Bài tiểu luận môn pháp luật đại cương
Đề tài: Tội phạm và cấu thành tội phạm
Lời nói đầu
TP là một hiện tượng tiêu cực nhất tr XH. TP xuất hiện cùng với sự ra
A.
đời của NN và PL, cũng như khi XH phân chia thành giai cấp đối kháng. Để
bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, NN đã quy định hvi nào là TP và áp
dụng TNHS hoặc hình phạt đối với ng nào thực hiện các hvi đó. Do đó, TP k
chỉ mang thuộc tính lịch sử - XH mà còn mang bản chất là 1 hiện tượng
pháp lý.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa pháp lý của việc xác định
rõ khái nhiệm TP, LHS VN cũng như LHS các nước XHCN đều có định
nghĩa thống nhất khái niệm TP thể hiện rõ bản chất XH của TP, qua đó phản
ánh quan điểm, đường lối đúng đắn chính sách HS của NN tr từng giai đoạn
của lịch sử và CM, bảo vệ các lợi ích của toàn thể nhân dân. Hơn nữa, KN
TP tr LHS còn là cơ sở để phân biệt TP với các vi phạm PL khác và với hvi
trái đạo đức, cũng như các TH k phải là TP, qua đó, bảo vệ, củng cố và duy
trì trật tự PL, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống TP, bảo vệ một cách
hữu hiệu lợi ích của NN, của XH, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Nghiên cứu tội phạm chúng ta không chỉ nghiên cứu khái niệm, bản
chất của tội phạm mà còn phải nghiên cứu các yếu tố các dấu hiệu cấu thành
tội phạm và các trường hợp không phải là tội phạm (loại trừ trách nhiệm
hình sự).
Nội dung
Chương I: Những vấn đề chung về tội phạm
B.
1.
Khái niệm tội phạm
Nghiên cứu về tội phạm là vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của luật
Hình sự Việt Nam. Bởi lẽ, tội phạm là đối tượng đấu tranh phòng ngừa và
chống của chính sách hình sự của Nhà nước, vì thế có nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm tội phạm. Một số quan điểm cho rằng: “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong BLHS và phải
chịu hình phạt”; hay: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi,
trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt”,…
Khái niệm tôi phạm đã được ghi nhận định nghĩa lập pháp trong
khoản 1, điều 8 BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung 2009): “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế
độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa”.
Từ đó có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm tội phạm như
sau: “TP là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do
người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện 1 cách có lỗi (Cố ý
hoặc vô ý) xâm phạm đến các quan hệ xã hội được BLHS xác lập và bảo
vệ.”
Đặc điểm của tội phạm
Đặc điểm thứ nhất của tội phạm: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một đặc điểm đầu tiên và
2.
2.1.
quan trọng của tội phạm. Tội phạm hay bất cứ vi phạm pháp luật nào đều có
tính nghuy hiểm cho XH. Nên tính nguy hiểm cho XH là 1 trong những căn
cứ để phân biệt hành vi phạm tội với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính nguy hiểm không
đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
Việc đánh giá hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc
vào tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội
phạm. Nếu trước đây, hành vi trộm cắp dưới 2 triệu đồng dược coi là hành vi
nguy hiểm cho xã hội và người thực hiện hành vi này có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản, thì hiện nay, hành vi này không
bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội nữa. Ngược lại có hành vi trước đây
chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại coi là nguy
hiểm cho xã hội và được coi là tội phạm. Ví dụ: hành vi xâm phạm quyền
ứng cử của công dân, trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nay hành vi này được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Tính nguy hiểm cho XH phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau: hình
thức lỗi, hậu quả, công cụ, phương tiện pham tội, phương thức thủ đoạn
phạm tội, thời gian, không gian phạm tội, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội,
động cơ mục đích phạm tội, nhân thân người phạm tội cũng như tình hình an
2.2.
ninh trật tự, an toàn XH nơi sảy ra sự việc,…
Đặc điểm thứ hai của tội phạm: tính trái PL của tội phạm
Đây là đặc điểm thể hiện nguyên tắc pháp chế XHCN theo LHSVN.
Bất kỳ hành vi nào được cơi là tội phạm cũng đều được quy định trong
BLHS. Do đó không ai bị truy cứu TNHS và phải chịu TNHS nếu đã thực
hiện 1 hành vi mà không được BLHS quy định là tội phạm. Tức là 1 người
thực hiện hành vi nguy hiểm đến đâu nhưng hành vi đó chưa được quy định
trong BLHS thì hành vi đó k được coi là tội phạm.
Để khẳng đinh rõ điều này, điều 2 BLHS quy định: “Chỉ người nào
phạm 1 tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS”
Đặc điểm này có ý nghĩa về phương diện thực tiễn là tránh việc xử lý
tùy tiện của người áp dụng pháp luật: giúp cơ quan lập pháp kịp thời bổ sung
sửa đổi BLHS theo sát sự thay đổi của tình hình kTXH để công tác đấu tranh
2.3.
phòng chống TP đạt hiệu quả.
Đặc điểm thứ ba của TP: là hành vi được thực hiện một cách có lỗi (cố ý
hoặc vô ý).
TP phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội do con người thực hiện 1
cách có lỗi cố ý hoặc vô ý. Khi có sự kiện TP được thực hiện 1 cách có lỗi
thì tính chất lỗi là phạm trù liên quan đến hành vi còn lỗi là phạm trù liên
quan đến ng phạm tội.
Khi hành vi khách quan gây nguy hiểm cho XH bị LHS cấm, được
con ng thực hiện 1 cách có lỗi dưới hình thức cố ý hoặc vô ý thì hành vi đó
mang tính chất lỗi và hành vi đó trở thành hvii phạm tội, ng có lỗi trong thực
hiện TP phải chịu TNHS.
Nếu hvi nguy hiểm cho XH bị LHS cấm được thực hiện trong thực tế
nhưng ng thực hiện hvi đó không có lỗi thì không bị coi là hvi phạm tội, ng
không có lỗi trong việc thực hiện hvi đó không phải chịu TNHS theo quy
2.4.
định của BLHS.
Đặc điểm thứ tư của tội phạm: Là hành vi do người có năng lực TNHS thực
hiện và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện.
Người có năng lực TNHS là người mà tại thời điểm thực hiện hành vi
nguy hiểm cho XH bị LHS cấm ở trong trạng thái bình thường và hoàn toàn
có khả năng nhận thức được đầy đủ hành vi, tính chất thực tế và tính chất
pháp lý của hành vi do mình thực hiện, cũng như khả năng điều khiển được
đầy đủ hành vi đó.
Năng lục TNHS có mối liên quan chặt chẽ trực tiếp với lỗi, có năng
lực TNHS là cơ sở cần và đủ để có lỗi trong việc thực hiện TP, vì để có lỗi
trong việc thực hiện TP thì chủ thể của hành vi đó nhất thiết phải là người có
năng lực TNHS.
Người đủ tuổi chịu TNHS là ng mà tại thời điểm phạm tội đã đạt đến
độ tưởi do LHS quy định để có thể có khả năng nhận thức được đầy đủ tính
chất thực tế và tính chất pháp lý của hvi do mình thực hiện cũng như có khả
năng điều khiển hvi đó.
Điều 12 BLHS quy định Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Người từ
đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người
từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng”.
Người đủ tuổi chịu TNHS nhưng không có năng lực TNHS thì hành vi
phạm tội của người đó không được coi là TP. Ví dụ: Một người 20 tuổi (đủ
tuổi chịu TNHS) nhưng do bị tâm thần (không có năng lực TNHS) thực hiện
hành vi giết ng, thì người này không phải chịu TNHS.
Mối quan hệ giữa 4 đặc điểm của tội phạm: chỉ khi nào có sự tổng hợp của
cả 4 đặc điểm thì một hành vi mới bị coi là TP, còn như thiếu dù chỉ 1 trong
4 đặc điểm đó thì hvi nhất thiết không thể bị coi là tội phạm.
3.
Phân loại tội phạm
Việc phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quy định
các nguyên tắc xử lý, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi
hành bản án và các quy định khác về điều kiện áp dụng một số loại hình phạt
hoặc biện pháp tư pháp, v.v... Phân loại tội phạm còn là cơ sở để cụ thể hóa
TNHS, quy định khung hình phạt, bảo đảm nguyên tắc cá thể hóa TNHS và
hình phạt. Ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa đối với việc quy
định một số chế định tạm giam, tạm giữ trong BLHS.
Phân loại TP trong LHS là chia những hvi nguy hiểm trong xã hội bị
LHS cấm thành từng loại nhất định theo những tiêu chí này hay những tiêu
chí khác để làm tiền đề cho cá thể hóa TNHS và hình phạt hoặc tha miễn
TNHS và hình phạt.
Khoản 2 điều 8 BLHS đã kết hợp 3 tiêu chí phân loại TP: tính chất,
mức độ nguy hiểm cho XH của TP và mức cao nhất của khung hình phạt để
phân thành 4 loại:
Stt
1
2
3
4
4.
Loại TP
Mức độ nguy Mức cao nhât của
hiểm của hvi
khung hình phạt
Ít nghiêm trọng
Không lớn
Đến 3 năm tù
Nghiêm trọng
Lớn
Đến 7 năm tù
Rất nghiêm trọng Rất lớn
Đến 15 năm tù
Đặc biệt nghiêm Đặc biệt lớn
Trên 15 năm tù, chung
trọng
thân hoặc tử hình
Các trường hợp không phải là TP:
Các TH k phải là TP theo BLHS hiện hành bao gồm:
- Hvi có tính chất nguy hiểm k đáng kể (khoản 4 Điều 8)
- Sự kiện bất ngờ (điều 11)
- Ng chưa đủ tuổi chịu TNHS thực hiện (điều 12)
- Tình trạng k có NLTNHS (khoản 1 điều 13)
- Phòng vệ chính đáng (điều 15)
- Tình thế cấp thiết (điều 16)
Chương II: Cấu thành tội phạm
1. Những vấn đề chung về CTTP
1.1.
Khái niệm CTTP
CTTP là cơ sở pháp lý để truy cứu TNHS đối với người phạm tội,
ngoài ra, CTTP còn là yếu tố bảo đảm các quyền và tự do của công dân, của
con người, làm ranh giới để xử lý giữa trường hợp hành vi đã CTTP hay
không CTTP.
Dưới góc độ khoa học có thể hiểu CTTP là tổng hợp những dấu hiệu
được quy định trong LHS đặc trưng cho một loại TP cụ thể.
CTTP của một loại TP cụ thể là tổng hợp các dấu hiệu (khách quan và
chủ quan) đặc trưng cho khách thể và mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ
quan của TP. Các dấu hiệu có quan hệ chặt chẽ, thiếu một dấu hiệu nào sẽ
không có CTTP.
1.2.
-
Phân loại CTTP
Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho XH của hành vi phạm tội có
thể chia cấu thành tội phạm thành: cấu thành tội phạm cơ bản; cấu thành tội
phạm tăng nặng; cấu thành tội phạm giảm nhẹ.
CTTP cơ bản là tổng hợp các dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc với mọi
trường hợp phạm tội của một loại tội, phản ánh bản chất của loại tội đó và
cho phép phân biệt được loại TP này với các loại TP khác. Nội dung của
CTTP cơ bản chỉ bao gồm những dáu hiệu định tội. Đây là các cấu thành tội
phạm được thể hiện ở khoản 1 của đa số các tội phạm. Ví dụ như tội trộm
cắp tài sản (khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự), tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng (khoản 1
Điều 202 Bộ luật hình sự)..
CTTP tăng nặng bao gồm những dấu hiệu định tội và những dấu hiệu
thể hiện mức độ nguy hiểm cho XH của TP tăng lên rõ rệt.
CTTP giảm nhẹ bao gồm những dấu hiệu định tội và nững dấu hiệu
thể hiện mức độ nguy hiểm cho XH giảm đi rõ rệt.
Căn cứ vào cấu trúc của CTTP có thể chia cấu thành tội phạm
thành: cấu thành tội phạm hình thức; cấu thành tội phạm vật chất; cấu thành
tội phạm hỗn hợp. Trong đó:
CTTP hình thức thức là cấu thành tội phạm có duy nhất một yếu tố bắt
buộc về mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tội
phạm có cấu thành tội phạm hình thức được coi là hoàn thành từ thời điểm
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong điều luật phần các
tội phạm Bộ luật hình sự.
CTTP vật chất là cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu bắt buộc thuộc
mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi
phạm tội gây ra; và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành
vi phạm tội gây ra. Tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất được coi là
hoàn thành từ thời điểm có thiệt hại xảy ra.
Cấu thành tội phạm hỗn hợp là loại cấu thành tội phạm mà các dấu
hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm vừa có yếu tố của cấu
thành tội phạm hình thức, vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất.
2.
Các yếu tố CTTP
TP là một thể thống nhất giữa yếu tố chủ quan và khách quan nhưng
về lý luận có thể chia thành các bộ phận cấu thành. Các bộ phận CTTP được
coi là các yếu tố CTTP.
Các yếu tố CTTP bao gồm: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể và
mặt chủ quan của TP.
2.1.
Yếu tố thứ nhất của CTTP: Khách thể của TP
Khách thể của TP là các quan hệ XH được BLHS xác lập và bảo vệ bị
TP xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trong một
chừng mực nhất định.
Có thể phân khách thể của TP thành 3 loại:
Khách thể chung: Khách thể chung là tổng thể các quan hệ XH do
LHS bảo vệ bị các TP xâm hại. Bất kỳ TP nào cũng xâm hại đến khách thể
chung của TP. Khách thể chung của TP được liệt kê tại Điều 8 BLHS và trên
cơ sở đó các nhà làm luật phân chia các loại TP có cùng tính chất trong cùng
một chương tương ứng tại phần các TP của BLHS.
Khách thể loại: Khách thể loại là nhóm các quan hệ xã hội có cùng
tính chất liên hệ qua lại với nhau, được 1 nhóm các quy pham PLHS bảo vệ
và bị 1 nhóm các tội phạm xâm hại. Khách thể loại là cơ sở để phân loại các
tội phậm trong phần các tội phạm của LHS thành các chương.
Khách thể trực tiếp: Khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội cụ thể được
1 quy phạm PLHS bảo vệ và bị 1 loại tội phạm trực tiếp xâm hại. Khách thể
trực tiếp là căn cứ để quy định các loại tội phạm vào các chương mục nhất
2.2.
định của BLHS.
Yếu tố thứ hai của CTTP: Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm hay là
những dấu hiệu của tội phạm biểu hiện ra ngoài thế giới khách quan.
-
Các biểu hiện khách quan của TP:
Hvi nguy hiểm cho XH là xử sự cụ thể của con ng được thể hiện qua thế giới
khách quan dưới nhiều hình thức nhất định, gây ra thiệt hại cho các quan hệ
XH được LHS bảo vệ.
Các dạng của hvi nguy hiểm cho xã hội gồm hành động phạm tội và
không hành động phạm tội. Hành động PT: là chủ thể làm 1 việc mà PL cấm
qua đó làm thay đổi trạng thái bình thường của đối tượng tác động gây thiệt
hại cho khách thể của tội phạm. Không hành động phạm tội: là chủ thể
không làm hoặc làm không đầy đủ 1 việc mà PL quy định phải làm mặc dù
co đủ khả năng và điều kiện để thực hiện việc đó, làm biến đổi trạng thái
bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể của tội
-
phạm.
Hậu quả của TP là thiệt hại do hành vi PT gây ra cho những quan hệ XH
được LHS bảo vệ. Trong số các hậu quả do hvi PT gây ra chỉ hậu quả nào
được nêu ra trực tiếp trong ND điều luật quy định CTTP mới có ý nghĩa là
dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt. các dấu hiệu khác được xem
xét khi giải quyết TNHS và quyết định Hình phạt với TP đã được thực hiện.
Trong BLHS 1999, hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hvi khách quan
gây ra được phản ánh vào ND các CTTP với các dạng: Thiệt hại về vật chất,
-
thiệt hại về thể chất, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về chính trị.
Mối quan hệ giữa hvi và hậu quả nguy hiểm cho XH: căn cứ đầu tiên để xác
định quan hệ nhân quả là yếu tô về thời gian. Hành vi trái pháp luật với tính
chất là nguyên nhân phải xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho XH với ý
nghĩa là kết quả. Hành vi trái PL phải chứa đựng khả năng thực tế là phát
sinh hậu quả nguy hiểm cho XH. Và những hậu quả nguy hiểm cho XH đã
xảy ra phải do chính hvi trái PL đã được thực hiện gây ra.
Quan hệ nhân quả tr PLHS là một vấn đề phức tạp cả về lý luận và
thực tiễn. Nhiều trương hợp một hậu quả nhất định xảy ra là kết quả vận
động của các khả năng chứa đựng trong nhiều hành vi của một hoặc nhiều
chủ thể gây ra. Hoặc một hvi trái PL lại gây ra nhiều hậu quả nguy hiểm cho
-
XH.
Những biểu hiện khác thuộc mặt khách quan của TP: Phương tiện PT;
Phương pháp, thủ đoạn thực hiện TP; thời gian PT; địa điểm PT; hoàn cảnh
PT.
Yếu tố thứ ba của CTTP: chủ thể của TP
Chủ thể của TP là con người cụ thể đang sống đã thực hiện TP đạt độ
2.3.
tuổi chịu TNHS và có NLTNHS.
Tuy nhiên đối với một số TP yêu cầu ng thực hiện TP phải có thêm
một số dấu hiệu bổ sung như: giới tính, nghề nghiệp, độ tuổi, chức vụ, quyền
hạn,… gọi là chủ thể đặc biệt của TP.
Yếu tố thứ tư của CTTP: Mặt chủ quan của TP
Mặt chủ quan của TP là mặt bên tr của TP, là thái độ tâm lý của ng PT
2.4.
-
đối với hvi nguy hiểm cho XH và với hậu quả do hvi đó gây ra.
Các dấu hiệu của mặt chủ quan:
Lỗi: là thái độ tâm lý của TP đối với hvi PT và hậu quả mà hvi đó gây ra thể
hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Các hình thức của lỗi:
+ Lỗi cố ý là lỗi mà trong đó chủ thể lựa chọn hvi PT và thực hiện hvi
đó.
Lỗi cố ý gồm cố ý trực tiếp: là lỗi của một người khi thực hiện hvi
nguy hiểm cho XH nhận thức được hvi của mình có tính chất nguy hiểm,
thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho XH và mong muốn điều đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của một người khi thực hiện hvi nguy hiểm
cho XH, tuy k mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
+ Lỗi vô ý: là lỗi của một ng trong đó chủ thể k lựa chọn hvi PT
nhưng trên thực tế đã gây hậu quả nguy hiểm cho XH.
Lỗi vô ý gồm vô ý do quá tự tin là lỗi của 1 ng tuy thấy trước hvi của
mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho XH nhưng cho rằng hậu quả đó k
xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa dk
Lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi của 1 người k thấy trước được hvi của mình
có thể gây hậu quả nghuy hiểm cho XH mặc dù có thể thấy trước được hoặc
-
buộc phải thấy trước.
Động cơ PT là nhân tố bên trong thúc đẩy ng PT thực hiện TP. Cơ sở để
hthanh động cơ PT là những nhu cầu về vật chất, tinh thần, các lợi ích sai
lệch của cá nhân được chủ thể nhận thức cũng có thể là nhu cầu bình thường
-
nhưng chủ thể đã chọn cách thoản mãn chúng trái với chuẩn mực XH
Mục đích PT là mô hình được hthanh trong ý thức ng PT và ng PT mong
muốn đạt được điều đó trên thực thế bằng cách thực hiện TP.
Như vậy bốn yếu tố CTTP có mối quan hệ hữu cơ và chặt chẽ với nhau, mỗi
yếu tố CTTP đều biểu hiện một nội dung cụ thể và tổng hợp 4 yếu tố CTTP
phản ánh mối liên hệ quan hệ tâm lý, thái độ bên trong của 1 người với hành
vi do chính họ thực hiện ra bên ngoài thế giới khách quan gây ra những hậu
quả nuy hiểm cho XH. Do đó bất kỳ hvi PT nào, dù ít nghiêm trọng hay đặc
biệt ng trọng, dù xâm phạm đến quan hệ XH nào, dù mức hình phạt và loại
HP có nghiêm khắc đến thế nào thì TP tr LHS đều thể hiện mối quan hệ hữu
cơ, logic và thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan của TP.
C.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu về CTTP và TP có ý nghĩa quan trọng tr việc hoàn thiện
hệ thóng lý luận và hệ thống PLHS. Lý luận về CTTP là cơ sở khoa học để
xây dựng các CTTP cụ thể tr phần các TP của BLHS. Theo đó, mỗi khi cần
bổ sung them một TP mới, các nhà làm luật nước ta bao giờ cũng dựa vào lý
luận về CTTP tr khoa học LHS để xây dựng các QPPL cho thống nhất và
phù hợp với từng tội danh tương ứng cụ thể, bảo đảm tính chuẩn xác và hợp
lý, đồng thời phục vụ cho hoạt động áp dụng PLHS liên quan đến TP, tội
danh và định tội danh được chính xác tr thực tiễn, bảo đảm xử lý đúng ng,
đúng tội và đúng PL, không bỏ lọt TP và ng PT, tránh làm oan ng vô tội.