Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Pháp luật về hôn nhân và gia đình trogn Bộ luật Hồng Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.38 KB, 23 trang )

Mục lục
 Lời mở đầu…………………………………………………….T.2
 I. Nội dung cơ bản những mối quan hệ Pháp luật Hôn nhân






và gia đình điều chỉnh…………………………………………T.5
II. Những nội dung của pháp luật Hôn nhân và gia đình thể hiện
sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng Nho giáo với truyền thống
dân tộc Việt……………………………………………………T9
III. Những điểm tiến bộ………………………………………..T.21
IV. Hạn chế…………………………………………………….T.23
V. Kết luận……………………………………………………..T.23

1


Lời mở đầu
Trong 360 năm dài tồn tại, triều đại nhà Lê đã để lại cho hậu thế những thành tựu
to lớn trên lĩnh vực pháp luật và điển chế. Trong số các thành tựu đó phải kể đến Quốc
triều Hình luật (hay còn gọi là Luật Hồng Đức), một Bộ luật quan trọng nhất và chính
thống nhất của Triều Lê. Quốc triều Hình luật cũng chính là Bộ luật cổ xưa nhất mà
chúng ta còn lưu giữ được đầy đủ cho đến ngày nay. Bộ Quốc Triều hình luật gồm 722
điều, chia làm 6 quyển.
Đây là một bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều ngành luật: Hình sự, dân sự, hôn nhân và
gia đình, hành chính, quân sự. Tất cả đều được trình bày dưới dạng những quy phạm
pháp luật hình sự và đều áp dụng chế tài hình sự. Luật pháp thời này nghiêm cấm đến
mức “của rơi ngoài đường không ai nhặt, nhà nhà đêm ngủ mở cửa không phải lo


trộm cướp”. Đây là Bộ luật chịu ảnh hưởng sâu sâu sắc nhất của Nho giáo, là Bộ luật
ra đời trong thời điểm Nho giáo có mức độ, điều kiện và phạm vi ảnh hưởng rộng rãi,
luôn chứa đựng những giá trị tích cực và hạn chế. Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của
triết lý Nho giáo –Hệ tư tưởng thống trị trong xã hội thời Lê cũng như ảnh hưởng của
các Bộ luật Trung Quốc ( Luật nhà Đường, luật nhà Minh) nhưng nhà làm luật thời Lê
đã biết tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo pháp luật Trung Quốc đồng thời kết hợp với các
phong tục, tập quán đặc thù của xã hội Việt Nam, hòa nhập cùng với hệ thống pháp
luật, tạo nên nét riêng biệt độc đáo của bộ luật. Quốc triều hình luật là một thành tựu
có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Nó không chỉ là đỉnh cao so với
những thành tựu pháp luật của các triều đại trước đó, mà còn đối với cả bộ luật được
biên soạn vào đầu thế kỷ XIX.
Trong đó Luật hôn nhân và gia đình là một nghành luật quan trọng nhất trong Bộ
luật Hồng Đức nói riêng cũng như pháp luật phong kiến nói chung. Khổng Tử đã đưa
ra một nhận định nổi tiếng khi luận bàn về vai trò của pháp luật trong mối liên hệ với
đạo đức, ông cho rằng: “ luật pháp chỉ là công cụ dẫn dắt bằng chính, chấn chỉnh
bằng hình, dân chịu mà vô sỉ. Dẫn dắt bằng đức, chấn chỉnh bằng lễ, biết sỉ lại tiêu
chuẩn, dân mới biết tự trọng và vào nề nếp… Pháp luật chỉ khiến người ta sợ mà
không dám làm điều ác, còn dùng đức trị thì người ta xúc động tận trong lòng và tự
nguyện thực hiện, không phải vì sợ pháp luật mà là vì sợ xấu hổ trước người khác, sợ
lương tâm cắn rứt đến chết dần, chết mòn”. Ở Việt Nam và một số nước Á Đông, trong
luân lý và đạo đức truyền thống đều hướng tới việc xây dựng gia đình bền vững, lâu
dài, một trách nhiệm, một luân lý và đạo đức mà tình cảm cá nhân phải phụ thuộc vào
đó. “Con người vừa mới sinh ra đã phải là người con có hiếu và thuận hoà - cả cuộc

2


đời đều hiến thân cho gia đình, lấy công việc xây dựng gia đình làm hạnh phúc cho
chính bản thân mình. Hạnh phúc và danh dự cá nhân được gắn chặt với hạnh phúc và
danh dự gia đình.”. Triều Lê đặc biệt chú trọng đến vấn đề gia đình, coi gia đình là cơ

sở quan trọng bậc nhất để tạo lập kỉ cương và ổn định xã hội.
Vấn đề hôn nhân gia đình trong Quốc Triều Hình Luật là nhằm bảo vệ chế độ tông
pháp của Nho giáo. Những chuẩn mực đạo đức ấy được tập trung vào các mối quan
hệ cơ bản (Tam cương)[1]với năm đức chủ yếu (Ngũ thường)[2]. Quốc Triều Hình Luật
điều chỉnh những quan hệ cơ bản về kết hôn, ly hôn, quan hệ nhân thân và quan hệ tài
sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái nhằm bảo vệ chế độ tông pháp và cũng
là bảo vệ thuần phong mĩ tục của dân tộc.

 Chú thích:
[1]Tam cương: "Cương" có nghĩa là “giềng mối” (Cương là đầu mối của cái lưới, hễ
nắm được cương thì các mắt lưới đều phải giương lên).
Tam cương là: quân thần cương, phụ tử cương, phu thê cương; nói gọn là quân – thần,
phụ – tử , phu – thê. Theo Tam tự kinh thì mối quan hệ vua tôi cốt ở cái nghĩa; mối
quan hệ cha con cốt ở cái tình; mối quan hệ vợ chồng cốt ở sự đồng thuận.
Tuy nhiên, trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra
trên những nguyên tắc “chết người”: quân xử thần tử, thần bất tử bất trung (vua khiến
bầy tôi chết, không chết không trung); phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu (cha khiến
con chết, con không chết không hiếu). Còn mối quan hệ vợ chồng thì "phu xướng phụ
tùy" (chồng nói ra, vợ phải theo), con gái phải học tam tòng (tại gia tòng phụ ở nhà
theo cha, xuất giá tòng phu lấy chồng theo chồng, phu tử tòng tử chồng chết theo con
(trai), và tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh)…
Nói tóm lại, tam cương là ba giềng mối, ba quan hệ trọng yếu trong xã hội. Đó là mối
quan hệ vua – tôi, cha – con, và vợ – chồng (quân thần, phụ tử, phu thê).
[2] Ngũ thường: Ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có
trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
1. Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
2. Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
3. Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
4. Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
5. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.


3


I.

PHÁP LUẬT VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Pháp luật hôn nhân và gia đình trong thời kỳ này về cơ bản đã điều chỉnh những
quan hệ cơ bản, phổ biến trong đời sống hôn nhân và gia đình. Từ đó, góp phần duy trì
sự ổn định và bảo vệ trật tự gia đình phong kiến Việt Nam. Pháp luật về hôn nhân và
gia đình bao gồm: pháp luật về quan hệ hôn nhân giữa vợ, chồng; và pháp luật về gia
đình điều chỉnh mối quan hệ giữa các nhóm thành viên trong gia đình, như: vợ - chồng,
cha mẹ - con cái; ông bà – cháu; giữa anh chị em...

1. Pháp luật về quan hệ hôn nhân:
Trong lĩnh vực hôn nhân, bộ luật đã điều chỉnh các quan hệ như kết hôn, chấm dứt
hôn nhân (do chết hoặc ly hôn).
1.1, Các nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hôn nhân.
Các nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hôn nhân của bộ luật là: Hôn nhân không tự
do, đa thê và xác lập chế độ gia đình gia trưởng.

- Nguyên tắc hôn nhân không tự do: Hôn nhân hầu hết xuất phát từ quyền lợi của

-

gia đình và dòng họ với mục đích duy trì sự giao kết giữa các dòng họ; thờ
phụng tổ tiên và kế truyền dòng dõi tông tộc. Nội dung của nguyên tắc này là
vấn đề hôn nhân được đặt dưới sự xem xét của người gia trưởng, loại trừ sự tự
do cá nhân của 2 bên tham gia hôn nhân.

Nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ và chồng: Các quy định trong bộ Quốc triều
hình luật đề cao uy quyền tuyệt đối của người chồng và thừa nhận vị trí lệ thuộc
của người vợ.

- Đề cao quyền của cha mẹ, chồng, vợ cả: Khuôn mẫu lí tưởng của trật tự gia
đình là sự phục tùng tuyệt đối của người dưới với người trên.
1.2, Kết hôn:
a, Các điều kiện kết hôn.
Một là, phải có sự đồng ý của 2 bên cha mẹ hoặc người thân thuộc bề trên khác
( trưởng họ) trong trường hợp cha mẹ đã chết theo tinh thần của Điều 314.

4


Hai là, độ tuổi kết hôn: theo Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức năm thứ 28 quy định: “
Con trai từ 18 tuổi trở lên và con gái từ 16 tuổi trở lên mới được kết hôn.” Tuy nhiên
trong Bộ Quốc triều hình luật lại không quy định về độ tuổi kết hôn.
Ba là, không vi phạm vào những trường hợp cấm kết hôn: : không được kết hôn giữa
những người trong họ hàng thân thích( Điều 319); cấm kết hôn khi đang có tang cha,
mẹ hay chồng( Điều 317); cấm kết hôn khi ông, bà hay cha mẹ đang bị giam cầm, tù
tội( Điều 318); cấm anh (em) lấy vợ góa của em (anh),trò lấy vợ góa của thầy( Điều
324), với một số quy đinh khác trong các điều 316, 323 , 334, 338, 339.
b, Hình thức và thủ tục kết hôn
Hình thức và thủ tục kết hôn có hai giai đoạn là đính hôn và thành hôn (các điều 314,
315, 322):

- Hình thức kết hôn:
+Các quy định trong Bộ Luật Hồng Đức cho thấy cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý từ
sau lễ đính hôn.Ví dụ : Điều 315 quy định: Gả con gái đã nhận đồ sính lễ mà lại thôi
không gả nữa thì phải phạt 80 trượng...Còn người con gái phải gả cho người hỏi trước.

Tuy nhiên, nếu trong thời gian từ lễ đính hôn cho đến khi thành hôn mà một trong hai
bên bị ác tật hay phạm tội thì bên kia có quyền từ hôn. Cuộc hôn nhân có giá trị thực tế
sau lễ thành hôn.

- Thủ tục kết hôn:
• Trình tự thủ tục kết hôn gồm 4 bước:
+ B1: Lễ nghị hôn (Lễ dạm hỏi)
+ B2: Lễ định thân ( Lễ vấn danh, ra mắt).
+ B3: Lễ nạp chưng ( lễ dẫn đồ cưới).
+B4: Lễ thành hôn (lễ thân nghinh, lễ đón dâu…).
c, Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng sau khi kết hôn
Phần chế định hôn nhân trong Quốc triều hình luật không có một điều khoản cụ thể
nào quy định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng nhưng qua các điều 374,375,376 và
một số điều luật khác ta có thể thấy Bộ luật thừa nhận 3 loại tài sản ruộng đất của vợ
chồng cùng song song tồn tại:

- Tài sản ruộng đất của vợ
5


- Tài sản ruộng đất của chồng
- Tài sản ruộng đất của vợ chồng cùng tạo nên trong thời kì hôn nhân
Đồng thời với việc quy định về quyền sở hữu ruộng đất như trên, Bộ Quốc triều hình
luật còn quy định quyền thừa kế tài sản ruộng đất giữa vợ và chồng. Khi người vợ hoặc
người chồng chết, người còn sống vẫn được giữ nguyên quyền sở hữu cá nhân đối với
tài sản ruộng đất của riêng mình. Còn tài sản ruộng đất của hai vợ chồng cùng làm nên
trong thời kì hôn nhân được chia làm hai phần bằng nhau, vợ và chồng mỗi người một
phần. Phần của người chết được chia cho những người thừa kế cùng với tài sản ruộng
đất riêng của người chết. Vấn đề tài sản giữa vợ và chồng sau khi ly hôn không được
luật quy định một cách rõ ràng.

1.3, Chấm dứt hôn nhân
Bộ Luật Hồng Đức quy định các trường hợp chấm dứt hôn nhân là: một trong hai
người đã chết, ly hôn.
a, Chấm dứt hôn nhân do vợ hoặc chồng chết trước

- Hậu quả pháp lí:
+ Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng chấm dứt. Một lưu ý là quan hệ hôn nhân
chỉ thực sự chấm dứt ngay nếu người chết là vợ, còn nếu là chồng chết thì nó chỉ chấm
dứt sau khi mãn tang. Quy định này được đặt ra một cách gián tiếp trong các điều 2 và
320. Đây là quy định nhằm đề cao “tiết hạnh” của người phụ nữ, phù hợp với đạo đức
phong kiến và tư tưởng Nho giáo.
+ Quan hệ tài sản: Giải quyết theo tinh thần nhân ái, có tính đến quyền lợi của cá
nhân, đặc biệt là người góa phụ. Tài sản chủ yếu là điền sản.
b, Ly hôn

- Về trường hợp ly hôn, có 3 nhóm sau:
+ Nhóm buộc phải ly hôn do đã vi phạm các quy định cấm kết hôn (Điều
317,318,32,324,334).
+ Nhóm ly hôn do lỗi của người vợ ( Điều 310): quy định người chồng phải ly
hôn khi người vợ phạm phải điều nghĩa tuyệt (đoạn tuyệt hết ân nghĩa vợ chồng)
như: không con, ghen tuông, ác tật (mắc các bệnh như phong, hủi), dâm đãng,
không kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp. Theo tinh thần của điều luật này, người
chồng buộc phải bỏ vợ dù vợ, chồng có muốn hay không. Như vậ với điều luậy này
cũng như ché tài thất xuất, các nhà làm luật nhằm đặt quyền lợi, danh dự của đại
gia đình lên trên hết, trên quan hệ hôn nhân.

6


+ Nhóm ly hôn do lỗi của người chồng:

Điều 308 quy định: "Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ được trình
với quan sở tại và xã quan làm chứng) thì mất vợ". Quy định như vậy quyền lợi của
người phụ nữ đã được bảo đảm và quan trọng hơn nó cũng trở thành cơ sở để người
chồng phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với vợ, với gia đình. Đây là quy định
nổi bật phản ánh tính sáng tạo của nhà làm luật nhằm duy trì trật tự ổn định trong gia
đình.Các điều 308/333 quy định người vợ có quyền trình quan xin ly hôn khi: chồng
đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại( có quan xã làm chứng), trừ khi chồng có việc phải
đi xa hay nếu con rể lấy điều thị phi mắng nhiếc cha mẹ vợ.

- Cưỡng chế ly hôn:Buộc phải ly hôn ( các điều 317,318,323,324,334) do hôn nhân

-

đã vi phạm các quy định cấm kết hôn.Điều 310 quy định người chồng phải ly hôn
khi người vợ phạm phải điều nghĩa tuyệt như: không con, ghen tuông, ác tật, dâm
đãng, không kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp.
Một số trường hợp không được phép ly hôn: Sẽ không thể ly hôn nếu như khi phạm
vào điều thất xuất mà người vợ, chồng đang ở trong 3 trường hợp: vợ đã để tang nhà
chồng 3 năm; khi lấy nhau nghèo mà sau này giàu có; khi lấy nhau có bà con mà khi
bỏ lại không có bà con để trở về.Đồng thời khi hai bên vợ chồng đang có tang cha
mẹ thì vấn đề ly hôn không được đặt ra.

c, Thủ tục ly hôn

- Hai bên vợ chồng tự viết ( hoặc nhờ người khác viết) giấy ly hôn; hai bên cùng
kí; viết chữ giáp lai; mỗi người giữ một bản; chia tay (không cần sự cho phép
của nhà chức trách).
d, Hậu quả pháp lí:

- Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng chấm dứt

- Con cái và tài sản sau khi li hôn không được quy định cụ thể
2.Pháp luật về quan hệ gia đình:
Trong lĩnh vực quan hệ gia đình, bộ luật đã điều chỉnh các quan hệ như quan hệ
nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các quan hệ thân thuộc khác
(vợ cả-vợ lẽ, anh-chị-em, cha mẹ-con nuôi, vai trò của người tôn trưởng tức trưởng
họ).

- Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng:
7


Phong tục tập quán và lễ nghĩa Nho giáo đã điều chỉnh quan hệ vợ-chồng, tuy nhiên
luật Hồng Đức cũng có các quy định nhằm điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ nhân thân
như: Nghĩa vụ phải chung sống tại một nơi và phải có trách nhiệm với nhau (các điều
321 và 308, 309), không được ngược đãi vợ (điều 482), nghĩa vụ chung thủy (điều
401, 405), nghĩa vụ để tang nhau (các điều 2, 7).
+ Quyền và nghĩa vụ đồng của vợ chồng phải có trách nhiệm cùng chung sống với
nhau, chăm sóc lẫn nhau. Người chồng có quyền có nhiều vợ nhưng không được ruồng
bỏ vợ con. Người vợ vô cớ bỏ nhà đi, không chăm sóc chồng con sẽ bị xử hình phạt đồ
( Điều 321 BLHD).
+ Nghĩa vụ phục vụ nhà chồng: Nghĩa vụ tòng phu không chỉ là sống chung với chồng
mà buộc người phụ nữ phải phục tùng gia đình chồng. Đối với người vợ cả thì phải rõ
vai trò quan trọng của mình trong việc thờ tự, phụng sự chồng, và là người vợ mẫu
mực để các thê thiếp của chồng noi theo.
+ Nghĩa vụ thủy chung: Nghĩa vụ này trước hết đặt ra đối với người vợ ( Điều 401).
Mặc dù chế độ hôn nhân đa thê nhưng pháp luật cũng quy định về nghĩa vụ thủy chung
với người chồng ( Điều 401, Điều 405).
+ Nghĩa vụ để tang: Nghĩa vụ tang chế được đặt ra khi người chồng chết.

- Quan hệ thân nhân giữa cha mẹ và con cái:

Đề cập tới các nghĩa vụ và quyền nhân thân của con cái, bao gồm: Nghĩa vụ phải
vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà (khoản 7 điều 2), nghĩa vụ chịu tội roi,
trượng thay cho ông bà, cha mẹ (điều 38), nghĩa vụ không được kiện cáo ông bà-cha
mẹ (điều 511), nghĩa vụ che giấu tội cho ông bà, cha mẹ (các điều 9, 504), ngoại trừ
trường hợp cha mẹ hay ông bà phạm các tội mưu phản, mưu đại nghịch, cha mẹ nuôi
giết con đẻ hay mẹ đẻ-mẹ kế giết cha thì được phép tố cáo và nghĩa vụ để tang ông bàcha mẹ (điều 2).
+ Con cái có trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ: Con cái có nghĩa vụ vâng lời ông bà,
cha mẹ, phụng dưỡng ông bà cha mẹ, không được kiện ông bà cha mẹ nếu không sẽ bị
xét vào tội thập ác tội “Đồ” hoặc tội “Lưu”. Nếu đánh ông bà thì bị tội “ Giảo”. Điều
504 quy định: Con cháu tố cáo ông bà, cha mẹ, nô tỳ tố cáo chủ có tội lỗi gì đều bị xử
tội lưu đi châu xa, vợ tố cáo chồng cũng bị tội trên. Tố cáo ông bà ngoại, cha mẹ và
ông bà cha mẹ về bậc tôn trưởng và hàng cơ thân của chồng, cùng là nô tỳ tố cáo bậc
tôn trưởng và hàng cơ thân của chủ, dẫu việc có thật cũng phải tội biếm hay tội đồ. Có

8


nghĩa vụ để tang ông bà, cha mẹ (Điều 543,130) đang có tang mà tự ý cưới xin, vui
chơi, không mặc đồ tang lễ thì bị xử theo tội bất lễ trong tội “Thập ác”, chịu thay cha
mẹ hình phạt roi hay trượng ( Điều 38). Con có các quyền được giảm hình phạt theo
quan phẩm của cha mẹ (Điều 12).
+ Cha mẹ có quyền nuôi dưỡng, giáo dục, đại diện cho các con, quyết định nơi ở cho
các con, đồng thời cha mẹ cũng có nghĩa vụ đại diện cho các con trong việc bồi thường
thiệt hại do hành vi phạm pháp của con mình gây ra; chịu trách nhiệm hình sự về hành
vi phạm pháp của các con ( Điều 506, 507).
+ Ngoài ra con cái còn có các nghĩa vụ khác nữa như tế tự, cư tang, thờ cúng cha mẹ.

- Quan hệ nhân thân khác:
Đề cập tới quan hệ giữa vợ cả-vợ lẽ (các điều 309, 481, 483, 484) và nhà chồng,
anh-chị-em (các điều 487, 512), nuôi con nuôi (các điều 380, 381, 506) và vai trò của

người trưởng họ (điều 35).
+ Trong quan hệ vợ cả-vợ lẽ: thì ngoài các quy định về các nghĩa vụ của họ với chồng
và nhà chồng thì họ cũng phải tuân thủ trật tự thê thiếp và vợ cả nói chung được ưu
tiên hơn.
+ Về quan hệ anh-chị-em: thì người anh trưởng có quyền và nghĩa vụ đối với các em,
nhất là khi cha mẹ đã chết, đồng thời cũng bảo vệ sự hòa thuận trong gia đình (phạt
nặng nếu đánh lộn, kiện cáo nhau).
+ Việc nhận nuôi con nuôi phải được lập thành văn bản và phải đối xử như con đẻ
cũng như ngược lại, con nuôi phải có nghĩa vụ như con đẻ đối với cha mẹ nuôi.

II.

SỰ KẾT HỢP HÀI HÒA GIỮA TƯ TƯỞNG NHO GIÁO VỚI TRUYỀN
THỐNG, TẬP QUÁN DÂN TỘC VIỆT TRONG PHÁP LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.

1. Tư tưởng Nho giáo là gì?
Nho giáo, còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết học xã
hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ
của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị. Trong lịch sử Trung
Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo
Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là
nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường,
đạo lý…Nhìn chung "Nho" là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa

9


Nho giáo cho rằng hôn nhân là một loại quan hệ đặc biệt không xuất phát từ quyền
lợi của hai bên nam nữ mà chính là vì quyền lợi của hai bên gia đình, dòng họ. Hôn

nhân thể hiện sự giao hiếu của hai dòng họ và để kế thừa truyền thống dòng dõi tông
tộc. Con cái trong gia đình đều đặt dưới sự quản lý và lệ thuộc vào người gia trưởng,
mọi việc trọng đại của các thành viên trong gia đình đều do người cha quyết định.

2. Tập quán truyền thống là gì?
- “Tập quán là những quy tắc xử sự được hình thành một cách tự phát lâu ngày thành
thói quen trong đời sống xã hội hoặc giao lưu quốc tế, đang tồn tại và được các chủ thể
thừa nhận như là quy tắc xử sự chung”. Như vậy, phong tục tập quán chính là những
quy tắc xử sự, thói quen sinh hoạt được hình thành từ lâu đời, đang tồn tại và được
thừa nhận.
- Người Việt là một trong những tộc người có quan niệm và tục lệ hôn nhân vào loại đa
dạng nhất. Sự đa dạng đó được quy định bởi bản sắc văn hóa tộc người, thêm vào đó là
sự ảnh hưởng của lễ giáo phong kiến và tư tưởng Nho giáo của Trung Quốc. Vì vậy
luật nó đã quy định Hôn nhân là do 2 bên cha mẹ và họ hàng quyết định. Hầu hết ở các
vùng nông thôn và cả trong đô thị, việc hôn nhân theo phong tục đều phải qua một cầu
trung gian là người mối lái. Nhà trai muốn chọn vợ cho con thì xem “ chỗ nào môn
đăng hộ đối, tuổi không xung khắc với nhau mới mượn người mối lái. Mối lái nói với
cha mẹ người con gái bằng lòng gả rồi nhà trai mới đem trầu đến dạm ”. Môn đăng hộ đối là tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với tầng lớp trên của xã hội phong kiến mà
cũng thường là tiêu chuẩn chung của xã hội Việt Nam.

3. Sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng Nho giáo với truyền thống tập quán dân
tộc Việt trong pháp luật hôn nhân và gia đình.
Quốc Triều Hình Luật thể hiện “tính phản ánh” sâu sắc và tinh tế mà tiêu biểu là ở
sự kết hợp chặt chẽ giữa Nho giáo và phong tục tập quán, giữa luật và tục lệ.
Sở dĩ Bộ Luật Hồng Đức có được sức sống lâu dài, được nhiều nhà nghiên cứu
đánh giá cao vì bộ luật này mang tính phản ánh rất sâu sắc. Bộ Luật Hồng Đức đã thể
hiện được đặc trưng văn hoá của dân tộc, nhiều qui định trong Bộ luật thể hiện tính
sáng tạo cao của nhà làm luật. Mặc dù chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Bộ Đường Luật
sớ nghị thời nhà Đường, nhưng trong số 722 Điều của Quốc Triều Hình Luật thì có đến
315 điều (chiếm gần một nửa tổng số điều luật) là không tìm thấy trong Bộ luật của

nhà Đường.
Quốc Triều Hình Luật vừa tiếp thu có chọn lọc tư tưởng của Nho giáo vừa phát huy
những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc mình. Thí dụ: Điều 40: “Những người
miền thượng du (miền núi, miền đồng bào dân tộc ít người cư trú) cùng phạm tội với

10


nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người
trung châu (miền trung du và miền đồng bằng) thì theo luật mà định tội.”. Có thể nói
đây là điều luật thể hiện rõ nhất tính sáng tạo của nhà làm luật, luật pháp dù có hoàn bị
đến đâu cũng không thể phủ nhận hoặc thay thế hoàn toàn vai trò của phong tục tập
quán vốn dĩ đã tồn tại trước cả khi có luật. Một vấn đề nữa cần phải khẳng định là nhà
làm luật thời kỳ này đã nhận thức rõ được sức mạnh của quần chúng nhân dân. Nho
giáo đánh giá cao vai trò của dân với việc cai trị và địa vị của nhà vua, của việc củng
cố và duy trì địa vị xã hội theo giai cấp phong kiến. Khổng Tử trong sách Luận ngữ đề
cao vai trò của lòng dân - đó là một yếu tố quan trọng quyết định đến sự thịnh suy của
triều đại trong ba yếu tố lương thực, binh lực, và lòng tin của dân chúng, thì Khổng Tử
quan niệm lòng tin của dân chúng là yếu tố quan trọng nhất. Việc coi trọng sức mạnh
của quần chúng nhân dân thông qua việc bảo vệ thuần phong mĩ tục của đất nước cũng
là một cách để nhà Lê ổn định xã hội và làm cho “dân cường, nước thịnh”, ở một khía
cạnh khác ta cũng thấy nhà cầm quyền cũng không dại gì thay đổi hoặc phủ nhận
những tập tục đó vì nếu làm vậy tự khắc triều đình sẽ vấp phải sự chống đối mạnh mẽ
từ phía
Trên nền tảng đạo đức xã hội là đạo Nho, nhiều quy định trong bộ luật được đặt ra
để bảo vệ trật tự lễ giáo phong kiến từ trong triều đình đến trong gia đình hạt nhân của
xã hội. Điều đó thường được thể hiện trong một số điều khoản riêng biệt như trong
quan hệ gia đình, mặc dù “Quốc triều hình luật” đã thể chế lễ nghi gia đình gia trưởng
Nho giáo nhưng đồng thời vẫn thừa nhận một số phong tục, thói quen, nếp sống cổ
truyền trong dân gian, dân chúng.

Ngay khi làm thủ tục kết hôn, nhà làm luật rất tôn trọng và thừa nhận những phong
tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, các nghi lễ kết hôn gồm: Lễ nghị hôn: Lễ chạm mặt
(dạm hỏi); Lễ định thân(Vấn danh); Lễ nạp trưng(Lễ dẫn đồ cưới); Lễ thân nghinh(Lễ
đón dâu). Các nghi lễ này dần trở thành phong tục cưới hỏi của người dân Việt Nam và
được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Điều này hoàn toàn phù hợp với tập quán
người Việt và vừa hợp với lễ nghĩa. Quốc Triều Hình Luật tiếp thu những phong tục
tập quán của dân tộc đã phản ánh khá trung thực và điều chỉnh mối quan hệ giữa vợ chồng phù hợp với thực tế xã hội Việt Nam được biểu hiện thông qua quyền bình đẳng
về tài sản (Điều 374, 375, 376) và quyền sở hữu với tài sản riêng (Điều 374, 377, 375 ,
376) quyền sở hữu với tài sản chung (Điều 375) ; bộ luật còn qui định sự ràng buộc
trách nhiệm của người chồng với gia đình, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người vợ (Điều 308, 309, 482, 405)…
Lần đầu tiên trong lịch sử người phụ nữ được pháp luật qui định một loại quyền đặc
biệt: quyền bỏ chồng: Điều 308 qui định: "Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi
lại (vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng ) thì mất vợ". Tuy nhiên luật
qui định rõ quyền này nhưng thực tế số lượng ly hôn trong xã hội phong kiến rất ít. Bởi
vì có thể chưa chắc người phụ nữ đã sử dụng những quyền này nhiều, nhưng qui định
như vậy quyền lợi của người phụ nữ đã được bảo đảm và quan trọng hơn nó cũng trở
thành cơ sở để người chồng phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với vợ, với gia
đình. Đây là qui định nổi bật phản ánh tính sáng tạo của nhà làm luật nhằm duy trì trật

11


tự ổn định trong gia đình.
Rõ ràng Nho giáo du nhập vào Việt Nam đã trở thành Nho giáo Việt Nam, mang
sắc thái của người Việt chứ không còn là thứ Nho giáo nguyên bản nữa. Đúng như một
nhà nghiên cứu đã nhận xét Nho giáo ở nước ta như những lớp trầm tích đan xen, bện
chặt lấy nhau, gần như một khu rừng nhiệt đới rậm rạp”. Điều đó được chứng minh
bằng việc triều Lê đã vận dụng một cách hợp tình, hợp lý những giá trị truyền thống
văn hoá của dân tộc trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các giá trị của Nho giáo và thể hiện

được tinh thần độc lập và sáng tạo của triều đình trong việc xây dựng Quốc Triều Hình
Luật đáp ứng được lòng tự tôn dân tộc của mọi tầng lớp nhân dân.
Coi trọng và khuyến khích phát triển các phong tục tập quán, truyền thống đạo đức của
dân tộc “Quốc triều hình luật” có rất nhiều quy định dựa trên cơ sở những chuẩn mực
đó như khuyến khích tình yêu thương đồng bào, đề phòng, bài trừ tệ nạn cờ bạc trong
nhân dân, chống tệ mê tín dị đoan. Bên cạnh đó, “Quốc triều hình luật” đã đặt ra những
điều luật để trừng trị nhằm mục đích giáo hoá, bài trừ những thói xấu của con người:
trừng trị những kẻ “ngang ngạnh, ngỗ ngược không theo giáo hoá”, những hành vi xâm
phạm đến mồ mả, những hành ví có tính chất bất hiếu, bất mục, bất kính … đều bị
trừng trị nghiêm khắc, đặc biệt các tội liên quan đến việc gian dâm, tà dâm, loạn luân
bị lên án và trừng phạt nặng nề hơn bất cứ tội nào, … Như vậy, “Quốc triều hình luật”
có mối quan hệ rất đặc biệt với phong tục tập quán và truyền thống đạo đức của con
người Việt Nam. Tinh thần thương dân, vị tha, nhân từ của vua Lê Thánh Tông là yếu
tố chi phối mạnh đến đặc trưng này của bộ luật. Tính chất nhân đạo cũng là một trong
những đặc tính nổi bật của “Quốc triều hình luật” so với các bộ luật khác.

a) Bộ Luật Hồng Đức bảo vệ những giá trị đạo đức Nho giáo, đặc biệt là đạo
đức trong gia đình
Khổng Tử đã đưa ra một nhận định nổi tiếng khi luận bàn về vai trò của pháp luật
trong mối liên hệ với đạo đức, ông cho rằng: “ luật pháp chỉ là công cụ dẫn dắt bằng
chính, chấn chỉnh bằng hình, dân chịu mà vô sỉ. Dẫn dắt bằng đức, chấn chỉnh bằng lễ,
biết sỉ lại tiêu chuẩn, dân mới biết tự trọng và vào nề nếp… Pháp luật chỉ khiến người
ta sợ mà không dám làm điều ác, còn dùng đức trị thì người ta xúc động tận trong lòng
và tự nguyện thực hiện, không phải vì sợ pháp luật mà là vì sợ xấu hổ trước người
khác, sợ lương tâm cắn rứt đến chết dần, chết mòn”. Ở Việt Nam và một số nước Á
Đông, trong luân lý và đạo đức truyền thống đều hướng tới việc xây dựng gia đình bền
vững, lâu dài, một trách nhiệm, một luân lý và đạo đức mà tình cảm cá nhân phải phụ
thuộc vào đó. “Con người vừa mới sinh ra đã phải là người con có hiếu và thuận hoà cả cuộc đời đều hiến thân cho gia đình, lấy công việc xây dựng gia đình làm hạnh phúc
cho chính bản thân mình. Hạnh phúc và danh dự cá nhân được gắn chặt với hạnh phúc
và danh dự gia đình.”. Triều Lê đặc biệt chú trọng đến vấn đề gia đình, coi gia đình là

cơ sở quan trọng bậc nhất để tạo lập kỉ cương và ổn định xã hội.
Pháp luật thời kỳ nhà Lê cho phép người trong gia đình được che chở lẫn nhau,

12


nghiêm cấm sự tố cáo ông bà, cha mẹ - đó là đạo hiếu truyền thống của người Việt từ
ngàn đời nay được thể chế hoá vào trong luật. Trong tâm hồn của mỗi người Việt nam,
ngay từ thuở lọt lòng đã được giáo dục và ứng xử theo nguyên tắc hiếu - kính, con cái
trong gia đình phải kính trọng, hiếu thuận với ông bà, cha mẹ, biết “kính trên nhường
dưới”, người Việt quan niệm rằng “hiếu là nhân cách con người, là gốc của nhân luân,
là một giá trị xã hội cao quí”. Điều 504 qui định: “Con cháu tố cáo ông bà, cha mẹ, nô
tỳ tố cáo chủ có tội lỗi gì đều xử tội lưu đi châu xa, vợ tố cáo chồng cũng bị tội trên.
Tố cáo ông bà ngoại, cha mẹ và ông bà cha mẹ về bậc tôn trưởng và hàng cơ thân của
chồng, cùng là nô tỳ tố cáo người bậc cơ thân của chủ, dẫu việc có thật cũng phải tội
biếm hay tội đồ.”; Điều 485: "Ông bà cha mẹ bị người ta đánh, con cháu đánh lại mà
không bị què gẫy, bị thương thì không phải tội.” Đây là đặc điểm rất đặc sắc của Quốc
Triều Hình Luật, thể hiện rõ ưu thế của đạo đức gia đình, ngay cả trong trường hợp có
sự xung đột giữa pháp luật và đạo đức thì đạo đức vẫn được coi là cái gốc để điều
chỉnh hành vi của con người.
Quốc Triều Hình Luật qui định về thất xuất (bảy trường hợp người chồng được
phép bỏ vợ), đây là những căn cứ mà người vợ rất dễ mắc phải. Cũng trong bộ luật này
nhà làm luật cũng qui định 3 trường hợp đặc biệt (tam bất khứ) buộc người chồng
không được phép bỏ vợ: Đã để tang nhà chồng được 3 năm; Trước khi lấy chồng thì
nghèo, sau đó trở nên giàu có; Trước khi lập gia đình có họ hàng thân thích sau đó
không còn bà con để trở về. Về mặt kĩ thuật lập pháp, hai điều luật này tưởng chừng
như ở rất xa nhau, nhưng chỉ với một điều luật qui định “tam bất khứ” nhà làm luật đã
hoàn thành xuất sắc việc bảo vệ sự ổn định của gia đình, bảo vệ chế độ tông pháp, hạn
chế việc phá vỡ trật tự gia đình của Nho giáo vì thế mà lưu giữ được những giá trị đạo
đức trong gia đình, cũng là những giá trị đạo đức của Nho giáo.


b) Pháp luật hôn nhân và gia đình trong Quốc Triều Hình Luật mang đậm tính
chất nhân đạo:
Chủ nghĩa nhân đạo của Khổng Tử - nhân học, mà hạt nhân là chữ hiếu - là quan hệ
huyết thống tự nhiên của con người, quan hệ huyết thống tự nhiên này là cơ sở cho chủ
nghĩa nhân đạo của Khổng Tử, đã có ảnh hưởng mạnh mẽ vào Việt Nam. Nó có tính
hợp lý khi Khổng Tử đã kết hợp nhân ái (đạo đức), huyết thống (quan hệ tự nhiên) và
chế độ đẳng cấp (chính trị) lại với nhau; và nhân ái là chất keo để gắn chặt mối quan hệ
ngang dọc của xã hội . "Nhân" là phạm trù trung tâm của toàn bộ học thuyết Khổng
giáo. Khổng Tử nói nhiều đến chữ “Nhân” và coi “Nhân” là cao ngất, là rộng đến sâu
thẳm của đạo đức con người. Tư tưởng nhân đạo thể hiện trong Quốc Triều Hình Luật
trước tiên ở các qui định phản ánh chính sách hình sự khoan hồng đối với người phạm
tội là người già, người tàn tật và trẻ em cũng như đối với người phạm tội tuy chưa bị
phát giác đã tự thú. Thí dụ: Điều 16 Quốc Triều Hình Luật không qui định mức độ
khoan hồng chung cho các độ tuổi, mà qui định các mức độ khoan hồng khác nhau tuỳ
theo độ tuổi và mức độ tàn tật của họ; Điều 17 Quốc Triều Hình Luật còn qui định:
"Khi phạm tội chưa già cả tàn tật, đến khi già cả tàn tật mới bị phát giác thì xử theo
luật già cả tàn tật.Khi ở nơi bị đồ thì già cả tàn tật cũng thế. Khi còn bé nhỏ phạm tội

13


đến khi lớn mới phát giác thì xử tội theo luật lúc còn nhỏ“. Quốc Triều Hình Luật còn
thể hiện chính sách khoan hồng đối với người phạm tội tuy chưa bị phát giác và tự thú
trước (trừ phạm tội thập ác hoặc giết người ). Điều 18 và điều 19: "Phàm ăn trộm tài
vặt của người sau lại tự thú với người mất của thì cũng coi như là thú ở cửa quan".
Điều21, 22, 23, 24 của Quốc Triều Hình Luật qui định cho chuộc tội bằng tiền (trừ
hình phạt đánh roi vì cho rằng đánh roi có tính chất răn bảo dạy dỗ nên không phải cho
chuộc). Biện pháp này mang tính chất nhân đạo, lần đầu tiên được qui định trong Quốc
Triều Hình Luật để áp dụng cho những đối tượng được ưu đãi và được khoan hồng.

Đặc biệt hơn nữa trong Quốc Triều Hình Luật đặt ra mức hình phạt dành cho người
phạm tội là phụ nữ và hình phạt đối với phụ nữ có thai cũng phản ánh tính chất nhân
đạo. Điều 1 qui định trượng hình chỉ đàn ông phải chịu: “Từ 60 cho đến 100 trượng,
chia làm 5 bậc: 60 trượng, 70 trượng, 80 trượng, 90 trượng, 100 trượng, tuỳ theo tội
mà thêm bớt. Xử tội này có thể cùng với tội lưu, tội đồ, biếm chức, hoặc xử riêng chỉ
đàn ông phải chịu.” Qui định này được đánh giá rất cao về sự tiến bộ của nó, nếu đặt
nó trong mối liên hệ với quan niệm phong kiến (chịu ảnh hưởng lớn của tưởng Nho
giáo) về địa vị thấp kém của người phụ nữ so với người chồng trong gia đình. Tính
nhân đạo còn được thể hiện ở chỗ cho phép hoãn hình phạt đối với phụ nữ đang có thai
và 100 ngày sau khi sinh con. Điều 680: "Đàn bà phải tội tử hình trở xuống nếu đang
có thai, thì phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem
hành hình thì ngục quan bị xử biếm hai tư; ngục quản bị đồ làm bản cục đinh. Dù đã
sinh rồi , nhưng chưa đủ hạn một trăm ngày mà đem hành hình, thì ngục quan và ngục
lại bị tội nhẹ hơn tội trên hai bậc. Nếu đã đủ 100 ngày mà không đem hành hình, thì
ngục quan hay ngục lại bị tội biếm hay tội phạt”..

 Đạo làm người
_“Khắc kỷ phục lễ vi nhân”, tức là điều gì không hợp với lễ thì đừng nhìn, đừng nghe,
đừng nói, đừng làm.
_ Yêu cầu của Nho giáo về tiêu chuẩn đạo đức để con người tu thân là rất toàn diện.
Không những đề cao tinh thần tu thân, bản thân Khổng Tử còn là một tấm gương về tu
thân. Ông muốn cả xã hội tu thân để tạo thành một “vương quốc của người quân tử”.
Quan niệm của Nho giáo về đạo làm người trong quan hệ đối với bản thân cho đến nay
vẫn còn những giá trị nhất định, giúp chúng ta rèn dũa bản thân, tu dưỡng phẩm chất
đạo đức, sống đúng danh phận của mình.
_ Nho giáo đặc biệt đề cao Hiếu
_ Trong điều kiện hiện nay, khi mối quan hệ của con người với con người càng được
mở rộng, khi xã hội đang có những biểu hiện xuống cấp về mặt đạo đức, tệ quan liêu,
tham ô, tham nhũng đang diễn biến phức tạp, thì tư tưởng về đạo làm người trong mối
quan hệ với xã hội của Nho giáo lại càng có ý nghĩa, góp phần điều chỉnh hành vi của

mỗi người để xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

14


• Đạo làm người qua các mối quan hệ Đạo làm người

"Đạo làm người" là khái niệm được hình thành từ rất lâu, nhưng ngày nay, luận bàn
về nó không phải là một điều đã cũ, cổ hủ. Bởi lẽ, từ khi có con người và xã hội loài
người thì những mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên,
con người với chính bản thân mình luôn nảy sinh và do vậy, "Đạo làm người" luôn vận
hành. Ngày nay, khi xã hội càng phát triển, trình độ nhận thức của con người không
ngừng được nâng cao, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và chính bản
thân mình nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp thì "Đạo làm người" lại càng được chú ý hơn
bao giờ hết.
Khi bàn đến "Đạo làm người", Nho giáo nhấn mạnh đến “Đạo nhân”, "Đạo làm
người". Theo nghĩa đó, “Đạo làm người” được hiểu là nguyên tắc chính trị, là quy
phạm đạo đức và luân lý, là đạo lý trị quốc và xử thế của con người. Nói cách khác,
đạo làm người được hiểu là đường lối, nguyên tắc đạo đức mà con người có bổn phận
gìn giữ và tuân theo trong đời sống. Đó là nhân sinh quan, là quan niệm sống trong
sạch, thuận theo lẽ phải.
Nguyên tắc chính trị là tư tưởng chỉ đạo việc trị quốc, bình thiên hạ, phản ánh hệ tư
tưởng của giai cấp cầm quyền. Quy phạm đạo đức, luân lý theo quan niệm của Nho
giáo chính là tam cương, ngũ thường, trung hiếu, tam tòng, tứ đức,… Đạo làm người
của Nho giáo bao quát các mối quan hệ trong xã hội ở một phạm vi rất rộng. Một
người có đạo đức, có “đạo làm người” là cơ sở để người đó thực hiện tốt mối quan hệ
trong quan hệ với tự nhiên, trong ứng xử xã hội, ứng xử với chính bản thân mình theo
danh phận
Nho giáo gọi con người đạt được các chuẩn mực đó là “người quân tử”, “đấng trượng
phu”. Với Khổng tử, người quân tử không thuần túy chỉ địa vị xã hội của người đó, mà

chủ yếu chỉ phẩm chất đạo đức mà người đó đạt được. Ông cho rằng, “Tề Cảnh Công
có một ngàn cỗ xe bốn chỗ nhưng sau khi chết, dân không thấy có công đức gì mà
khen. Bá Di và Thúc Tề chết đói ở chân núi Thú Dương, nhưng đến nay dân hãy còn
ca ngợi. “Thành bất dĩ phú, diệc chi dĩ dị” (thật chẳng vì giàu, chỉ vì đức lạ). Có lẽ là
nói về điều này chăng” (Luận ngữ, Quý thị, 12)(2).
+ Quan hệ của con người với bản thân
Nho giáo là học thuyết rất chú trọng đến đạo đức con người, trong đó có đạo đức
trong ứng xử với chính bản thân mình. Với nguyên tắc đạo đức này, Nho giáo coi trọng
sự nghiêm khắc trong việc tu thân, tích đức.
Theo Nho giáo, người quân tử đối với mình trước hết phải làm những việc khó, sau
mới được hưởng thành quả (Nhân giả tiên nan; nhi hậu hoạch; khả vị nhân hỹ) (Luận
ngữ, Ung giã, 20)(3). Đến đời Tống, Phạm Trọng Yêm cho rằng, người khổ trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ là người có nhân. Khác với những người bất nhân, người quân tử,
nhân đức là người luôn vui vẻ sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù đó là vinh hoa hay
đói nghèo, túng thiếu. Họ không bị phú quý, danh lợi, giàu sang làm lung lạc.
Khi đề cập đến mẫu người quân tử, Khổng Tử thường đưa ra những tiêu chuẩn khác
nhau, song chung quy lại, người quân tử phải đạt được chín điều sau:
(1) Nhìn thì phải để ý nhìn sao cho sáng;

15


(2) Nghe thì phải lắng tai nghe cho rõ ràng;
(3) Sắc mặt phải giữ cho ôn hòa;
(4) Tướng mạo thì phải giữ cho khiêm cung;
(5) Nói năng phải giữ bề trung thực;
(6) Làm việc phải trọng sự kính cẩn;
(7) Có điều nghi hoặc thì phải hỏi han;
(8) Khi giận thì nghĩ đến sự hoạn nạn có thể xảy ra;
(9) Thấy lợi thì phải nghĩ tới điều nghĩa” (Luận ngữ, Quý thị,10)

Theo Khổng Tử, chín điều này phải có sự hài hòa với nhau mà ông gọi là “trung
dung”. Để đạt được những điều này, trước hết người quân tử phải rèn luyện được 5 đức
cơ bản: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Đây cũng là tư tưởng xuyên suốt đạo làm người của
Nho giáo nói riêng, hệ thống tư tưởng Nho giáo nói chung. Người quân tử, theo Nho
giáo, phải biết giữ đức nhân của mình, có thể vì nhân mà sát thân chứ không thể vì
thân mà hại nhân. Để gìn giữ đức nhân, người quân tử phải tự kiềm chế mình để tuân
theo lễ tiết của xã hội (Luận ngữ, Nhan Uyên, 1), để vững vàng, trầm tư như núi trước
mọi thử thách của cuộc đời (Luận ngữ, Ung giã, 21). “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”, tức là
điều gì không hợp với lễ thì đừng nhìn, đừng nghe, đừng nói, đừng làm. Theo Khổng
Tử, là người ai cũng có nỗi sợ hãi của mình, bản thân ông cũng nói nhiều đến chữ “sợ”
(úy); nhưng không có chỗ nào, ông khuyên người ta tham sống sợ chết cả. Ngược lại,
ông còn khuyên người có nhân và chí khí thì phải biết chọn cái chết một cách xứng
đáng: “Người có chí khí và người có đức nhân không tham sống mà hại người. Họ phải
xả thân để thành nhân”. Để đạt được tất cả những phẩm chất đạo đức đó, để hành động
như một người quân tử giúp đời, Khổng Tử cho rằng, người quân tử phải luôn lấy “tu
thân” làm đầu. Tu thân là cơ sở để xây dựng nhân cách cho mình, để hành đạo giúp đời
(tề gia, trị quốc, bình thiên hạ).
Nhân là đạo đức căn bản nhất của con người; nó bao hàm trong mình mọi đức tính.
Do vậy, người có nhân đồng nhất với người hoàn thiện nhất, người quân tử. “Người có
đức nhân là người phải nghiêm trang, tề chỉnh, rộng lượng, khoan dung, đức tín, lòng
thành, siêng năng, cần mẫn và biết thi ân với năm đức (cung, khoan, tín, mẫn, huệ)
(Luận ngữ, Dương hóa, 6)(5). Đó cũng là người biết yêu người đáng yêu, biết ghét
người đáng ghét. Người có đức nhân cũng là người có đức lễ, vì biểu hiện ra bên ngoài
của nhân là lễ (khắc kỷ phục lễ vi nhân). ở phạm vi quốc gia, lễ được hiểu là việc tuân
theo kỷ cương phép nước và các chuẩn mực đạo đức xã hội. Nghĩa được các nhà Nho
đặt trong mối quan hệ với lợi. Họ có xu hướng coi nhẹ lợi mà chỉ chú trọng nghĩa.
Khổng Tử cho rằng, “quân tử hiểu rõ về nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ về lợi”(6). Do vậy,
Khổng Tử hay khuyên điều nghĩa, cho nghĩa là một điều căn bản để lập thân, việc gì
hợp với nghĩa thì làm, không hợp thì bỏ. Lễ, Tín và Nghĩa gắn bó chặt chẽ với nhau:
“Người quân tử lấy nghĩa làm gốc, theo lễ mà thực hiện, nói ra bằng lời khiêm tốn và

hoàn thành bằng thái độ thành thực. Như vậy thật là quân tử (Luận ngữ, Vệ Linh Công,
17)(7). Mạnh Tử còn bài xích lợi hơn, ông chỉ thấy có nghĩa mà không có lợi. Nhà vua
chỉ nói điều nhân nghĩa, hà tất phải nói tới lợi. Trí là trí tuệ, là tri thức, hiểu biết của
người quân tử, là cơ sở để hành sự. Người hoàn thành, đạt được việc tu thân là người
làm tròn, làm đúng phận sự của mình (chính danh). Trên cơ sở làm tròn phận sự của

16


mình mà mở rộng ra việc làm tròn phận sự, nhiệm vụ của mình đối với người khác
trong mọi mối quan hệ.
Yêu cầu của Nho giáo về tiêu chuẩn đạo đức để con người tu thân là rất toàn diện.
Không những đề cao tinh thần tu thân, bản thân Khổng Tử còn là một tấm gương về tu
thân. Ông muốn cả xã hội tu thân để tạo thành một “vương quốc của người quân tử”.
Quan niệm của Nho giáo về đạo làm người trong quan hệ đối với bản thân cho đến nay
vẫn còn những giá trị nhất định, giúp chúng ta rèn dũa bản thân, tu dưỡng phẩm chất
đạo đức, sống đúng danh phận của mình.
+ Quan hệ của con người với người khác (với xã hội)
Trong xã hội, con người phải duy trì đồng thời nhiều mối quan hệ khác nhau, như
quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ luân lý đạo đức, quan hệ tôn giáo, quan hệ
gia đình..., trong đó quan hệ kinh tế là cái đóng vai trò cơ bản. Nhưng ngay từ sơ kỳ,
các nhà Nho đã không quan tâm đến quan hệ kinh tế, cũng không quan tâm đến các
quan hệ pháp luật, tôn giáo. Họ tuyên bố: “Trong xã hội, mọi nghề nghiệp đều là thấp
kém, duy chỉ có nghề đọc sách là cao quý” (Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư
cao). Vì vậy, sự tập trung của các Nho gia chủ yếu vào lĩnh vực chính trị, đạo đức, điều
này phù hợp với đường lối đức trị, với quan niệm cho rằng chính trị, đạo đức quyết
định sự an nguy của triều đình, sự ổn định của xã hội.
Khổng Tử là người đầu tiên nêu lên mối quan hệ giữa con người với con người,
giữa “kỷ” (mình) và “nhân” (người). Với ông, nguyên tắc đối xử giữa người với người
là xem người cũng như mình, cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người (thi chư

kỷ nhi bất nguyên, diệc vật thì ư nhân), mình muốn làm nên thì giúp người làm nên,
mình muốn thành đạt thì giúp người thành đạt (kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi
đạt nhân). Với quan niệm về “kỷ” và “nhân” này, Khổng Tử đã khẳng định tư tưởng
đạo đức coi trọng con người của Nho giáo. Nguyên tắc thứ hai mà Khổng Tử đề cao là
“Trung dung”, “Trung hòa”. “Trung hòa là cái tính tự nhiên của trời đất, trung dung là
cái đức hạnh của người ta. Trung là giữa, là không thiên lệch về bên nào. Dung là
thường. Trung dung nghĩa là dùng đạo Trung làm lẽ sống thường ngày vậy”. Nghĩa là
đạo Trung dung đòi hỏi con người đừng thái quá về mình, cũng đừng thái quá về
người. Nó giống như mối tương quan giữa “văn” và “chất”: “Chất mà trội hơn văn thì
thô kệch, văn mà trội hơn chất thì phù phiếm, văn và chất đều hài hòa thì mới là quân
tử (Luận ngữ, Ung giã, 16).
Mạnh Tử đã khái quát mối quan hệ của con người trong xã hội thành 5 mối quan hệ cơ
bản, đó là: quân - thần (vua - tôi), phụ - tử (cha - con), phu - phụ (chồng - vợ), trưởng ấu (người lớn tuổi - người nhỏ tuổi, anh - em), bằng hữu (bạn bè). Cơ sở của mỗi mối
quan hệ đã được Mạnh Tử thuyết minh rõ ràng: “Cha con thì có tình thân ruột thịt, vua
tôi thì có nghĩa, chồng vợ thì có khách biệt, lớn tuổi và ít tuổi thì có thứ tự, bạn bè thì
có điều tín” (phụ tử hữu thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu
tự, bằng hữu hữu tín). Mạnh Tử gọi năm mối quan hệ đó là “nhân luân”, có nhà Nho
gọi đó là “ngũ luân”. Đó là năm mối quan hệ được coi là tiêu biểu cho các mối quan hệ
xã hội lúc bấy giờ. Các mối quan hệ này dần dần quy về 3 mối quan hệ. Đó là quan hệ
vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, còn gọi là “Tam cương”. Đây được coi là những mối
quan hệ giường mối, làm trụ cột của xã hội phong kiến Trung Quốc từ thời Hán trở đi.

17


ở giai đoạn đầu, các nguyên tắc đối xử của nhà Nho còn mang tính hai chiều, yêu cầu
người dưới có nghĩa vụ đối với người trên và người trên cũng phải có nghĩa vụ với
người dưới. Nhưng về sau, khi chế độ phong kiến tập quyền được xác lập, tính đẳng
cấp được đề cao, nguyên tắc ứng xử dần chuyển sang yêu cầu khắt khe với người dưới,
đòi hỏi người dưới phải phục tùng vô điều kiện đối với người trên. Trong mối quan hệ

giữa vua và bề tôi, nguyên tắc đạo đức của Nho giáo, về cơ bản, là quân nhân thần
trung. Cả quân và thần đều phải đáp ứng những yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải chính danh. Đứng trước thực trạng xã hội rối ren, Khổng Tử cho rằng,
đó không phải là nguyên nhân một sớm một chiều, mà là một quá trình bắt nguồn từ sự
sa đọa của các thế lực cầm quyền, làm cho “danh” không được “chính”, tức là “danh”
không phù hợp với “thực”. Vì vậy, ông yêu cầu vua trước hết phải “chính danh”. Chính
danh là “vua cho ra vua”, nếu danh bất chính thì lời nói không đúng đắn, dẫn đến việc
làm sai, khi đó người với người trong xã hội không kính trọng nhau, không còn hòa
khí, luật pháp lỏng lẻo và người dân sẽ mất nơi tin cậy, nhờ vả (Luận ngữ, Tử Lộ, 3).
Khi dân không còn trông cậy, nhờ vả, thì dân sẽ không còn tin ở bậc cầm quyền, lúc đó
dù muốn hay không thì xã tắc cũng khó tránh bề suy sụp.
Thứ hai, phải có sự tôn trọng của cả hai phía với nhau. Khổng Tử yêu cầu: “Nhà vua
sai khiến bề tôi thì dựa vào điều lễ, bề tôi phụng sự nhà vua thì dựa vào điều trung”
(Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung) (Luận ngữ, Bát dật, 19).
Kế thừa quan điểm này của Khổng Tử, Mạnh Tử còn mạnh mẽ hơn, khi ông khuyên Tề
Tuyên Vương rằng: “Nếu nhà vua xem bề tôi như tay chân thì bề tôi xem nhà vua như
lòng dạ của mình; nếu nhà vua xem bề tôi như chó ngựa thì bề tôi xem nhà vua như
người dưng trong nước; nếu nhà vua xem bề tôi như cỏ đất thì bề tôi xem nhà vua như
kẻ thù” (quân chi thị thần như thủ túc, tắc thần thị quân như phúc tâm; quân chi thị
thần như khuyển mã, tắc thần thị quân như quốc nhân; quân chi thị thần như thủ giới,
tắc thần thị quân như khấu thù) (Mạnh Tử, Ly Lâu hạ) .
Thứ ba, cả vua và bề tôi đều được Khổng Tử coi là người cầm quyền; họ phải đạt
được cả nhân đạo và thiên đạo. Bởi lẽ, một ông vua đồng thời cũng phải là người thầy
của dân, phải là người nhân đức nhất trong những người nhân đức. Người làm chính trị
mà có đức nhân thì như đứng vào vị trí của sao Bắc đẩu, vị trí mà tất cả các ngôi sao
khác đều phải hướng đến (Luận ngữ, Vi chính, 1). Vua phải đảm bảo cho dân được no
ấm, phải xây dựng được lực lượng quân sự hùng hậu và đặc biệt, phải có được lòng tin
của dân. Không những thế, vua phải làm cho dân giàu và biết giáo hóa dân. Vua sáng
còn là người biết trọng dụng người đức độ, tài năng, phải biết rộng lượng đối với bề tôi
của mình. Vua phải là người hết lòng vì dân chúng. Mạnh tử đã khuyên các bậc vua

chúa: “Ngài vui cái vui của dân thì dân cũng vui cái vui của mình, ngài lo cái lo của
dân thì dân cũng lo cái lo của mình. Vì thiên hạ mà vui, vì thiên hạ mà lo, thế mà
không làm vương thì chưa có vậy” (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương). Ngoài ra, vua còn
phải thực hiện chính sách điền địa công bằng, phân minh, giảm tô thuế cho dân, cải
thiện đời sống nhân dân. Đó cũng là nhiệm vụ trọng yếu của người cai trị đất nước.
Nho giáo khuyên vua không nên lạm dụng hình phạt để ép dân đi vào tôn ti trật tự, mà
nên bằng đức hạnh, lễ nghĩa, vì đức hạnh có sức mạnh cảm hóa con người và làm cho
con người biết hổ thẹn khi làm sai: “Dắt dẫn (dân) bằng chính pháp, sửa trị dân bằng

18


hình phạt, thì dân chỉ tạm tránh khỏi được tội lỗi, chứ không có lòng hổ thẹn. Nếu dắt
dẫn bằng đạo đức, sửa trị bằng lễ giáo, thì dân không những có lòng hổ thẹn mà còn
cảm hóa quy phục”. Đức hạnh và lễ tiết ở đây chính là những tiêu chuẩn về đức tính, là
những quy định về giao tiếp, lễ nghi mà con người phải có, phải tuân theo.
Trong đạo làm tôi, Khổng Tử đề cao chữ “Trung”, nhấn mạnh lòng biết ơn, sự phục
tùng, tinh thần phục vụ hết lòng hết sức của bề tôi đối với vua, với quốc gia. Theo ông,
người làm tôi, làm quan trước hết phải là người có đức trong mọi hành động, có thái độ
đúng ở mọi nơi, mọi lúc, chứ không phải khi nhận chức tước mới là làm quan. Khi
chứng kiến cảnh xã hội có chiến tranh, huynh đệ tương tàn, Mạnh Tử đã phê phán
những kẻ làm quan mà không đúng danh phận của mình, chỉ biết hùa theo điều ác của
vua, phò vua chỉ biết sửa soạn binh đao đi đánh chiếm nước khác, gây chiến tranh.
Ông kết tội: “Hùa theo điều ác của vua mà không can ngăn là tội nhỏ, xúi giục điều ác
của vua là tội lớn. Những quan đại phu thời nay đều xúi giục điều ác của vua, cho nên
bảo rằng quan đại phu thời nay là người có tội lớn”. Với lời kết tội này, ông đã nêu lên
tư tưởng về “Đạo làm quan”: “Khi thiên hạ có đạo thì đem đạo theo thân mà ra làm
quan. Khi thiên hạ không có đạo thì đem thân theo đạo mà lui về ở ẩn” (Mạnh Tử, Tân
tâm hạ). Ông cũng thẳng thắn nói: “Thà ở bậc dưới là dân, không chịu đem mình là
người hiền mà thờ ông vua vô đạo” (Mạnh Tử, Cáo Tử hạ). Từ đó, ông đã nêu ra ba

trường hợp nên ra làm quan và ba trường hợp nên từ quan (Sở tựu tam, sở khứ tam):
Thứ nhất, làm quan khi thấy có thể hành đạo được.
Thứ hai, làm quan vì giao tế có lễ.
Thứ ba, làm quan khi vua biết trọng dụng, nuôi dưỡng.
Khi ra làm quan rồi, thì phải trung với vua, hết lòng hết sức thờ vua, nhưng cũng
không vì vậy mà biến mình thành kẻ “ngu trung”. Người làm tôi trung còn là người
biết can gián vua, khi vua làm điều trái đạo; không những thế, còn có thể phế truất ngôi
vua, khi thấy vua là kẻ vô đạo.
Bên cạnh quan hệ vua tôi, trong gia đình cũng có nhiều mối quan hệ, nhưng mối quan
hệ mà Nho giáo quan tâm nhất, coi là cơ bản nhất, làm rường cột cho các mối quan hệ
khác là mối quan hệ giữa cha và con, giữa thế hệ trước và thế hệ sau. Tiêu chuẩn trong
mối quan hệ này, theo Khổng Tử, là “Phụ từ tử hiếu”. Nho giáo giai đoạn sau đã đẩy
mối quan hệ này lên mức tuyệt đối là “Phụ sử tử sự” (Cha quyết, con phục tùng). Để
ổn định gia đình, vai trò của người cha “từ” cũng rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn
là sự phục tùng của người con. Do vậy, Nho giáo đặc biệt đề cao Hiếu, khi coi Hiếu là
nguồn gốc của mọi đức hạnh. Nếu Khổng Tử coi đạo Hiếu là một loại ý thức luân lý
của con cái đối với cha mẹ, thì đến Tông thánh Tăng Tử (ông Thánh của đạo Hiếu) đã
phát triển đạo Hiếu lên thành một khái niệm trừu tượng, phổ biến, một nguyên tắc của
mọi đức khác, là phẩm chất vĩnh hằng của con người, là cơ sở của mọi đường lối chính
trị tốt đẹp. Nếu phạm trù trung tâm trong học thuyết Nho giáo là Nhân, thì Hiếu được
coi là gốc rễ của Nhân.
Hiếu cũng có quan hệ chặt chẽ với Trung. Theo Nho giáo, xã hội là sự mở rộng mối
quan hệ cha con ra cả nước, cả thiên hạ là quan hệ vua – tôi và mở rộng đạo làm con,
đạo Hiếu ra phạm vi ấy là đạo làm tôi, đạo Trung. Đạo Hiếu trong quan niệm của Nho
giáo có nhiều nội dung sâu sắc và mang đậm tính nhân văn.

19


Trong gia đình chữ “hiếu” được coi trọng ,khi có tang cha mẹ con cái không làm bất

cứ điều gì nhầm thỏa mãn vui sướng của bản thân, trong đó có việc kết hôn, điều 317
BLHĐ quy định: “Người nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng
hoặc cưới vợ thì bị xử tội đồ ,người khác biết mà vẫn kết hôn thì xử biếm ba tư và đôi
vợ chồng mới cưới phải chia lìa nhau”. Tuy nhiên trong trường hợp không thể hoãn
việc kết hôn khi cha mẹ chết thì pháp luật cho phép kết hôn chạy tang. Những trường
hợp này rất hạn hữu và điều kiện khắc khe.Vợ chồng phải chung sống tại một nơi và
phải có trách nhiệm với nhau (các điều 321, 308, 309) không được ngược đãi vợ(482),
chung thủy (401, 405)
Tôn trọng tục thờ cúng tổ tiên, luật thừa kế cho phép con gái trưởng được hưởng phần
thừa kế hương hoả nếu gia đình không có con trai (điều 308).
Ngoài ra, Nho giáo còn đề cập đến đạo đức trong mối quan hệ chồng – vợ, huynh – đệ,
bạn bè,... với những yêu cầu đạo đức rất cụ thể.
Với Nho giáo, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín được đặt ra trong quan hệ của con người với
chính bản thân mình để tu thân, để trở thành người quân tử, còn chính danh là yêu cầu
đạo đức được đặt ra trong quan hệ với người khác (với xã hội) để mỗi người thực hiện
đúng việc, đúng phận sự của mình làm cho xã hội ổn định, phát triển. Những quan
niệm này của Nho giáo cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa thời sự của
nó. Trong điều kiện hiện nay, khi mối quan hệ của con người với con người càng được
mở rộng, khi xã hội đang có những biểu hiện xuống cấp về mặt đạo đức, tệ quan liêu,
tham ô, tham nhũng đang diễn biến phức tạp, thì tư tưởng về đạo làm người trong mối
quan hệ với xã hội của Nho giáo lại càng có ý nghĩa, góp phần điều chỉnh hành vi của
mỗi người để xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
c) Sự kết hợp giữa Lễ và Hình trong quan hệ hôn nhân và gia đình là một đặc
trưng nổi bật của Quốc Triều Hình Luật
Quốc Triều Hình Luật là bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều lĩnh vực pháp luật khác
nhau. Nhà làm luật thời kỳ này chưa có ý thức phân chia thành các ngành luật cụ thể
theo cách phân loại của tư duy pháp lý hiện đại, các điều luật điều chỉnh chủ yếu được
thể hiện dưới dạng luật hình sự khi điều chỉnh các lĩnh vực pháp luật (nói như GS. Vũ
Văn Mẫu thì Bộ luật Hồng Đức là bộ luật mang “tính hàm hỗn”. Quốc Triều Hình Luật
ra đời trên cơ sở của đạo Nho, nên trong những qui định của Quốc Triều Hình Luật thể

hiện sự tiếp thu các quan điểm của lễ giáo phong kiến, phù hợp với các hình phạt được
qui định trong bộ luật. Khổng Tử khẳng định Lễ là phạm trù văn hoá, là cái có sau do
bản tính của con người qui định. Vì vậy Lễ trước hết được hiểu là những nghi lễ,
những qui phạm đạo đức qui định quan hệ giữa người với người theo trật tự danh vị xã
hội chặt chẽ thời nhà Chu. Lễ được xem là lẽ phải, là bổn phận mà mọi người có nghĩa
vụ phải tuân theo. Ví như việc hiếu thảo với cha mẹ, việc hoà thuận anh em, việc thuỷ
chung cùng chồng vợ, việc tín nghĩa giữa bạn bè, cao hơn Lễ được hiểu đó là kỉ cương
phép nước, là trật tự xã hội qui định hành vi của mỗi con người. “Nhờ có Lễ mà mỗi
người có cơ sở bền vững để tiết chế nhân tình, thực hiện nhân nghĩa ở đời... Nhờ có
Lễ, con người có thể tự mình nuôi dưỡng tính tình thành tập quán, thói quen đạo đức

20


truyền thống”.
Tiếp thu quan điểm Lễ của Nho giáo, các nhà làm luật triều Lê đã đưa ra những qui
định và hình phạt chặt chẽ nhằm bảo vệ lễ giáo phong kiến. Trong gia đình, những
hành vi vi phạm đạo lý của Nho giáo cũng bị qui định phải chịu hình phạt theo hệ
thống hình phạt ngũ hình ở Điều 1, đó là hình phạt từ nhẹ đến nặng như: Suy, trượng,
đồ, lưu, tử. Để cho giáo lý của đạo Nho được mọi người tuân theo một cách triệt để,
nhà làm luật đã dùng đến những hình phạt rất nặng để trừng trị những hành vi trái với
đạo lý Nho giáo. Ngoài xã hội, chịu ảnh hưởng tư tưởng trung quân của Nho giáo,
Quốc Triều Hình Luật đưa ra các hình phạt cho những người phạm vào kỉ cương phép
nước và trật tự xã hội, mưu mô làm việc đại nghịch, mưu mô theo giặc phản nước phải
chịu hình phạt cao nhất là xử tử ở Điều 411, 412.

III.

NHỮNG ĐIỂM TIẾN BỘ.


Các chế định về hôn nhân trong Bộ Quốc triều hình luật thể hiện tính dân chủ sâu
sắc,thể hiện quyền bình đẳng giữa người vợ và người chồng , tôn trọng và bảo vệ
quyền lợi của người phụ nữ .
+ Về nhân thân : Quốc triều hình luật quy định rằng : Người con gái có quyền trả lại
sính lễ khi biết người con trai sắp cưới bị ác tật hoặc tù tội (điều 322) ,Người vợ có
quyền ly dị nếu người chồng lăng mạ ,mắng nhiếc cha mẹ vợ (điều 333) . Đặc biệt ,Bộ
luật còn quy định nếu người chồng bỏ bê vợ mình vì bất cứ lí do gì ( trừ khi thi hành
công vụ )mà kéo dài tới 5 tháng hoặc 1 năm (nếu đã có con),thì người vợ có thể kiện
chồng . Những quy định này không có trong Luật phong kiến Trung Quốc , các nước
Đông Á ,cũng như các văn bản cổ Luật trước hay sau triều Lê.
+ Về tài sản: Quốc triều hình luật cho phép người phụ nữ có chồng tiếp tục làm chủ tài
sản riêng của mình .Khi ly dị hay cải giá ,người phụ nữ có quyền lấy lại các tài sản
riêng của mình
Các điều luật quy định về vấn đề hôn nhân trong Bộ Quốc triều hình luật ở một mức
độ nhất định đã bảo vệ và quan tâm đến đời sống dân thường , đặc biệt là những người
nghèo khổ .Không ít các điều luật trừng phạt nghiêm khắc những người quyền quý,lợi
dụng chức quyền ức hiếp ,nhũng nhiễu dân đinh .Chẳng hạn như điều 338 quy định :
“Những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con gái kẻ lương dân thì xử phạt ,biếm hay
đồ” …Những quy định như thế này góp phần làm cho đời sống nhân dân được ổn
định , trật tự xã hội được duy trì bền vững.
Chế định hôn nhân trong Bộ Quốc triều hình luật thể hiện tính dân tộc sâu
sắc,mang đậm nét phong tục tập quán cũng như những nét tinh hoa Việt. Các quy định

21


về hôn nhân trong Bộ Quốc triều hình luật rất phù hợp với hoàn cảnh , điều kiện kinh
tế xã hội cũng như phong tục tập quán của người Việt lúc bấy giờ. Chẳng hạn như
trong các điều 314, 315, 322 quy định về hình thức kết hôn phải thông qua đính hôn
rồi đến thành hôn mà không cần phải lập văn tự hôn thú ,cho thấy rằng các nhà làm

luật triều Lê đã rất chú trọng đến phong tục tập quán của người Việt
Hình thức thể hiện của các chế định hôn nhân trong Bộ Quốc triều hình luật rất tiến
bộ ,các hình thức và thủ tục kết hôn cũng như chấm dứt hôn nhân được quy định rõ
ràng cụ thể ,nhanh gọn và tinh tế .Chẳng hạn như thủ tục ly hôn rất đơn giản là hai bên
vợ chồng viết giấy ,viết giáp lai và cùng kí sau đó mỗi bên giữ một tờ (Việc ly hôn
được sự đồng ý của hai bên và được chứng nhận bằng văn bản )
Nghiên cứu “Quốc triều hình luật” chúng ta thấy rất rõ vua “Lê Thánh Tông đã có ý
thức rất rõ ràng và đầy đủ trong việc sử dụng vũ khí pháp luật để hỗ trợ cho việc xây
dựng thuần phong mỹ tục cho thần dân được đặt dưới quyền trị vì của Ông”. “Quốc
triều hình luật” đã có sự phân định rõ ràng phạm vi điều chỉnh của pháp luật và phạm
vi điều chỉnh của đạo đức. Tính chất Nho giáo khắt khe, nghiêm khắc chỉ để “Quốc
triều hình luật” quy định những vấn đề cơ bản để củng cố và bảo vệ quan hệ Nho giáo
trong gia đình và xã hội, củng cố và bảo vệ quyền của người gia trưởng, nền tảng của
thuần phong mĩ tục. Còn các hành vi xử sự cụ thể trong hôn nhân gia đình thì các nhà
làm luật nhường chỗ cho các phong tục tập quán và đạo đức.

 Nguyên nhân dẫn đến những điểm đặc sắc, tiến bộ trong chế định hôn nhân
của Bộ Quốc triều hình luật
Trước hết là do bộ luật này là sản phẩm lập pháp của triều Lê mà chủ yếu thuộc thời
Lê Sơ. Đây là thời kì chế độ phong kiến Đại Việt phát triển rực rỡ nhất, trong đó nhà
nước không chỉ bảo vệ địa vị thống trị và quyền lợi của giai cấp phong kiến mà còn đại
diện cho lợi ích của cộng đồng dân tộc và nhân dân. Nguồn gốc bình dân và sự ý thức
về sức mạnh của nhân dân trong cuộc chiến tranh giải phóng đã đưa tập đoàn phong
kiến Lê Sơ lên địa vị thống trị là một yếu tố cơ bản quyết định tính nhân dân và tính
đân tộc sâu sắc của Bộ Quốc triều hình luật được xây dựng với nhiều nét đặc sắc riêng
của luật pháp Đại Việt.
Hai là, do nhà làm luật triều Lê có trình độ kĩ thuật làm luật cao, có sự nhìn nhận đúng
về đặc điểm của xã hội Đại Việt và phong tục tập quán của người Việt thời bấy giờ,
đồng thời có được một ý niệm rằng luật pháp của nhà nước chỉ có hiệu lực và hiệu quả
thực tế khi nó phù hợp với xã hội và con người nước Việt. Bởi vậy chế định hôn nhân

và gia đình trong Bộ Quốc triều hình luật được xây dựng với nhiều nét đặc sắc riêng
của luật pháp Đại Việt.

22


IV.

HẠN CHẾ

Giống như các bộ luật phong kiến khác, các quy định về hôn nhân trong Bộ Quốc
Triều hình luật thể hện rõ bản chất giai cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu của nó là để bảo
vệ vương quyền địa vị và quyền lợi của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự xã hội và
gia đình gia trưởng phong kiến. Nó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức
Nho giáo.
Tuy nhiên xét trong thời điểm cụ thể thời bấy giờ, khi mà lễ giáo phong kiến đang
còn rất khắt khe và chi phối một cách mạnh mẽ thì Quốc triều hình luật được coi là Bộ
luật gần như là hoàn hảo.

V.

KẾT LUẬN

Quốc Triều Hình Luật là bộ luật có những thành tựu to lớn, có những nét riêng biệt,
thể hiện độc đáo bản sắc dân tộc và tính độc lập của một quốc gia có chủ quyền. Đây là
bộ luật đã khẳng định được giá trị và vị thế của mình trong lịch sử hệ thống pháp luật
của dân tộc và trên thế giới bởi những giá trị tiến bộ của nó vượt trước thời đại bấy giờ,
và mang tính nhân đạo nhân văn sâu sắc. Đặc biệt trong quan hệ hôn nhân và gia đình
Bộ luật đã bảo vệ được giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc như lòng hiếu thảo, sự
tôn kính ông bà, cha mẹ của con cháu; sự hoà thuận chung thuỷ giữa vợ chồng; sự kính

nhường hoà thuận giữa anh chị em, truyền thống tôn sư trọng đạo. Đồng thời các quy
định nghiêm khắc áp dụng trong mỗi vi phạm lễ nghi gia đình của Quốc Triều Hình
Luật có tác động rất lớn đến sự tự điều chỉnh hành vi trong gia đình khiến họ sớm có ý
thức về nghĩa vụ, trách nhiệm với bản thân và làm tròn bổn phận ở từng vị trí cụ thể
với gia đình mình. Như vậy, bộ luật đã hỗ trợ đắc lực cho sự giáo dục đạo đức trong
gia đình, trong xã hội, đã dùng pháp luật để xây dựng, củng cố những chuẩn mực và
giá trị đạo đức truyền thống của người Việt.

23



×