là bất
ngờ mà có những bông lúa ấy. Đúng là một sự may mắn hiếm có! Tình cờ sao lại còn sót mười

hai hột lúa chắc trong cả một bao lúa đã bị chuột nhằn hết nhẵn; tình cờ sao tôi lại đem rũ bao
gai vào chỗ bóng râm dưới núi nên lúa mới có thể nảy mầm. Ví thử tôi rũ cái bao gai vào một
chỗ khác thì mấy mầm lúa kia có thể bị nắng thiêu héo khô, hoặc bị nước cuốn đi chứ còn đâu
nữa! âu cũng là một điều may mắn mà tôi không thể bỏ qua! Thôi thì còn gì hơn nữa! Chắc các
bạn cũng tưởng tượng được vào quãng cuối tháng sáu, mùa lúa chín, tôi đã "gặt" rất cẩn thận
những bông lúa đầu tiên ấy! Tôi cất kỹ từng hạt lúa và định sẽ gieo tất cả số lúa đó, há vọng rồi
đây sẽ gặt được nhiều, đủ để làm bánh nuôi thân. Phải trải qua bốn năm trời ròng rã, tôi mới
được dịp vuốt ve cái bánh mì đầu tiên. Tới lúc đó, tôi sẽ nói chuyện nhiều với các bạn hơn. Sở dĩ
kéo dài thời gian như thế là vì thiếu kinh nghiệm nên lúc đầu gieo giống bị hỏng gần hết. Ngoài

Trang 20/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

số lúa mạch, tôi còn có chừng ba chục bông lúa tẻ nữa. Tôi cũng rất cẩn thận số thóc này để
gieo như lúa mạch và cũng định dùng nó làm lương ăn. Khác với lúa mạch, gạo tẻ có thể vừa
dùng làm bánh vừa dùng làm thức ăn. Tôi đã biết cách nấu thức ăn bằng gạo hột chứ không cần
phải giã thành bột như lúa mạch. Tôi làm việc luôn tay suốt ba bốn tháng trời để xây bức lũy đá
và đắp kín nó vào hôm 14 tháng 4 sau khi đã quyết định dùng thang để ra vào qua lũy đá. Tôi
không chừa cổng, sợ từ xa người ta có thể nhận thấy chỗ ở của tôi.

Trang 21/76

o



Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Chương 7
Ngày 16 tháng 4.- Chiếc thang đã xong, tôi dùng thang trèo lên bờ lũy đá, sau đó tôi kéo thang
lên đặt vào phía trong, ở một chỗ đã định. Như thế thì không còn cách nào lọt vào, trừ phi leo
qua bờ lũy đá. Bức lũy đá vừa xong, được một hôm, thì ngày hôm sau, chỉ một tí nữa là tất cả cơ
nghiệp của tôi tiêu tan, và có thể là mạng tôi cũng không còn nữa. Sự việc xảy ra như sau: Đang
lúi húi sau lều, bỗng nhiên tôi giật nảy mình khiếp vía vì thấy đất đổ ầm ầm từ trần hang và từ
đỉnh núi chênh vênh phía trên đầu tôi. Hai cột chống trong hang nứt toác ra thật kinh khủng!
Chưa hiểu đầu đuôi ra sao, tôi nghĩ chẳng có gì lạ; có lẽ chỉ là một đám đất đá bị rơi, như đã xảy
ra một lần rồi. Nhưng sợ bị đất vùi và ở trong cũng chẳng yên ổn, tôi chạy vội lại chỗ cái thang,
trèo nhanh qua bức lũy đá rồi chạy ra thật xa để tránh những hòn đá tảng cứ như đang thi nhau
lăn từ trên núi xuống đầu tôi. Vừa đặt chân xuống phía ngoài lũy đá, tôi biết ngay là có trận
động đất kinh khủng. Ba lần tôi thấy đất chuyển động ngay dưới chân cách nhau chừng tám
phút, và cả ba lần đều chuyển ghê gớm, có thể làm cho những toà nhà vững chãi đồ sộ nhất
cũng phải đổ nhào.
Một hòn núi cách tôi chừng nửa dặm bị sạt hẳn một phía, đổ ầm ầm xuống tựa sấm vang. Biển
cả như cũng giật mình trước hiện tượng kỳ lạ này và tôi đoán rằng ở dưới đáy biển lại còn
chuyển động dữ dội hơn trên hòn đảo của tôi nữa. Đất chuyển như thế làm cho tôi choáng váng
như đi biển trên một chiếc tàu bị phong ba. Từ thuở lọt lòng, tôi chưa hề nghe, hoặc thấy những
chuyện thế này; tim tôi như ngừng đập, tất cả mọi bộ phận trong người hầu như tê liệt. Nhưng
tiếng núi đá đổ ầm ầm đã lôi tôi ra khỏi cơn mê hoảng và lại càng khiến tôi thêm kinh sợ hãi
hùng. Một hình ảnh khủng khiếp vụt hiện ra trong óc tôi: một quả núi nào đó gần chỗ tôi ở có
thể đổ nhào lên trên lều và vùi lấp dưới đống đất đá hỗn độn tất cả tài sản của tôi, và ôi thôi!
Thế là sẽ không còn gì nữa hết! Sau ba lần đất chuyển mà không thấy xảy ra chuyện gì nữa, tôi
dần dần trở lại bình tĩnh. Tuy nhiên tôi vẫn chưa dám trèo qua lũy đá mà vào nhà, sợ bị chôn
sống bất thình lình. Tôi ngồi phịch xuống đất, im lặng, buồn nản và hoang mang không biết

mình nên làm gì bây giờ.
Một hơi thở nóng khẽ phả vào sau gáy tôi. Tôi quay lại, thì ra con chó đã đứng đó từ bao giờ
không biết. Có lẽ nó phải chật vật lắm mới theo tôi đến đây được vì nó leo thang vất vả. Mỗi lần
ra vào tôi đều phải bế nó lên trên bức đá rồi nhảy xuống bên kia. Lần này vì hốt hoảng quá, tôi
bỏ quên nó, không biết nó ra bằng cách nào. Nó giương đôi mắt sợ hãi nhìn tôi để chờ sự che
chở của chủ; nhưng chính tôi trong lúc này cũng được vững dạ thêm vì có nó bên cạch. Trời đất
tối mù, mây kéo dày đặc như sắp mưa. Một lát sau, gió nổi lên mỗi lúc một to, được chừng nửa
giờ thì chuyển thành một cơn dông dữ dội. Sóng biển réo ầm ầm, dồn lên trắng xóa, vỗ dồn dập
vào bờ. Cây cối đổ ngổn ngang; trên mặt đất đang bị một cơn băo lớn tàn phá rất khủng khiếp.
Sau chừng ba giờ đồng hồ, cơn băo dịu dần; sau ba giờ nữa gió nhẹ hẳn và bắt đầu một trận
mưa vuốt mặt không kịp. Trong mưa to gió lớn, tôi vẫn hoang mang tâm trí, bủn rủn tay chân.
Tôi chợt nhớ lại rằng gió và mưa như thế là một hiện tượng tự nhiên tiếp theo cơn động đất.
Như vậy là động đất đã chấm dứt rồi, tôi có thể thử trở về nhà xem sự thể ra sao. ý nghĩ ấy giúp
tôi tỉnh táo lên và trận mưa cũng giúp tôi thêm vững dạ.
Tôi vào trong lều ngồi; nhưng chưa ấm chỗ đã lại lo ngay ngáy là mưa to như vậy có thể làm sập

Trang 22/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

lều như chơi. Thế là tôi đành phải chui vào ngồi trong hang mặc dầu cứ giật mình thon thót, chỉ
lo đất đá trên trần bất ngờ rơi ầm ầm xuống đầu. Cơn mưa như chút nước đã bắt buộc tôi phải
moi một cái cống xuyên qua bức luỹ để cho nước thoát ra ngoài khỏi tràn vào ngập cả hang.
Tạm yên thân trong nhà được một chặp và tin chắc cơn động đất đã chấm dứt hẳn rồi, tâm trí
tôi bắt đầu tỉnh táo hơn. Muốn cho tinh thần thêm hăng hái, tôi uống một hớp rượu mạnh để lấy

lại sức. Nhưng dù sao, cũng như trong nhiều trường hợp khác, tôi uống rất dè dặt vì ngoài số
rượu lấy được trên tàu, tôi chẳng còn nguồn nào cung cấp cho nữa. Trời mưa suốt đêm và cả
hôm sau; tôi không thò mặt ra khỏi nhà được nữa. Nhưng bây giờ đã tỉnh táo hơn nhiều rồi, tôi
bèn nghĩ ngay xem nên làm thế nào cho ổn. Tôi suy đi tính lại: hòn đảo có thể bị động đất vậy
thì nhất thiết tôi không nên làm nhà trong hang đá. Trái lại, tôi phải tìm cách dựng một nếp nhà
nhỏ ở một chỗ quang đãng, trống trải. ở đó tôi cũng sẽ làm một bức lũy đá để đề phòng mọi sự
tấn công. Nếu tôi cứ bám vào cái hang thì chẳng bao lâu nó sẽ trở thành mồ chôn tôi thôi! Suy
nghĩ như vậy, tôi trù tính dỡ cái lều ở chỗ cũ đi.
Trong hai ngày sau, 18 và 19 tháng 4, tôi không nghĩ gì ngoài việc tìm một chỗ tốt để dời nhà.
Nỗi lo sợ bị chôn sống vẫn luôn luôn làm cho tôi mất ăn mất ngủ; mặt khác, tôi cũng không dám
ngủ bên ngoài bức lũy đá, vì trống trải và sơ hở, nhưng mỗi khi nhìn quanh mình thấy đồ đạc
xếp đặt ngăn nắp, chỗ ở kín đáo và thoải mái, lại thêm một bức lũy đá kiên cố, đề phòng được
những cuộc tấn công từ bên ngoài, quả thật tôi cũng không muốn dời đi nơi khác tí nào.
Ngày 30 tháng 4.- Từ lâu tôi đã thấy bánh khô vơi đi nhiều. Tôi bèn kiểm lại và bắt đầu tự hạn
chế mỗi ngày chỉ ăn một miếng bánh nhỏ thôi. Quả là một nỗi đau lòng!
Ngày mồng 1 tháng 5.- Buổi sáng nhìn ra ngoài biển lúc nước triều xuống, tôi thấy một vật khá
to nằm trên bờ, nhìn hơi giống thùng rượu. Lại gần thì ra một cái thùng gỗ nhỏ cùng với vài ba
mảnh vỡ của chiếc tàu bị sóng đánh giạt vào bờ trong cơn bão vừa qua. Tôi nhìn về phía chiếc
tàu và thấy hình như nó nhô lên trên mặt nước cao hơn dạo trước. Tôi xem xét kỹ cái thùng ở
trên bờ và thấy đó là thùng thuốc súng, nhưng vì thấm nước, thuốc đã vón lại và cứng như đá.
Tuy vậy tôi cũng cứ lăn nó rất cẩn thận vào phía trong bờ để tránh nước rồi tôi lần theo bãi cát
đi ra phía tàu.
Đến tàu, tôi thấy chiếc tàu đã thay đổi vị trí rất lạ kỳ. Mũi tàu trước kia bị vùi sâu dưới cát, bây
giờ nhô cao hơn lên chừng sáu bộ. Phần sau lái kia bị bão đánh vỡ ra từng mảng và rời ra khỏi
tàu sau khi tôi đã moi hết chuyến cuối cùng thì nay bị đảo lại và nằm nghiêng hẳn, chỉ thấy một
phía. ở mặt trước, có nhiều đống cát thật cao: khi nước triều xuống, tôi có thể đi bộ ra trèo lên
trên đó mà tới tàu, không phải bơi mất nửa dặm như trước. Thoạt tiên tôi cũng ngạc nhiên về sự
thay đổi này, nhưng tôi biết ngay nguyên nhân đó là do trận động đất. Cũng vì bị ảnh hưởng
nhiều lần đất chuyển, chiếc tàu bị nứt rạn nhiều và lại vỡ ra to hơn hồi trước. Do đó, ngày nào
cũng có rất nhiều thứ trong tàu bị sóng biển lôi ra và đưa dần vào bờ, nằm lăn lóc trên bãi cát.

Bây giờ tôi tạm hoãn việc dời nhà. Công việc chính của tôi là thử tìm xem có cách nào vào được
trong tàu không. Nhưng khoang tàu đầy tràn những cát, không thể vào được. Tuy thế, kinh
nghiệm từ trước tới nay dạy cho tôi không bao giờ nên chán nản; tôi quyết định phá vỡ chiếc tàu
đắm này ra thành từng mảnh và đem về, thể nào cũng dùng được nó vào một số việc cần thiết.
Ngày mồng 3 tháng 5.- Tôi đem cưa cắt đôi một cái xà chống ở sàn tàu dưới. Sau đó, tôi gạt và
moi dần ra được khá nhiều cát ở phía trên cao. Nhưng vừa lúc nước triều lên, tôi phải tạm dừng
công việc.

Trang 23/76

o


Robinson Crusoe

Daniel Defoe

Ngày mồng 4.- Tôi đi câu và được một con cá heo nhỏ. Tôi có một cái cần câu lớn buộc một sợi
dây gai gỡ ở thừng ra nhưng lại thiếu lưỡi câu; tuy vậy cũng kiếm được khá nhiều cá, thừa ăn
thừa để. Tất cả kỹ thuật chế biến chỉ là đem phơi khô để cất ăn dần. Mỗi lần tôi đi câu, con chó
đều lon ton chạy theo. Từ sau hôm động đất, tôi khoét rộng thêm cái cống ở chân lũy đá cũng là
để cho nó chui ra chui vào cho tiện. Thấy tôi sửa soạn đi câu, nó chui ra trước, đứng dưới chân
thang chờ, cái đuôi ve vẩy ra chiều mừng rỡ. Có gì đâu! Mỗi bận như thế, chú ta đều được một
bữa no nê những ruột và đầu cá. Nó cũng rất khôn, không bao giờ đụng đến cá phơi; hơn nữa
nó lại còn canh giữ cá rất cẩn thận, không cho bọn mèo rừng hoặc quạ bén mảng đến.
Ngày mồng 5.- Tôi lại ra làm việc ở chiếc tàu vỡ. Tôi cưa một cây cột nữa rồi tháo ở boong tàu
ra ba tấm ván gỗ thông lớn đem ghép lại thả xuống nước cho trôi theo thủy triều vào bờ.
Những ngày 10, 11, 12, 13, 14 tháng 5.- Hôm nào tôi cũng ra làm việc ở chiếc tàu vỡ. Tôi tháo
ở đó ra được nhiều cột kèo, vô số ván và chừng vài ba trăm cân đồ sắt.
Ngày 15 tháng 5.- Tôi đem theo hai chiếc búa thử xem có thể chặt được một tảng chì cuốn

chăng! Tôi đặt lưỡi một chiếc búa lên tảng chì rồi lấy chiếc kia giọt xuống. Nhưng tảng chì ngập
sâu dưới nước đến một bộ rưỡi, tôi đành phí công. Tôi tiếp tục công việc đến rằm tháng 6.
Hàng ngày tôi vẫn dành thì giờ đi kiếm thức ăn đều đặn vào lúc thủy triều lên để khi thủy triều
xuống thì ra chiếc tàu. Cứ như thế, tôi đã khuân về được cơ man là ván nhỏ, ván lớn và đồ sắt,
kể cũng đủ để đóng một chiếc tàu nếu tôi biết cách đóng một chiếc như thế. Tôi lại còn cắt được
một thỏi chì cuốn ra từng khúc mà lấy về được đến non một trăm cân. Ngày 16 tháng 6.- Trong
khi ra bờ biển, tôi gặp một con rùa; đó là con rùa thứ nhất tôi thấy từ khi bước chân lên đảo.
Tuy nhiên, không phải ở đây hiếm rùa. Sau này tôi biết phía bên kia hòn đảo nhiều rùa không
kể xiết, tha hồ mà bắt.
Ngày 17 tháng 6.- Suốt ngày hôm nay, tôi làm thịt rùa và nấu nướng. Tôi moi trong bụng nó ra
được một buồng trứng lớn. Từ khi lạc lên đảo hoang đến giờ, tôi chỉ ăn có độc vị thịt chim và thịt
dê, thành ra thịt rùa đối với tôi quả là lạ miệng và thơm ngon tuyệt trần. Con chó cũng được chia
một phần thịt rùa; có lẽ nó cũng thấy lạ miệng và hoan nghênh không kém. Nó ngốn sạch trơn
cả xương xẩu và từ đó trở đi, nó giúp tôi tìm bắt rùa rất đắc lực.
Ngày 18 tháng 6.- Trời mưa tầm tã suốt ngày, tôi phải bó chân ngồi nhà. Mưa có vẻ lạnh lẽo và
tôi thấy ớn rét: đó là một triệu chứng bất thường ở miền nhiệt đới này.
Ngày 19.- Tôi thấy trong người mệt mỏi lắm và tôi run lên như khi trời mùa đông lạnh.
Ngày 20.- Suốt đêm tôi không chợp mắt được tí nào, lại bị một cơn sốt và đầu đau nhức như búa
bổ.
Ngày 21.- Tôi mệt quá sức. Tôi vô cùng lo sợ khi nghĩ tới cảnh khổ nhất định không tránh được:
bị ốm và không thể trông mong sự giúp đỡ của một ai. Trong cơn khủng hoảng đó, tôi làm một
việc mà tôi chưa hề làm kể từ ngày gặp cơn phong ba ngày xưa, đó là cầu nguyện Thượng đế.
Nhưng đó chỉ là những lời cầu nguyện khô khan vô nghĩa đến nỗi tôi cũng chẳng hiểu tôi đã nói
gì và tại sao tôi lại nói như thế. Quả thật lúc ấy tôi như mê man, lòng dạ cứ như một mớ bòng
bong.
Ngày 22 tháng 6.- Tôi thấy bệnh đã bớt; nhưng nỗi lo âu về bệnh hoạn vẫn làm cho tâm trí tôi

Trang 24/76

o



Robinson Crusoe

Daniel Defoe

bối rối vô chừng.
Ngày 23.- Tôi lại mệt mỏi quá chừng; ớn rét, run cầm cập và nhức đầu không thể tả.
Ngày 24.- Tôi đỡ nhiều. Ngày 25.- Bệnh sốt rét lại vật tôi một cơn chí tử và kéo dài luôn bảy
tiếng đồng hồ. Đầu hết lạnh lại nóng; cuối cùng, mồ hôi vã ra như tắm và người lả hẳn đi. Ngày
26.- Tôi thấy đỡ hơn. Nhớ ra thức ăn đã hết, tôi gượng xách súng ra ngoài để đi săn. Tôi thấy
mình yếu quá chừng. Tuy thế tôi cũng bắn được một con dê nhưng lôi về khó khăn quá! Tôi quạt
than nướng vài miếng ăn cho qua bữa; nếu đem hầm lên mà húp nước súp thì hơn, nhưng nồi
niêu chẳng có nên đành chịu.
Ngày 27.- Cơn sốt lại vật tôi dữ dội. Tôi phải nằm bẹp trên giường suốt cả ngày không ăn uống
gì cả. Tôi khát khô họng nhưng sức yếu quá không thể đứng dậy đi lấy nước uống được. Tôi mê
man bất tỉnh, tôi lâm râm cầu Trời khấn Thánh. Dần dần tôi tỉnh cơn mê nhưng trong người vẫn
còn yếu, tôi cứ phải nằm, và thỉnh thoảng lại rền rĩ: " Trời ơi, cứu tôi với!". Tôi nhớ mường
tượng đã nằm và kêu rên như thế khoảng vài ba tiếng đồng hồ cho tới lúc "dứt cơn " rồi tôi ngủ
luôn mãi tới khuya mơi dậy. Vừa mở mắt ra, tôi thấy trong người đã dễ chịu mặc dầu đang rất
yếu và khát nước xé họng. Nhưng làm thế nào bây giờ? Tôi vẫn phải nằm trên giường cho tới
sáng.
Chẳng còn một giọt nước nào trong nhà, thế là tôi đành nằm thao thức mà chịu khát. Không lúc
nào tôi thiết tha mong có một người bạn bên cạnh bằng lúc này. Tôi cảm thấy nỗi cô đơn của tôi
đã đến cực độ. Con chó thân yêu và có nghĩa thật đấy, nhưng chẳng giúp gì được cho tôi. Từ khi
tôi bị ốm, suốt ngày đêm nó cứ quanh quẩn bên giường không rời tôi nửa bước. Con vật có vẻ
hiểu thấu tâm trạng tôi và cũng hiểu cả sự bất lực của nó, tôi ốm, nó không kiếm giùm được thức
ăn; tôi khát, nó không lấy giùm được nước uống. Những lúc cơn sốt rét lên, tôi ôm lấy nó cho
thêm ấm người và ấm lòng; trong cảnh ngộ éo le này, nó vẫn là chỗ dựa rất quí của tôi về tình
cảm.

Ngày 28 tháng 6.- Trong mình đã khoan khoái đôi chút sau một giấc ngủ yên lành; cơn sốt cũng
đã dứt hẳn rồi, tôi bèn đứng dậy. Tôi biết mình chưa khỏi hẳn và cơn sốt rét có thể trở lại ngày
hôm sau. Tôi cần phải lợi dụng lúc này để lấy lại sức khỏe phần nào và chuẩn bị nước uống ngay
bên cạnh mình khi cơn sốt trở lại. Trước tiên, tôi lấy đầy một chai nước đem để trên bàn, cạnh
giường nằm. Để cho nước đỡ nhạt tôi pha thêm một phần chai rượu mạnh. Tôi cắt một miếng
thịt dê đem nướng lên, nhưng chẳng ăn được mấy tí. Tôi muốn ra ngoài đi dạo một chút nhưng
quá yếu. Tôi thấy buồn và lòng se lại khi nghĩ đến tình cảnh khốn đốn của mình, lo sợ ngày mai
cơn sốt rét lại trở lại. Buổi chiều, tôi nướng ba cái trứng rùa và ăn theo kiểu lòng đào để lấy lại
chút sức. ăn xong, tôi gắng đi dạo một chút nhưng sao mà trong người mệt đến thế! Tôi mệt
đến nỗi không mang nổi khẩu súng nữa. Vì vậy tôi không đi xa. Tôi ngồi phệt xuống đất và nhìn
ra mặt biển lúc đó bằng phẳng và yên lặng. Tôi ngồi như thế, suy nghĩ một lúc lâu. Rồi tôi đứng
dậy, tư lự và buồn rầu, chậm rãi trở về, trèo qua bức lũy đá vào nhà và định đi nằm. Nhưng tâm
trí hoang mang đến cực độ nên tôi rất khó ngủ; tôi đành phải ra ngồi trên ghế. Trời đã tối, tôi
thắp đèn lên. Cơn sốt bắt đầu đe dọa làm cho tôi lo lắng lạ thường. Trong cơn lo lắng, tôi chợt
nghĩ ra rằng người Bra-din lúc bị bệnh sốt rét hầu như chẳng dùng thuốc gì ngoài thuốc lá hút.
Tôi lại nhớ đương còn một cuộn thuốc lá cất trong một cái hòm nào đó, nhiều lá đã vàng và một
số đương xanh. Tôi bèn đứng ngay dậy khỏi ghế và, như có linh tính, tôi đi thẳng lại đúng cái
hòm đựng vị thuốc cứu tinh. Tôi mở hòm ra và thấy ngay cuộn thuốc lá quý báu đó.

Trang 25/76

o


×