ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
------000------
BÀI THUYẾT TRÌNH MƠN
LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
ĐỀ TÀI: Quyền tài sản, quyền nhân thân
trong Bộ luật Hồng Đức
TP.HCM, 21/03/2016
Quốc triều hình luật (hay cịn gọi là Lê triều hình luật) được xây dựng, bổ sung, hồn
chỉnh trong thời Lê sơ và được Lê Thánh Tông ban hành vào năm 1483 trong thời gian
ông lấy niên hiệu là Hồng Đức nên cịn có tên gọi khác là Luật Hồng Đức. Đây là một
cơng trình pháp luật tiêu biểu được nhà Hậu Lê xây dựng, có thể khẳng định rằng, Luật
Hồng Đức là bộ luật tiến bộ nhất, hoàn chỉnh nhất trong các bộ luật ở Việt Nam thời
phong kiến; là cơng trình có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam; là một trong
những thành tựu tiêu biểu của nền văn hiến nước ta. Bộ luật ấy chứa đựng nhiều giá trị
nhân văn sâu sắc và nội dung tư tưởng rộng lớn, là cơ sở nền tảng trong việc xây dựng
nhà nước phong kiến thịnh trị thời Lê sơ. Mặc dù mang bản chất giai cấp phong kiến
nhưng bộ luật Hồng Đức lại chứa đựng nhiều yếu tố, giá trị tích cực, tiến bộ với những
quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới, của nơ tì, người cơ quả, tật
nguyền… chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại, trong đó cần phải
nhấn mạnh và khẳng định đến một giá trị nổi bật là những quyền tối thiểu nhưng cơ bản
của con người, đặc biệt là của người dân được thừa nhận, được tôn trọng và được bảo vệ
bằng pháp luật.
Luật Hồng Đức xứng đáng là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam trên cả hai bình diện
quốc tế và quốc gia. Trên bình diện quốc tế, phân tích đối chiếu các điều khoản của Luật
Hồng Đức với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế được quy định trong Hiến Chương Liên
Hiệp Quốc (Điều 1 và Điều 56), bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và 7 công ước
quốc tế về nhân quyền (6), ta thấy những quy định của Luật Hồng Đức rất gần gũi với
những tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế ngày nay trong cả bốn lĩnh vực: quyền tồn vẹn
thân thể; quyền bình đẳng; các quyền dân sự và chính trị; các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa.
(Chú thích BLHĐ: Bộ luật Hồng Đức)
I.
Sơ lược về Quyền nhân thân và Quyền tài sản
1. Quyền nhân thân
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên sẽ phát sinh khi tham gia quan hệ pháp luật.
Vậy nên muốn hiểu rõ về quyền nhân thân trước hết cần phải hiểu rõ về quan hệ nhân
thân:
1.1.Quan hệ nhân thân và các đặc điểm quan hệ nhân thân
3
1.1.1 Khái niệm quan hệ nhân thân:
Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân của cá
nhân hoặc tổ chức.Việc xác định một giá trị tinh thần là quyền nhân thân phải được pháp
luật thừa nhận như một quyền tuyệt đối của một cá nhân, tổ chức.
1.1.2 Đặc điểm quan hệ nhân thân:
+ Quan hệ nhân thân luôn liên quan đến lợi ích tinh thần. Lợi ích tinh thần có thể là
những giá trị tinh thần được pháp luật tôn ghi nhận và mọi người tôn trọng như danh dự,
nhân phẩm, uy tín,… Những lợi ích tinh thần đó có thể là kết quả lao động sáng tạo của
con người (các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học,…). Lợi ích tinh thần là yếu tố chi
phối quan hệ nhân thân để phân biệt với quan hệ tài sản, luôn liên quan đến tài sản.
+ Các lợi ích tinh thần khơng thể bị hạn chế hoặc tước bỏ, trừ trường hợp được
pháp luật quy định. Mỗi chủ thể có những giá trị nhân thân khác nhau nhưng được bảo vệ
như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm.
+ Quan hệ nhân thân không xác định bằng tiền – Giá trị nhân thân và tiền tệ
không phải là những đại lượng tương đương và trao đổi ngang giá, nói cách khác về mặt
pháp lý thì quan hệ nhân thân mang tính phi tài sản.
1.2.Quyền nhân thân
1.2.1 Khái niệm
Quyền nhân thân là thuật ngữ pháp lý để chỉ những quyền gắn với bản thân con
người, gắn liền với đời sống riêng tư của mỗi cá nhân.Từ xưa đến nay khi nói đến quyền
nhân người ta thường liên tưởng ngay đến những quyền có liên quan mật đến danh dự,
nhân phẩm, uy tín của cá nhân. Nói chung, quyền nhân thân là quyền để bảo vệ cái
“danh” của mỗi con người bao gồm: danh dự, danh tiếng, danh hiệu…. và cịn có thể hiểu
theo nghĩa rộng là những quyền thuộc nhóm quyền tự do của con người như quyền tự do
cư trú, quyền tự do kinh doanh, tự do việc làm,…nó cũng gắn với cá nhân và thỏa mãn
nhu cầu tinh thần của cá nhân. Điều 24 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Quyền nhân
thân được quy định là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho
người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khơng ai được lạm dụng quyền
nhân thân của mình xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác. Mọi người có nghĩa vụ tơn trọng quyền nhân thân của người khác”.
4
1.2.2 Đặc điểm
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với cá nhân mà không thể chuyển giao cho
các chủ thể khác, nói cách khác quyền nhân thân khơng thể là đối tượng trong các giao
dịch dân sự giữa các cá nhân.Cụ thể, quyền nhân thân là một quyền dân sự đặc biệt bởi
các quyền này chỉ thuộc về cá nhân, trong khi đó các quyền khác (quyền tài sản) có thể
thuộc về chủ thể khác. Hơn nữa, quyền nhân thân có tính chất phi tài sản đồng nghĩa với
việc quyền nhân thân không bao giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn với tài sản (tài
sản này là các tài sản tinh thần như đặt tên tác phẩm, đứng tên tác giả,…) và quyền nhân
thân không gắn với tài sản. Bên cạnh đó, quyền nhân thân là do Nhà nước “trang bị” cho
mỗi cá nhân, Nhà nước không cho phép bất cứ cá nhân nào làm thay đổi hay chấm dứt
quyền đó. Đây là những đặc điểm cơ bản của quyền nhân thân trong pháp luật hiện hành.
1.2.3 Quy định về quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự 2005
BLDS 2005 liệt kê tương đối nhiều các quyền nhân thân (từ Điều 26 đến Điều 51),
bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền
được khai sinh, khai tử; quyền đối với hình ảnh; quyền được đảm bảo an tồn về tính
mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người;
quyền xác định lại giới tính; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật
đời tư; quyền kết hơn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa
các thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền
được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư
trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo. Điều 738
và Điều 751 BLDS 2005 còn quy định thêm một số quyền nhân thân như: quyền đặt tên
cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc
bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép người khác
công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự tồn vẹn của tác phẩm, khơng cho người khác sửa
chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm; quyền đứng tên tác giả trong văn bằng bảo hộ sáng
chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.
1.3. Ý nghĩa việc bảo vệ Quyền nhân thân
Khác với các quyền dân sự khác, quyền nhân thân thể hiện trong nhiều lĩnh vực của
đời sống cá nhân, đặc biệt có ý nghĩa lớn trong đời sống tinh thần cá nhân. Vì vậy việc
bảo vệ quyền nhân thân có tác dụng kịp thời ngăn chặn các hành vi xâm hại đến quyền
nhân thân của cá nhân, bảo đảm trật tự pháp lí xã hội và giáo dục ý thức pháp luật, bảo
5
đảm đời sống tinh thần của mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho cá nhân lao động và sáng tạo.
Tuy vậy khác với các quyền dân sự khác quyền nhân thân của mỗi cá nhân không được
định giá bằng tiền nên nếu có hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân thì việc bồi thường
khắc phục thiệt hại khơng thể tính tốn cụ thể, chỉ là tương đối và mang tính giáo dục là
chủ yếu.
2. Khái quát về Quyền tài sản
Tài sản, vật và quyền. Theo nghĩa thông dụng và hầu như khơng có tính pháp lý, thuật
ngữ tài sản dùng để chỉ một vật được con người sử dụng, một vật hữu hình, như cái bàn,
cái ghế, chiếc xe máy,… nghĩa là vật mà ta có thể nhận biết bằng giác quan tiếp xúc. Tuy
nhiên, không phải vật hữu hình nào cũng là tài sản. Tất cả mọi người đều sử dụng khơng
khí, nhưng cho đến nay, khơng khí chưa bao giờ được coi là tài sản theo nghĩa của luật
dân sự. Suy cho cùng, chỉ có thể được coi là tài sản những vật mà trên vật đó chủ thể của
quan hệ pháp luật xác lập được các quyền cho phép khai thác lợi ích vật chất từ vật và lợi
ích đó có giá trị tiền tệ. Bởi vậy, ta nói rằng một vật hữu hình là tài sản trong điều kiện nó
là đối tượng của các quyền định giá được bằng tiền. Nói cách khác, vật hữu hình trở thành
tài sản một khi nó được pháp lý hoá thành các quyền định giá được bằng tiền.
Khái niệm quyền có giá trị tiền tệ gắn với vật hữu hình, một khi được định hình trong
pháp luật về tài sản, có tính độc lập tương đối với vật hữu hình và tính độc lập tương đối
đó cho phép đi xa hơn trong việc xác định phạm vi bao quát của khái niệm tài sản bằng
cách xây dựng khái niệm tài sản khơng phải là vật hữu hình. Một mặt, có những quyền
định giá được bằng tiền, nhưng lại khơng được thực hiện trên một vật mà lại gắn liền với
một hoạt động: phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, tác phẩm văn chương, khoa học,
nghệ thuật, mạng lưới tiêu thụ hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ của thương nhân, thương
hiệu,… Mặt khác, quyền đòi nợ rõ ràng cũng là một quyền có giá trị tiền tệ nhưng khơng
có đối tượng là một vật hữu hình nào: người có quyền địi nợ thực hiện quyền của mình
bằng cách yêu cầu người mắc nợ thực hiện nghĩa vụ trả nợ và tiếp nhận việc thực hiện
nghĩa vụ đó dưới hình thức nhận một số tiền. Xuất phát từ suy nghĩ ban đầu, theo đó, tài
sản là một vật, ta nói rằng các vật là đối tượng của quyền được ghi nhận trong hai trường
hợp vừa nêu không thể được nhận biết bằng giác quan tiếp xúc. Ta gọi các vật như thế là
vật vơ hình. Quyền định giá được bằng tiền, trong chừng mực đó, là tài sản trong điều
kiện nó được vật chất hố thành một vật (dù là vật vơ hình) phân biệt với một vật khác.
Tóm lại, vật và quyền là hai mặt không tách rời của tài sản. Có thể nói rằng nếu khái
niệm vật được dùng để chỉ tài sản về phương diện vật chất, thì khái niệm quyền được
dùng để chỉ tài sản về phương diện pháp lý.
6
Vấn đề đặt ra trong khoa học luật Việt Nam, việc người làm luật bỏ quên các quyền
tài sản không chuyển giao được trong giao lưu dân sự không phải là thiếu sót nghiêm
trọng lắm. Thực vậy, khi xây dựng chế định hợp đồng mua bán, người soạn thảo luật dành
riêng một điều luật để nói về mua bán quyền tài sản (Ðiều 442) sau khi đã nói xong về
việc mua bán tài sản (Ðiều 421 đến 441). Các quy định liên quan đến mua bán tài sản chỉ
chi phối các quan hệ mua bán có đối tượng là vật hữu hình; các quy định về mua bán
quyền tài sản, về phần mình, có vẻ như chỉ liên quan đến các hợp đồng mua bán có đối
tượng là tài sản vơ hình. Ngồi ra, khi nói về việc cầm cố quyền tài sản (Ðiều 338), luật
quy định rằng người cầm cố (quyền tài sản) phải báo cho người có nghĩa vụ biết về việc
cầm cố. Quyền tài sản được đề cập trong điều luật đó hồn tồn được đồng hố với quyền
đòi nợ (Droit créance) (điểm chứng minh quyền tài sản theo luật việt nam không mang
nghĩa Droit réel như luật của Pháp). Mặt khác, tại Ðiều 328, người làm luật nói rằng
quyền sử dụng đất cũng là một quyền tài sản và có thể được dùng để thế chấp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ…
Từ kết quả phân tích ấy, có thể thừa nhận rằng trong suy nghĩ của những người soạn
thảo Ðiều 188 Bộ luật dân sự năm 2005, quyền tài sản là một khái niệm đối lập với tài sản
hữu hình và là một yếu tố có tác dụng đặt cơ sở cho việc xây dựng một hệ thống phân loại
tài sản đặc thù, bên cạnh các hệ thống phân loại kinh điển – động sản và bất động sản, vật
chính và vật phụ,… Với hệ thống phân loại đó, ta có một bên là các tài sản hữu hình
(động sản và bất động sản hữu hình), bên kia là các quyền tài sản, tức là các động sản vơ
hình (quyền địi nợ, quyền sở hữu trí tuệ,…). Quyền tài sản trở thành một khái niệm rất
hẹp và khơng đủ tầm vóc để đảm đương vai trị đối trọng với quyền nhân thân, là những
quyền khơng có giá trị tài sản, trong luật dân sự.
Bởi vậy, vấn đề, suy cho cùng, không phải là làm thế nào để bổ sung, hoàn thiện Ðiều
188 BLDS, mà là làm thế nào để xây dựng chế định quyền tài sản với tư cách là sự biểu
hiện pháp lý của một vật có giá trị tiền tệ, chứ khơng chỉ đơn giản là quyền địi nợ hay
quyền sở hữu trí tuệ như trong suy nghĩ của người soạn thảo điều luật đã dẫn.
Chúng ta chia Quyền tài sản thành hai phạm trù sau để dễ phân tích :
2.1. Quyền sở hữu
Khái niệm: Quyền sở hữu là quyền của cá nhân đối với tài sản của mình trong việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, cá nhân có quyền sở hữu đối với tài sản có được một cách
hợp pháp, khơng ai có quyền tước đoạt trái pháp luật tài sản của người khác, chỉ trong
7
trường hợp thật cần thiết vì lý do an ninh quốc phịng, lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội thì
nhà nước trưng mua có bồi thường theo quy định của pháp luật.
Nội dung của Quyền sở hữu bao gồm:
- Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.
- Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.
- Quyền định đoạt là quyền của các chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của
mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó.
Căn cứ xác lập quyền sở hữu:
- Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
- Được chuyển quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền;
- Thu hoa lợi, lợi tức;
- Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến;
- Được thừa kế tài sản;
- Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh
rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự
nhiên;
- Chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai
phù hợp với thời hiệu luật định;
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Căn cứ chấm dứt quyền sở hữu:
- Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác;
- Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình;
8
- Tài sản bị tiêu huỷ;
- Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu;
- Tài sản bị trưng mua;
- Tài sản bị tịch thu;
- Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di
chuyển tự nhiên mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu trong các điều kiện do
pháp luật quy định; tài sản mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại
khoản 1 Điều 247 của Bộ luật Dân sự 2005.
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
2.2. Quyền thừa kế
Khái niệm: Quyền thừa kế là quyền của cá nhân được hưởng di sản của người khác để
lại và quyền để lại tài sản của mình cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Quyền thừa kế phản ánh quyền quyền định đoạt đối với tài sản và quyền sở hữu hợp pháp
của người thừa kế.
- Đặc điểm di sản:
Theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.” Di sản thừa kế có
thể là hiện vật, tiền, giấy tờ trị giá được thành tiền, quyền tài sản thuộc sở hữu của người
để lại di sản.
- Các trường hợp thừa kế:
+ Thừa kế theo di chúc: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản
của mình cho người khác sau khi chết.
- Các điều kiện để di chúc có hiệu lực pháp luật
+ Người lập di chúc phải là người thành niên, trừ trường hợp người đó bị bệnh
tâm thần hoặc các bệnh khác mà khơng thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình
9
(Người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha mẹ hoặc người
giám hộ đồng ý).
+ Nội dung di chúc không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội.
+ Người lập di chúc phải hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, sáng suốt.
+ Hình thức di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật: di chúc bằng văn
bản hoặc di chúc bằng lời nói.
Thừa kế theo pháp luật: Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều
kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
- Các trường hợp thừa kế theo pháp luật:
+ Khơng có di chúc;
+ Di chúc khơng hợp pháp;
+ Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm
với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc khơng cịn vào
thời điểm mở thừa kế;
+ Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà khơng có
quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
+ Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
+ Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc khơng có hiệu lực pháp luật;
+ Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ khơng
có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm
với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc,
nhưng khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế.
II. Quyền nhân thân trong Bộ luật Hồng Đức
Do Bộ luật Hồng Đức có niên đại khá lâu đời và là một trong những thư tịch cổ
nhất Việt Nam, khác với pháp luật hiện đại, nên chưa có sự xuất hiện của định nghĩa về
10
quyền nhân thân trong BLHĐ mà chỉ có thể hiểu quyền nhân thân theo nghĩa hiện đại từ
những quan hệ dân sự trong xã hội và những tư tưởng lập pháp hướng đến bảo vệ giá trị
quyền con người. Nhìn chung, theo BLHĐ quyền nhân thân chưa được quy định rõ nét và
cụ thể như Bộ luật hiện hành nhưng cũng phần nào thể hiện được ý nghĩa cũng như những
quan hệ pháp luậtlàm phát sinh quyền nhân thân.
1. Quyền nhân thân trong quan hệ gia đình
Ở Việt Nam và một số nước Á Đông, trong luân lý và đạo đức truyền thống đều
hướng tới việc xây dựng gia đình bền vững, lâu dài, một trách nhiệm, một luân lý và đạo
đức mà tình cảm cá nhân phải phụ thuộc vào đó. “Con người vừa mới sinh ra đã phải là
người con có hiếu và thuận hồ - cả cuộc đời đều hiến thân cho gia đình, lấy cơng việc
xây dựng gia đình làm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Hạnh phúc và danh dự cá
nhân được gắn chặt với hạnh phúc và danh dự gia đình”. Triều Lê đặc biệt chú trọng đến
vấn đề gia đình, coi gia đình là cơ sở quan trọng bậc nhất để tạo lập kỉ cương và ổn định
xã hội nên Bộ luật đã điều chỉnh các quan hệ như quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng,
giữa cha mẹ và con cái, giữa các thân thuộc khác (vợ cả-vợ lẽ, anh-chị-em, cha mẹ-con
ni, vai trị của người tơn trưởng tức trưởng họ).
1.1.
Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng:
Đây là mối quan hệ cơ bản nhất quyết định sự bền vững trong hôn nhân. Thông qua
mối quan hệ này phản ánh khá đầy đủ và toàn diện về đời sống thực tế của một gia đình
và biểu hiện trên các phương diện sau:
1.1.1. Quyền và nghĩa vụ đồng cư:
Phong tục tập quán và lễ nghĩa Nho giáo đã điều chỉnh quan hệ vợ-chồng, tuy nhiên
luật Hồng Đức cũng có các quy định nhằm điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ nhân thân
như: Nghĩa vụ phải chung sống tại một nơi và phải có trách nhiệm với nhau, chăm sóc lẫn
nhau (các Điều 321 và 308). Người chồng với tư cách là gia trưởng, là người chủ trong
gia đình phải có trách nhiệm với vợ con, không được ngược đãi vợ (Điều 482).
Trong hệ thống ngũ luân, quan hệ vợ chồng được xếp hàng thứ ba, một vị trí khơng
kém phần quan trọng để thiết lập trật tự xã hội thời phong kiến, cho nên người chồngđược
phép có nhiều vợ nhưng khơng được ruồng bỏ vợ con. Rằng nếu người chồng chểnh
mảng hay bỏ bê vợ mình vì si mê một người đàn bà khác thì bị trừng phạt nếu vợ y cáo
11
giác trước cửa quan (có thể bị đánh trọng thương hay xử đồ được quy định tại Điều 309).
Người vợ chỉ khơng kiện được nếu người chồng xa nhà vì thừa hành công vụ.
Nghĩa vụ trên đồng thời cũng đặt ra với người vợ. Nếu người vợ vô cớ bỏ nhà đi,
khơng chăm sóc chồng con sẽ bị xử hình phạt đồ ( Điều 321). Người vợ phải có nghĩa vụ
sống chung với chồng, nơi mà chồng hay cha mẹ chồng đã lựa chọn.
Lần đầu tiên người vợ có thể kiện xin ly dị chồng. Trong Bộ luật Hồng Đức Điều
308: "Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và xã
quan làm chứng) thì mất vợ" hoặc Điều 333 Bộ luật Hồng Đức quy định: “Nếu con rể
mắng nhiếc cha mẹ vợ bởi chuyện phi lý, thưa lên quan sẽ cho ly dị” vì hành vi mằng
nhiếc, chửi mắng cha mẹ vợ bị xem là bất hiếu, trái với quan điểm Nho giáo.
Điều 167 - Hồng Đức thiện chính thư - quy định rõ hình thức thuận tình ly hơn: “Hai
vợ chồng bất hịa thuận nguyện xin ly dị, thì tờ ly hôn phải được viết bằng tay ký. Tờ này
phải được lập thành hai bản, vợ chồng mỗi người 1 bản tự phân chia 1 nơi. Người chồng
lý tên và người vợ điểm chỉ. Vợ chồng có thể nhờ người trong họ viết thay cũng được.
Song dùng hình thức ly hôn khác như: bẻ đồng tiền, chiếc đũa hay nhờ người ngồi viết
hộ thì tờ giấy ly dị đó khơng hợp pháp, vợ chồng phải đồn tụ lại.”
Mặc dù luật bắt buộc người chồng phải bỏ vợ ngoài ý muốn chủ quan, Điều 310 quy
định "Vợ, nàng dâu đã phạm vào điều nghĩa tuyệt (đoạn tuyệt hết ân nghĩa vợ chồng)
như: không con, ghen tuông, ác tật (mắc các bệnh như phong, hủi), dâm đãng, khơng
kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp mà người chồng ẩn nhẫn không bỏ thì phải tội biếm tùy
theo nặng nhẹ". Tuy nhiên, sẽ không thể ly hôn được nếu như khi phạm vào điều thất xuất
người vợ đang ở trong ba trường hợp (tam bất khứ): đã để tang nhà chồng 3 năm; khi lấy
nhau nghèo mà sau giàu có; khi lấy nhau có bà con mà khi bỏ lại khơng có bà con để trở
về.Về mặt kĩ thuật lập pháp, hai điều luật này tưởng chừng như ở rất xa nhau, nhưng chỉ
với một điều luật qui định “tam bất khứ” nhà làm luật đã hoàn thành xuất sắc việc bảo vệ
sự ổn định của gia đình, bảo vệ chế độ tơng pháp, hạn chế việc phá vỡ trật tự gia đình của
Nho giáo vì thế mà lưu giữ được những giá trị đạo đức trong gia đình, cũng là những giá
trị đạo đức của Nho giáo. Đồng thời, khi hai bên vợ chồng đang có tang cha mẹ thì vấn đề
ly hôn cũng không được đặt ra. Khi ly hôn, con cái thường thuộc về chồng, nhưng nếu
muốn giữ con, người vợ có quyền địi chia một nửa số con.
Từ đó có thể nhận thấy rằng, trong gia đình người vợ tương đối bình quyền với người
chồng và do đó, hơn nhân khơng chỉ coi là sự chuyển giao hồn tồn cơ gái từ gia đình
bên nội của mình sang gia đình chồng như ở Trung Quốc. Và bên cạnh sự ưng thuận của
12
cha mẹ hay các bậc tôn thuộc rất quan trọng thì sự ưng thuận của hai bên trai - gái cũng là
một thành tố được nhà lập pháp chú ý đến. Quy định như vậy quyền lợi của người phụ nữ
đã được bảo đảm và quan trọng vì nếu người chồng khơng làm trịn nghĩa vụ với vợ thì
người vợ cũng khơng buộc phải làm trịn bổn phận của mình. Sau khi ly hơn người vợ vẫn
có quyền được ni con nếu hợp lý. Những quy định này khơng có trong bất kỳ bộ luật
nào của Trung Quốc cũng như các văn bản cổ luật trước hay sau triều Lê và được các nhà
luật học quốc tế đánh giá cao vì theo họ ở phương Tây mãi tới cách mạng tư sản quyền
lợi, địa vị người phụ nữ mới được để ý. Đây là quy định nổi bật phản ánh tính sáng tạo
của nhà làm luật nhằm duy trì trật tự ổn định trong gia đình.
Theo tam tịng của Nho giáo đang rất thịnh hành vào thời Lê thì thân phận người phụ
nữ: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tịng tử”. Với quyền ly hơn của người
phụ nữ thì rõ ràng Nho giáo du nhập vào Việt Nam đã trở thành Nho giáo Việt Nam,
mang sắc thái của người Việt chứ khơng cịn là thứ Nho giáo nguyên bản nữa. Đúng như
một nhà nghiên cứu đã nhận xét Nho giáo ở nước ta như những lớp trầm tích đan xen, bện
chặt lấy nhau, gần như một khu rừng nhiệt đới rậm rạp.
1.1.2. Nghĩa vụ phục tùng nhà chồng
Truyền thống tơn trọng và phục tùng gia đình chồng vẫn ăn sâu vào tiềm thức của các
người dân Việt Nam. Đối với người vợ cả thì phải tỏ rõ vai trị quan trọng của mình trong
việc thờ tự, phụng sự chồng và là người vợ mẫu mực để các thê thiếp của chồng noi theo.
Trong Hồng Đức thiện chính thư nói rằng: “đạo làm vợ cả phải phục tùng nhà chồng,
siêng năng việc nữ công, không được tiện thiện đi về. Người vợ cả phải có đức hạnh mẫu
mực làm gương cho nàng hầu”. Người chồng dù có như thế nào thì vợ vẫn phải phục
tùng quyền uy tuyệt đối thậm chí ngay cả khi người chồng vi phạm pháp luật, người vợ
cũng không được tố giác; nếu ngược lại sẽ bị khép vào tội thập ác ( khoản 8 Điều 2 Bộ
luật Hồng Đức).
Điều này đã góp phần phát huy truyền thống dân tộc về việc giáo dục đức hạnh của một
người phụ nữ khi lấy chồng và coi gia đình là đơn vị căn bản của xã hội. Luật Hồng Đức
đảm bảo quyền lập một gia đình và đề cao sự đồn kết gia đình đến độ cho phép những
người trong gia đình che dấu lẫn cho nhau khi phạm pháp.
Tuy nhiên, khơng có nghĩa là khi có chồng người vợ bị tước đoạt mọi quyền cá nhân.
Dù là người chủ, trụ cột trong gia đình nhưng khơng được đối xử tàn bạo với vợ: “ chồng
đánh vợ bị thương hay chết cũng bị tội như đánh người khác hay chết nhưng được giảm
ba bậc. Nếu cố ý đánh chết chỉ được giảm một bậc” ( Điều 482). Đồng thời luật cũng quy
13
định tại Điều 481 khi vợ không phục tùng chồng, đánh chồng thì tùy mức độ xử lưu hay
tử.
1.1.3. Nghĩa vụ chung thủy
Nghĩa vụ này trước hết đặt ra đối với người vợ. Đầu tiên hôn phân phong kiến không
bao giờ chấp nhận người vợ cùng một lúc có nhiều chồng. Chính vì vậy, vi phạm nghĩa
vụ chung thủy là vi phạm một trong bảy “thất xuất” bắt buộc người chồng phải ly dị.
Theo Điều 401, nếu người vợ là gian phụ (ngoại tình) thì bị xử lưu, điền sản trả lại hết
cho người chồng. Đoạn 117 Hồng Đức thiện chính thư cịn phạt 50 roi và một khoản tiền
đối với con gái có chồng mà trăng hoa, khơng giữ mình trong kh mơn.
Dù là chế độ hơn nhân đa thê nhưng pháp luật vẫn quy định nghĩa vụ chung thủy đối
với người chồng, tất nhiên không khắt khe bằng người vợ. Điều 401 quy định: “ gian
dâm với vợ người khác thì xử lưu hay chết”, Điều 405 quy định thơng gian với vợ người
khác thì bị phạt 60 trượng, biếm hai tư và bắt nộp tiền tạ. Thông gian là có hành vi ngoại
tình, đi lại với vợ người chứ không phải gian dâm bắt tại chỗ nên bị phạt nhẹ hơn. Hồng
Đức chính thiện thư cịn phân biệt rõ hơn về hành vi gian dâm của người chồng. Tùy theo
đối tượng người chồng gian dâm là ai mà bị phạt tương ứng. Chẳng hạn gian dâm với vợ,
nàng hầu của người thì bị xử lưu, đánh 100 trượng; nếu gian dâm với bà góa thì chỉ xử đồ;
nếu thơng dâm với vợ thầy dạy học thì xử tội chết…
Qua đó có thể nhận thấy quy định này mặc nhiên thừa nhận những quyền và nghĩa vụ vợ
chồng do Nho giáo và tục lệ đặt ra nhằm mục đích bảo vệ tuyệt đối chế độ gia tộc phụ
quyền: thiên về quyền lợi pháp lý của người chồng, bảo vệ quyền lợi của người chồng với
tư cách là gia trưởng. Ở đây có nhiều quy định khắt khe về nghĩa vụ của người vợ và rõ
ràng, gia đình phụ quyền gia trưởng – hạt nhân, nền tảng của xã hội phong kiến, được nhà
nước bảo vệ với nhiều đặc quyền của người đàn ơng. Thực chất đó cũng chính một
phương thức để củng cố chế độ phong kiến trung ương tập quyền ngày càng cao hơn của
nhà Lê.
1.1.3. Nghĩa vụ để tang nhau:
Ngoài nghĩa vụ tang chế (tang phục của vợ đối với chồng) thì trong lúc có tang mà
quên buồn làm chuyện vui hay đi dự tiệc thì bị đánh 80 trượng. Tại khoản 9 Điều 2 Bộ
luật Hồng Đức quy định: “Hành vi không để tang chồng thuộc nhóm tội Thập ác và có
thể bị xử tử (bất mục)”.
1.2.
Quan hệ giữa cha mẹ với con cái
14
Nho giáo khái quát mối quan hệ này trong chữ “ hiếu”, phạm trù đứng thứ hai sau chữ
“ trung” trong hệ thống ngũ ln. Chính vì chữ hiếu có tầm quan trọng trong trật tự xã
hội phong kiến nên được các nhà làm luật rất quan tâm và quy định rất nhiều trong các
văn bản luật. Trong mối quan hệ này, nhà làm luật chủ yếu đưa ra các nghĩa vụ của con
cái đối với cha mẹ. Có thể khái quát mối quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con cái trên
mấy phương diện sau:
1.2.1. Con cái có trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ
Hành vi không phụng dưỡng, kính trọng cha mẹ thuộc nhóm Thập ác tội với mức
hình phạt rất nặng (Điều 2 Bộ luật Hồng Đức). Theo Hồng đức thiện chính thư thì tội bất
hiếu có thể áp dụng hình phạt tử và được thực hiện dưới hình thức lăng trì. Theo nhà làm
luật thời Lê, kính trọng bao gồm rất nhiều nghĩa vụ mà con cái phải tuân thủ. Con cái
không nghe lời cha mẹ thì xử đồ (Điều 506); lăng mạ, làm nhục cha mẹ thì xử lưu hay tử
(Điều 45); thậm chí cha mẹ phạm tội cũng khơng được tố cáo mà cịn che giấu, nếu làm
trái bị xử lưu hay tử (Điều 7) ; nếu cha mẹ phạm tội bị áp dụng hình phạt thì con cái phải
có trách nhiệm chịu tội thay ( Điều 38)…
Trong thời kì hơn nhân, trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ không chỉ đặt ra đối với
con đẻ mà còn đặt ra đối với cả dâu, rể. Đoạn 293 và 294 nêu rõ: “Nàng dâu nghỗ
nghịch, to tiếng, lỗ đạo con dâu, bóng gió khóe cạnh, dám lớn tiếng mà lăng lồn; cịn rể
con thì trái đạo, chẳng hoài nghĩa rể con, khi càng rỡ. Vậy cả hai điều khép vào tội bất
hiếu”.
Bên cạnh nghĩa vụ quy định nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ , pháp luật cũng quy
định cha mẹ phải có trách nhiệm với con cái trong gia đình từ việc sinh ra, ni dưỡng,
chăm sóc, dạy bảo cho đến khi thành người. Rồi sau đó phải lo việc dựng vợ gả chồng
cho con cái yên bề gia thất. Điều này được quy định rất rõ trong Chương Răng bảo của
Hồng đức thiện chính thư. Và đồng thời đưa ra một số hình phạt kèm theo nếu khơng
thực hiện những điều đã quy định “ con cái còn ở chung với cha mẹ mà ăn trộm thì cha
mẹ bị xử biếm, nếu chúng ăn cướp thì xử đồ. Nếu con khơng đủ tiền bồi thường thì cha
mẹ bồi thường thay. Con cái đã ra riêng thì chỉ xử biếm. Nếu đã báo quan rồi thì khơng
có tội, đã báo quan nhưng chứa trong nhà thì coi như chưa báo nên vẫn chịu tội”.
Từ đó có thể hiểu, trong tâm hồn của mỗi người Việt nam, ngay từ thuở lọt lòng đã được
giáo dục và ứng xử theo nguyên tắc hiếu - kính, con cái trong gia đình phải kính trọng,
hiếu thuận với ơng bà, cha mẹ, biết “kính trên nhường dưới”, người Việt quan niệm rằng
“hiếu là nhân cách con người, là gốc của nhân luân, là một giá trị xã hội cao quý”. Pháp
15
luật thời kỳ nhà Lê quy định con cái có nghĩa vụ phụng dưỡng, hiếu thảo với cha mẹ và
cho phép người trong gia đình được che chở lẫn nhau, nghiêm cấm sự tố cáo ơng bà, cha
mẹ - đó là đạo hiếu truyền thống của người Việt từ ngàn đời nay được thể chế hoá vào
trong luật, ngay cả trong trường hợp có sự xung đột giữa pháp luật và đạo đức thì đạo đức
vẫn được coi là cái gốc để điều chỉnh hành vi của con người.
1.2.2. Nghĩa vụ tế tự, cư tang, thờ cúng cha mẹ
Không chỉ lúc còn sống, khi cha mẹ mất đi con cái phải có trách nhiệm, lo lắng cho
chu tồn việc cư tang. Vi phạm nghĩa vụ này tùy mức độ nặng nhẹ mà gánh chịu những
hình phạt tương xứng và mức nặng nhất có thể là xử tử. Có tang cha mẹ mà khơng khóc
thì bắt tội đồ, khơng cúng kính mà còn mặt đồ lành, áo tốt, dự tiệc vui thì bắt tội trượng
(Điều 130). Cha mẹ chết mà nói láo là cịn tang người khác nên khơng để tang là xử đồ.
Viện lý xử biếm (Điều 534). Hồng đức thiện chính thư cịn dành ra hai mươi đoạn để quy
định rất chi tiết “ Lệ để tang”. Trong đó có các tang chính như: cha mẹ đẻ để tang ba năm
( đối với con trai hay con gái chưa chồng ) và 1 năm đối với con gái đã có chồng; với cha
mẹ chồng, con dâu để tang 3 năm; cha mẹ vợ, con rể để tang 3 tháng ( riêng bố mẹ của vợ
cả thì người chồng để tang 1 năm)…
Sách Trung dung có câu “Thờ cha mẹ lúc chết rồi cũng như lúc còn sống, ấy là hiếu đến
rất mực vậy…”. Sách Luận ngữ có câu: “Cẩn thận lúc cha mẹ chết, nhớ đến cha mẹ mà
thương xót thì cái đức của dân trở nên hậu…”. Vậy “ Cẩn thận lúc cha mẹ chết” là gì nếu
khơng phải lo việc cư tang, cúng kính, thờ tự. Tư tưởng này của Nho giáo rất phù hợp với
đạo đức, truyền thống của người dân Việt. Chính vì vậy mà được nhà làm luật quan tâm
rất đúng mức.
Ngoài ra, giữa cha mẹ và con cái cịn có một số quyền và nghĩa vụ khác. Cha mẹ làm
quan thì con cái được tập ấm ( dẫn dắt vào chốn quan trường) (Điều 13 BLHĐ); con cái
có cha mẹ thuộc hàng bát nghị khi phạm tội được ân giảm theo phẩm hàm của cha mẹ
(Điều 12 BLHĐ); nếu con cái của quan lại mang hàm cửu phẩm trở lên khi phạm tội nhẹ
được dùng tiền chuộc tội tương ứng với phẩm hàm của cha ( Điều 22 BLHĐ).
1.3. Quan hệ nhân thân giữa các anh chị em
Vì chế độ hơn nhân đa thê, phụ hệ nên các anh chị em trong gia đình có thể là cùng
cha khác mẹ. Ngồi ra cịn có thể có anh chị em trong gia đình có thể cùng mẹ hay là
cùng cha mà khác mẹ. Ngồi ra cịn có thể có anh chị em ni, dâu, rể…
16
1.3.1. Người con trai trưởng có nhiều quyền cũng như trách nhiệm đối với các anh
em khác trong gia đình
Trong trường hợp cha mẹ chết sớm, người con trai trưởng phải là “quyền huynh thế
phụ” thay mặt cha mẹ trông coi, quán xuyến mọi việc trong gia đình và quyết định đối với
những vấn đề quan trọng của gia đình, số anh em còn lại phải phục tùng mệnh lệnh đó
như là mệnh lệnh của người cha. Nếu các em cịn nhỏ phải lo chăm sóc, ni dưỡng. Nếu
đã trưởng thành phải lo dựng vợ gả chồng cho các em. Điều 314 BLHĐ quy định, khi cha
mẹ chết rồi, người anh trai trưởng có trách nhiệm sắm đồ sính lễ ( nếu là anh của đàng
trai) hay đứng ra nhận đồ sính lễ (nếu là anh của nhà gái) và tổ chức lễ thành hôn cho các
em.
Khi cha mẹ chết, nếu di sản thừa kế chưa phân chia được thì pháp luật tạm thời giao
cho người anh nắm giữ, quản lý mà các anh em khác không được tranh giành, nếu làm
trái thì coi như là hành vi bất hiếu và sẽ phạt trượng hay đồ (đoạn 84 Hồng Đức thiện
chính thư). Cho dù là anh em trong nhà nhưng lễ giáo phong kiến rất hạn chế trong việc
tiếp xúc, gần gũi lẫn nhau trong sinh hoạt hằng ngày, nhất là giữa anh chị em khác giới.
Đoạn 98 Hồng Đức thiện chính thư cấm anh chị em trong nhà ngồi cùng một chiếu, tắm
cùng một bến ( sông ), tay không được liền nhau, ai trái lệnh sẽ luận tội theo luật. Những
quy định này nhằmgiữ trật tự gia đình phong kiến, hòa thuận giữa anh em, đoạn 96
HĐTCT buộc người cha phải dạy cho con cái biết hòa thuận, kính trên nhường dưới,
khơng được nghe lời xúc xiểm của vợ, làm mất tình cốt nhục , đẻ nhơ nhuốc gia đình; nếu
để vậy là có tội. Tuy nhiên, pháp luật cũng dự liệu một số biện pháp điều chỉnh khi anh
chị em trong gia đình hiếp đáp, cưỡng bức, đánh đập nhau. Nhất là anh em cùng cha khác
mẹ, chị dâu em chồng, con ruột con nuôi … Điều 478 BLHĐ quy định: “ Đánh anh chị
em hàng ti ma trở lên ( để tang 5 tháng ) thì xử biếm tư, đánh bị trọng thương thì xử nặng
hơn đánh người thường một bậc, đánh chết thì xử chém”.Điều 512 quy định: “ Anh em
khơng cịn hịa thuận đến nỗi đưa nhau đến kiện tụng, ai trái lẽ bị xử tội nặng hơn người
thường một bậc”.
Kết luận: Đối với quan hệ hơn nhân và gia đình, nhà làm luật thời Lê đã chịu ảnh
hưởng sâu sắc tư tưởng của Nho giáo nhưng có cân nhắc cho phù hợp với tập quán,
truyền thống đạo đức của người Việt, qua đó biểu lộ được nét tinh vi, sự tiến bộ vượt bậc
trong kỹ thuật lập pháp. Việc qui định chặt chẽ những lễ nghi trong gia đình và trừng phạt
nghiêm khắc những người xâm hại lễ nghi thì Quốc Triều Hình Luật đã thể hiện sự kết
hợp chặt chẽ giữa Lễ và Hình. Qua đó, Bộ luật đã bảo vệ giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc như lòng hiếu thảo, sự tơn kính ơng bà, cha mẹ của con cháu; sự hoà thuận chung
17
thuỷ giữa vợ chồng; sự kính nhường hồ thuận giữa anh chị em, truyền thống tôn sư trọng
đạo. Đồng thời các qui định nghiêm khắc áp dụng trong mỗi vi phạm lễ nghi gia đình của
Quốc Triều Hình Luật có tác động rất lớn đến sự tự điều chỉnh hành vi trong gia đình
khiến họ sớm có ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm với bản thân và làm tròn bổn phận ở
từng vị trí cụ thể với gia đình mình. Như vậy, bộ luật đã hỗ trợ đắc lực cho sự giáo dục
đạo đức trong gia đình, trong xã hội, đã dùng pháp luật để xây dựng, củng cố những
chuẩn mực và giá trị đạo đức truyền thống.
Mặt khác, đốivới những sáng kiến độc đáo hơn so với pháp luật Trung Hoa, đã tinh
giản một cách linh động những giáo điều cứng nhắc của Nho giáo nhưng lại không làm
mất đi những tư tưởng nền tảng trong kinh sách Nho giáo cho phù hợp với thực trạng của
xã hội đương đại. Những tiến bộ này đã được các nhà lập pháp hiện đại rất chú ý, quan
tâm và tìm ra những hạt nhân hợp lí để kế thừa và phát huy chúng, vừa để bảo tồn di sản
văn hóa phi vật thể này. Và một sự thật của lịch sử khơng thể chối cãi được: gia đình ln
là nền tảng của xã hội. Đấy là những hạt nhân tiến bộ, là những nét đặc sắc trong pháp
luật phong kiến nhà Lê mà tiêu biểu là Bộ luật Hồng Đức.
2. Một số quyền nhân thân tiêu biểu khác
Cách đây 2500 năm, Khổng Tử đã đề cập đến vấn đề con người. Học thuyết nhân của
ông là học thuyết về con người. Khổng Tử là người đã rất chú trọng đến vai trị của con
người. Ơng đã coi con người là con người cho dù người đó là nơ lệ. Chủ nghĩa nhân đạo
của ông lấy hạt nhân là chữ hiếu - là quan hệ huyết thống tự nhiên của con người, quan hệ
huyết thống tự nhiên này là cơ sở cho chủ nghĩa nhân đạo của Khổng Tử, đã có ảnh
hưởng mạnh mẽ vào Việt Nam. Nó có tính hợp lý khi Khổng Tử đã kết hợp nhân ái (đạo
đức), huyết thống (quan hệ tự nhiên) và chế độ đẳng cấp (chính trị) lại với nhau; và nhân
ái là chất keo để gắn chặt mối quan hệ ngang dọc của xã hội ."Nhân" là phạm trù trung
tâm của toàn bộ học thuyết Khổng giáo.Khổng Tử nói nhiều đến chữ “Nhân” và coi
“Nhân” là cao ngất, là rộng đến sâu thẳm của đạo đức con người. Đây là quan điểm hết
sức tiến bộ, vì cho đến hơn 200 năm sau này, Aritstot vẫn xem nơ lệ chỉ là cơng cụ biết
nói.Quốc Triều Hình Luật chịu ảnh hưởng lớn tư tưởng của Khổng - Mạnh, đặc biệt là tư
tưởng về trách nhiệm của nhà cầm quyền với dân, vì mục tiêu trị quốc và thái bình thiên
hạ.Mặc dù khơng tránh được những ảnh hưởng về giai cấp, nhưng tiến bộ hơn cả là những
nhà làm luật triều Lê đã đưa ra nhiều qui định bảo vệ các lợi ích cơ bản của con người
trong xã hội đặc biệt là tầng lớp dưới. Những qui định này giúp ta thấy rõ được tính xã
hội sâu sắc của nhà nước phong kiến Việt Nam.
2.1. Quyềnphụ nữ và trẻ em được bảo hộ
18
Trong trường hợp cưỡng ép phụ nữ kết hôn sẽ bị tội, Điều 320 quy định như sau:
“Mãn tang chồng nhưng người vợ thủ tiết, nếu ngồi ơng bà, cha mẹ, kẻ nào khác gả ép
người phụ nữ đó thì bị biếm ba tư và buộc phải ly dị. Trả người đàn bà về chồng cũ…”
hoặc “những nhà quyền thế mà ức hiếp để cưới con gái lương dân thì xử phạt, biếm hay
đồ” (Điều 338).
Bộ luật Hồng Đức xử rất nặng đối với những trường hợp xâm phạm thân thể, tiết
hạnh của người phụ nữ, kẻ nào “hiếp dâm thì xử lưu hay chết.Phải nộp tiền tạ tội hơn một
bậc đối với tiền tạ tội gian dâm thường. Nếu gây thương tích cho người đàn bà thì xử
nặng hơn một bậc đánh người bị thương. Nếu làm chết người đàn bà thì điền sản kẻ
phạm tội phải giao cho nhà người bị chết” (Điều 403); “gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi
trở xuống, dù nó thuận tình thì vẫn xử như tội hiếp dâm” (Điều 404).
“Quan coi ngục, lại ngục, ngục tốt gian dâm với đàn bà, con gái có chuyện thưa kiện
thì tội nặng hơn một bậc so với tội gian dâm thơng thường. Nếu có thuận tình thì giảm 3
bậc tội cho các gian phụ ấy. Nếu họ bị hiếp thì khơng xử tội họ” (Điều 409). Đặc biệt tại
Điều 680 quy định: “Đàn bà phạm tội tử hình trở xuống, nếu đang mang thai thì phải đợi
sau khi sinh đẻ 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục
quan bị biếm hai tư, ngục lại bị tội đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh nhưng chưa hết hạn
100 ngày mà hành hình thì ngục quan và ngục lại bị xử biếm hay bị phạt. Nếu khi chưa
sinh mà thi hành tội đánh roi thì ngục quan bị phạt 20 quan tiền, ngục lại bị đánh 80
trượng. Nếu do đánh roi dẫn đến trọng thương hay chết thì xử vào tội “quá tất sát
thương” (lỡ tay giết người, làm bị thương người)…”.
Bên cạnh bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, Bộ luật Hồng Đức còn chú ý đến đối
tượng trẻ em,Điều 313 quy định: “Trẻ nhỏ mồ côi và phụ nữ tự bán mình làm người ở nếu
khơng người bảo lãnh thì kẻ mua và kẻ viết văn khế, kẻ làm chứng đều bị xử roi, trượng
theo luật (nữ bị đánh 50 roi, nam bị đánh 80 trượng) đòi lại tiền trả cho kẻ mua, hủy bỏ
văn khế. Kẻ cô độc, khốn cùng từ 15 tuổi trở lên tự nguyện bán mình thì cho phép”.Điều
436 quy định “kẻ nào trấn lột lấy quần áo và đồ vật của trẻ con... thì phải chịu tội đồ và
phải bồi thường gấp đơi”.
Nếu ai “bắt được trẻ con đi lạc thì phải báo quan làm bằng chứng thật, có ai đến
nhận thì được lấy tiền ni dưỡng (mỗi tháng 5 tiền) trái luật khơng cho người ta nhận
con thì xử tội nhẹ hơn tội quyến rũ một bậc” (Điều 604). Trường hợp kẻ nào “làm chuyện
ngược ngạo (lượm trẻ lạc về, khơng ni cịn hành hạ) để đến nỗi con người ta chết thì
đánh 80 trượng, đền 5 quan tiền nhân mạng cho cha mẹ đứa trẻ chết” (Điều 605).
19
2.2. Quyền tự do giáo dục
2.2.1. Quyền hưởng cơ hội đồng đều về giáo dục:
Luật Hồng Đức khơng có các quy định cấm đoán, hạn chế quyền học tập của nhân
dân. Trừ vài biệt lệ, mọi người không phân biệt tuổi tác, giới tính, nguồn gốc hay địa vị
đều được tự do theo đuổi học vấn và đi thi để rồi được tuyển dụng làm quan. Một mạng
lưới giáo dục cơng lập miễn phí được thiết lập từ trung ương tới địa phương. Ở cấp quốc
gia có Quốc Tử Giám hay Quốc Học Viện liên kết với Văn Miếu và Hàn Lâm Viện tại
kinh đơ. Luật khơng có sự phân biệt thành phần xuất thân, dân tộc hoặc tiêu chí nào khác
để có sự ưu tiên thu nhận vào học Quốc Tử Giám hoặc cộng thêm điểm để lấy đỗ trong
các kì thi. Ai vượt qua khảo thi (thi tốn, thi viết chính tả) thì được vào dự thi hương. Ai
thi đỗ kì thi hương thì được vào thi hội. Ai thi đỗ kì thi hội thì được dự kì thi đình.
Trường cơng lập ở cấp tỉnh do quan Đốc học, ở cấp thành do quan Giáo thụ và ở cấp
huyện do quan Huấn đạo điều khiển.
2.2.2. Quyền tự do mở trường dạy học
Tư nhân có quyền tự do mở trường dạy học. Một mạng lưới tư thục được thiết lập từ
thành thị tới thôn quê bởi các thầy đồ vốn là nhà nho hỏng thi, hay quan lại bị bãi chức
hay về hưu. Trường tư được tự do cạnh tranh với trường cơng và độc lập với chính quyền
về mọi mặt.
2.2.3.Quyền tự do chọn trường học và chọn thầy dạy học
Quyền này được đảm bảo một cách rộng rãi vì phụ huynh có thể mời thầy về nhà dạy
con mình đi thi đến học vị tiến sĩ. Tuy nhiên, quyền tự do giáo dục cũng bị hạn chế xét
theo tiêu chuẩn nhân quyền ngày nay ở vài điểm. Có những loại người không được tiến
thân theo đường khoa bảng mặc dầu quyền đi học của họ vẫn được tôn trọng : “những
người thuộc loại bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân, điêu toa,…dẫu học giỏi văn thơ
hay cũng không cho vào dự thi. Nhà phường chèo, con hát và những kẻ phản nghịch,
ngụy quan có tiếng xấu thì bản thân và con cháu đều không được dự thi”. Điều này nhằm
ngăn ngừa không cho những kẻ xấu bước vào con đường quan lại. Ngồi ra, ngun tắc
‘tính trung lập ý thức hệ và thế tục’ của nền giáo dục công lập trong chế độ dân chủ ngày
nay không được Luật Hồng Đức nhìn nhận vì Khổng Giáo là ý thức hệ chính thức.
Từ nhừng luận điểm trên có thể thấy, những quy định trên tuy chưa hồn thiện nhưng đã
thể hiện tư tưởng đề cao học thức rất tiến bộ, nhưng có học thức mà khơng có đạo đức thì
20
vẫn khơng đủ phẩm chất làm quan. Bình đẳng, cơng bằng trong học tập và thi cử là tiền
đề cho việc nâng cao dân trí và đào tạo được nhiều hiền tài mà trước và sau đó chưa một
vị vua nào làm được như Lê Thánh Tông.
2.3. Quyền được hưởng an sinh xã hội
2.3.1. Quyền được chăm sóc sức khỏe
Lịng từ bi bác ái đã được các đạo giáo, các thánh hiền trên thế giới nói đến từ rất lâu
nhưng đó chỉ là những lời khuyên. Mãi đến cuối thế kỉ XVIII vào đầu thế kỉ XIX, khi các
phong trào đấu tranh đòi nhân quyền của quần chúng lao khổ chống lại sự hà khắc, vô
cảm của chế độ phong kiến lan rộng, các điều luật mang tính nhân đạo mới được ghi nhận
một cách dè dặt trong luật pháp phương Tây. Nhưng ở Việt Nam, vào giữa thế kỉ XV, vấn
đề nhân đạo đã được luật hóa bằng các điều luật trong Bộ luật Hồng Đức. Trong Luật
Hồng Đức đã có hai điều luật khiến các nhà xã hội học, luật học ngày nay rất đỗi ngạc
nhiên và khâm phục. Cụ thể:
Điều 294:“Trong kinh thành hay phường ngõ và làng xóm có kẻ đau ốm mà khơng ai
ni nấng nằm ở đường xá, cầu điếm, chùa quán thì xã quan ở đó dựng lều lên mà giữ
gìn săn sóc và cho họ cơm cháo thuốc men cốt cứu sao cho họ sống, không được bỏ mặc
rên rỉ khốn khổ. Nếu khơng may mà họ chết thì phải trình quan và tùy theo điều kiện mà
chôn cất, không được để phơi lộ thi hài; nếu trái lệnh này thì quan phường xã phải tội
biếm hay bãi chức. Nếu người ốm đau đến ở những chùa quán mà người trụ trì chùa
qn khơng trình lên quan biết và tùy tiện ni nấng giữ gìn người ta thì cũng phải
phạt.”
Điều 295:“Những người góa vợ, góa chồng, mồ cơi và người tàn tật nặng, nghèo khổ
khơng có người thân thích để nương tựa, khơng thể tự mình ni sống được, quan sở tại
thu ni họ mà bỏ rơi họ thì bị xử đánh 50 roi, biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo mà
quan lại ăn bớt đi thì phải khép vào tội như quan giữ kho ăn bớt của công.”
2.3.2. Quyền khơng bị bỏ đói
Vua Lê Thánh Tơng đã ban hành những chính sách cho thấy sự tiến bộ về mặt tư
tưởng, điều mà 500 năm sau Liên Hiệp Quốc mới đề ra,đó là việc quy định về quyền
khơng bị bỏ đói thơng qua các biện pháp như: cải thiện phương pháp sản xuất và phân
phối thực phẩm. Nhằm đảm bảo cho dân khơng bị bỏ đói bằng các cơng trình thủy lợi,
khuyến nông, khẩn hoang, mở đồn điền và đảm bảo sự công bằng trong việc quân cấp
21
cơng điền. Luật Hồng Đức cịn khuyến khích phát triển quyền tư hữu ruộng đất bằng cách
công nhận về pháp lý quyền này cho những người đã chiếm cứ lâu năm những đất hoang
hóa và chưa ghi sổ bộ.
Ngồi ra,Vua Lê Thánh Tơng cịn cứu đói bằng cách đặt cho nhà nước bổn phận phân
phối thực phẩm cùng với những biện pháp khác để cứu trợ những người bị mất mùa do
thiên tai hay loạn lạc, miễn thuế nông nghiệp, bắt điền chủ giảm tô theo tỷ lệ thất thu của
tá điền, ổn định giá thóc bằng cách bán thóc nhà nước với giá hạ cho những người đói
(gọi là bình chuẩn thương, xã thương) và lập kho thóc cứu trợ (gọi là nghĩa thương).
Tư tưởng nhân đạo, tôn trọng và bảo đảm quyền được hưởng an sinh xã hội đối với nhóm
yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và được các nhà lập
pháp Việt Nam tiếp thu có chọn lọc, tái hiện trong các quy định của pháp luật hiện hành
như: Luật Chăm sóc sức khỏe nhân dân, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người cao tuổi, Luật
về người khuyết tật,…
Kết luận: Mặc dù ra đời từ thế kỉ XVBộ “Quốc triều hình luật” đã đạt được giá trị
nhất định và thành tựu nổi bật, qua các đặc điểm tiến bộ và ưu thế hơn hẳn các bộ luật
trước và cả sau nó.
Điểm tiến bộ nổi bật nhất mà chúng ta thường đề cập đến nhiều nhất chính là sự quan
tâm nhiều đến địa vị của người phụ nữ, quan tâm đến quyền lợi của họ, cho họ một sự
bình đẳng tương đối đối với đàn ông trong xã hội và người chồng trong gia đình. Có lẽ vì
thế mà chúng ta mới thấy xuất hiện trong lịch sử những Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương,
Bà huyện Thanh Quan... mạnh mẽ, mãnh liệt, khát khao bày tỏ tình cảm, mà cũng sâu sắc,
trầm lắng biết bao! Họ lên tiếng cho người phụ nữ. Họ đấu tranh cho người phụ nữ... Và
cho đến bây giờ, dưới thời đại Hồ Chí Minh, người phụ nữ đã bình đẳng với nam giới,
khơng cịn sự "trọng nam khinh nữ" nữa, quyền lợi của người phụ nữ đã được công nhận
và bảo vệ như nam giới, thì chúng ta mới thấy được những quyền lợi của người phụ nữ
xưa vẫn cịn q ít ỏi, họ cịn bị gị bó, ràng buộc, chi phối bởi biết bao nhiêu nguyên tắc
đạo đức phong kiến, những "tam tòng, tứ đức"... Tuy nhiên, phải thấy rằng, nhà nước thời
Lê đã bắt đầu nhận thấy vai trò lớn lao của người phụ nữ trong sản xuất và trong cuộc
sống. Đó là điều tiến bộ trong các triều đại phong kiến Việt Nam và chính là yếu tố góp
phần làm nên sự đặc biệt và tiến bộ đi trước thời đại của bộ luật này.
“Quốc triều hình luật” cịn quan tâm bảo vệ những quyền cơ bản của con người. Mặc
dù mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng bộ luật Hồng Đức lại chứa đựng nhiều yếu
tố tiến bộ với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới, của nô
22
tì, người cơ quả, tật … Nhiều quy định của bộ luật tập trung bảo vệ người dân chống lại
sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại. Đặc biệt bộ luật Hồng Đức cịn có các
quy định về bảo vệ quyền lợi của bà mẹ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, điều đó phản ánh
truyền thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm gốc”, lấy
làng xã làm nền tảng của quốc gia.
III. Quyền tài sản trong Bộ luật Hồng Đức
Trong Bộ Luật Hồng Đức, có thể nói những quy định về các quyền bình đẳng và các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là những nét son nổi bật nhất. Vì trên bình diện quốc tế
lẫn bình diện quốc gia, ta đều có thể nhận ra sự tiến bộ, “đi trước” của BLHĐ so với thế
giới và các quốc gia trong khu vực. Nhưng chúng ta cũng không thể phớt lờ một trong
những vần đề quan trọng khác: Quyền tài sản. Đây là một quyền quan trọng trong lĩnh
vực dân sự,nó gắn trực tiếp với cuộc sống hằng ngày của dân chúng. Tuy khác với pháp
luật dân sự hiện đại, BLHĐ khơng có những định nghĩa cơ bản đối với các quyền đối với
tài sản, quyền sở hữu,… nhưng từ trong các quy định mang tính cấm đốn, bảo hộ quyền
sở hữu mà chỉ có chủ sở hữu mới được phép thực hiện, trừ khi tài sản đó được giao dịch
hợp pháp, ta có thể nhận thấy được sự coi trọng đối với quyền tài sản của pháp luật thời
Lê.
Nhìn chung theo BLHĐ, quyền tài sản, quyền bảo vệ tài sản được thể hiện chính ở
trong phần pháp luật dân sự về quyền sở hữu. Bên cạnh đó, trong một số quy định đối với
vấn đề thừa kế và quan hệ hơn nhân trong BLHĐ cũng có những quy định nhắc tới quyền
tài sản của con người trong các mối quan hệ dân sự.
1 Đối với pháp luật về quyền sở hữu:
Như đã nói ở trên, do ra đời từ rất sớm, khác với pháp luật hiện đại, BLHĐ không
định nghĩa về quyền sở hữu và các hình thức thực hiện quyền sở hữu mà thay vào đó là
dùng từ “của” để thay thế. Nhìn chung theo BLHĐ, tài sản của người nào thì người đó
được thực hiện một số hành vi liên quan đến tài sản đó, bao gồm:
1.1 . Quyền chiếm giữ
Chủ sở hữu là người có quyền chiếm giữ tài sản của mình. Trong BLHĐ ở các điều
352, 357, 574,… ta có thể thấy rằng, quyền chiếm giữ thuộc về người có tài sản, những
23
hành vi xâm chiếm bất hợp pháp buộc phải chấm dứt, khôi phục lại quyền chiếm giữ của
chủ sở hữu, đồng thời người có hành vi vi phạm cịn bị khép vào tội trộm cắp. Ngoài ra,
quyền chiếm giữ cũng có thể được thực hiện bởi một chủ thể khác phù hợp với ý chí của
chủ sở hữu (trong các trường hợp được chủ sở hữu cho thuê, mượn, cầm cố, gửi giữ);
hoặc khơng theo ý chí của chủ sở hữu nhưng chiếm giữ hợp pháp ( trong các trường hợp
như : chiếm giữ tài sản bị thất lạc, bỏ quên,…). Quyền chiếm giữ tài sản của chủ sở hữu
chỉ chấm dứt khi chủ sở hữu từ bỏ tài sản, bán, tặng cho, trao đổi tài sản hoặc căn cứ theo
các Điều 377, 379, 411, 426, 430,… BLHĐ.
1.2 . Quyền dùng tài sản
Pháp luật thừa nhận và cho phép cho phép người có tài sản được sử dụng tài sản theo
ý chí của mình, như trực tiếp khai thác lợi ích của tài sản hoặc đem đi cầm cố, thuê mướn,
… Trong các trường hợp nhặt được tài sản thất lạc thì phải trả lại cho chủ, nếu giữ lấy sử
dụng hoặc ni thì sẽ bị xử phạt; hoặc nhận giữ tài sản của người khác thì cũng khơng
được sử dụng.
1.3. Quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu
Trong các hình thức thực hiện quyền sở hữu, quyền định đoạt được pháp luật quy
định khá chi tiết, đầy đủ, rõ ràng. Theo đó, trong BLHĐ quy định quyền định đoạt được
thực hiện bằng các cách: bán, tặng cho, trao đổi, để lại thừa kế,.. Đồng thời, khi tiến hành
thực hiện việc đem tài sản định đoạt, chủ sở hữu phải xác định và viết rằng “tài sản ( bán,
tặng cho,..) là của tơi, khơng liên quan gì đến người khác”
Như vậy, ngồi chủ sở hữu, khơng ai có quyền định đoạt tài sản.Bên cạnh đó, ngồi
việc quy định quyền định đoạt của chủ sở hữu, BLHĐ cũng quy định các trường hợp cấm
người khác định đoạt tài sản, bán tài sản của chủ sở hữu như tại các điều 386; 377; 579.
Thậm chí trong BLHĐ cũng nghiêm cấm các hành vi cưỡng bức, đe dọa hay buộc chủ sở
hữu phải chuyển nhượng tài sản trái đối với ý muốn của họ.
Bên cạnh đó, vấn đề về sở hữu ruộng đất trong thời kỳ này cũng khá được coi trọng.
Vì ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng nhất trong nền kinh tế thuần nông. Ruộng đất
được sử dụng và trở thành phương tiện bóc lột chính của nhà nước phong kiến, tạo ra các
nguồn lợi phục vụ cho nhà nước phong kiến. Có hai hình thức sở hữu chính: sở hữu cơng
và sở hữu tư. Đồng thời, pháp luật cũng bảo vệ quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất (điều
356, 357, 358, 360, 378, …). Ngăn cấm quan lại dựa quyền thế chiếm đoạt ruộng đất tư
(điều 370), xử phạt nặng các hành vi vi phạm quyền sở hữư tư nhân như cấm lấn chiếm,
24
xâm phạm, … Quy định cụ thể việc mua bán, chuyển nhượng, thừa kế, cầm cố đất đai
(điều 355, 366, 388, 390, 391,…. ). Ruộng đất công làng xã là cơ sở tồn tại và sức mạnh
của chính quyền trung ương, và chế sở hữu tư nhân chính là cơ hội để địa chủ chủ tập
trung ruộng đất trong tay mình, trở thành một giai cấp cơ bản trong xã hội phong kiến.
Chính vì thế, củng cố hai hình thức sở hữu ruộng đất này chính là củng cố sự phát triển và
ổn định của nhà nước phong kiến thời kỳ đó.
- Đối với ruộng đất cơng, chủ yếu ngăn cấm hành vi lấn đất, tẩu tán ruộng đất công
trái phép của người dân và cấm quan lại lại thâm ô, chiếm dụng ruộng đất. Việc vi phạm
những quy định đối với ruộng đất công sẽ dễ dẫn tới việc phải gánh chịu hậu quả cao
nhất.
- Đối với ruộng đất tư, với tính chất phức tạp phát sinh trong đời sống, đất tư rất dễ
bị tranh chấp. Do đó, nhà nước phải can thiệp vào bằng pháp luật, nhằm điều chỉnh các
mối quan hệ, đảm bảo quyền lợi cho người sở hữu. Việc bảo vệ ruộng đất cá nhân tư hữu
bao gồm bảo vệ các văn khế về ruộng đất đã được được ký kết hợp pháp. Điều này được
quy định khá rõ trong điều 354;357; 382; 383 của BLHĐ với những hình phạt khá là
nghiêm khắc.
Ngồi ra về vấn đề bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân, Vua Lê Thánh Tông ý
thức trong hành động của mình lấy dân làm quý, trừng trị nghiêm khắc những hành vi ức
hiếp, đục khoét dân lành của quan lại.. Ông chăm lo rất chu đáo đến sự ấm no cho dân.
Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là bằng cách cải cách pháp luật, bảo vệ quyền
sở hữu ruộng đất, là cái quyền gốc cho việc thực hiện các quyền tiếp theo đảm bảo quyền
sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc cho người nông dân.
Trong Bộ luật Hồng Đức đã có những điều luật quy định việc trừng phạt những hành
vi vi phạm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và định đoạt ruộng đất của người nông dân
như: Tranh giành đất đai trái với chúc thư (Điều 354), nhận bừa ruộng đất của người
khác (đ.344), hà hiếp, bức hại để mua ruộng đất của người khác (Điều 355), tá điền cấy
rẽ mà trở mặt ăn cướp (Điều 356), xâm lấn bờ cõi ruộng đất, nhổ bỏ giới mốc (Điều 357),
chặt cây trong khu mộ địa của người khác (Điều 358), cấy trộm vào phần đất, phần mộ
của người khác, chôn cất trộm vào ruộng của người khác (Điều 359), ruộng đất đang
tranh chấp mà đánh người để gặt lấy lúa má (Điều 360), cấy rẽ ruộng công hay tư, không
báo cho chủ mà tự tiện đến gặt (Điều 361), các nhà quyền quý chiếm đoạt ruộng đất ao
đầm của nhân dân, từ một mẫu trở lên thì xử tội phạt, từ năm mẫu trở lên thì xử tội biếm.
Quan tam phẩm trở xuống thì xử tăng thêm hai bậc và phải bồi thường như luật định
(Điều 370).
25