Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thẩmquyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ và quyền lựa chọn Tòa án của đương sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.45 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................................................... 1
A. MỞ ĐẦU........................................................................................................................................ 1
B. NỘI DUNG..................................................................................................................................... 2
I. Khái quát chung về thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án theo lãnh thổ............................................2
1. Khái niệm, ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ 2
2. Cơ sở của việc xác định..........................................................................................................3
II. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo
lãnh thổ và quyền lựa chọn tòa án của đương sự..........................................................................3
1. Các nguyên tắc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của tòa án theo lãnh thổ....................3
2. Quyền lựa chọn Tòa án của các đương sự.............................................................................6
III. Thực trạng thực hiện pháp luật và kiến nghị hoàn thiện............................................................9
1. Thực trạng và nguyên nhân....................................................................................................9
2. Kiến nghị hoàn thiện:............................................................................................................. 11
C. KẾT LUẬN................................................................................................................................... 12
Danh mục tài liệu tham khảo:...........................................................................................................12

A. MỞ ĐẦU
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 là căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết cá vụ việc
dân sự. Trong đó, quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ và
quyền lựa chọn Tòa án của đương sự không chỉ có ý nghĩa bảo đảm tối đa quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự mà còn tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết các vụ việc
1


dân sự của Tòa án. Mục đích cuối cùng mà những quy định này hướng tới chính là sự
chính xác, công bằng, tính khoa học và hợp lý trong suốt cả quá trình giải quyết các vụ
việc dân sự. Việc tìm hiểu về “Thẩmquyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ
và quyền lựa chọn Tòa án của đương sự” mộtcách toàn diện, cụ thể là điều rất cần
thiết, giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề này.
B. NỘI DUNG


I. Khái quát chung về thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án theo lãnh thổ
1. Khái niệm, ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo
lãnh thổ
- Khái niệm.
Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ là quyền của một Tòa án cụ thể
trong việc xem xét giải quyết các vụ việc dân sự và quyền hạn ra quyết định khi lần đầu
tiên giải quyết vụ việc đó, được xác định trên cơ sở nơi cư trú, nơi có trụ sở của một bên
của các đương sự, nơi có bất động sản hoặc nơi phát sinh sự kiện hoặc các dấu hiệu khác
mà pháp luật có quy định.
Quyền lựa chọn Tòa án của đương sự là việc nguyên đơn, người yêu cầu dân sự trong một
số trường hợp có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ việc về dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
-

Ý nghĩa

Đối với đương sự: các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ
và quyền tự lựa chọn tòa án của đương sự là cơ sở pháp lý để nguyên đơn chủ động xác
định được Tòa án mà mình có thể gửi đơn kiện hoặc lựa chọn Tòa án thuận lợi nhất cho
mình trong việc tham gia tố tụng. Ngoài ra, các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự
của Tòa án theo lãnh thổ sẽ giúp đương sự nhanh chóng thực hiện được quyền khởi kiện
để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, tránh được việc gửi đơn kiện ra Tòa án không có
thẩm quyền gây mất thời gian và chi phí không đáng có. Như vậy, quy định này là một
bảo đảm cho việc thực hiện quyền tiếp cận công lý của công dân.

2


Đối với Tòa án: các quy định này cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xác định một vụ việc
cụ thể có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay không, tránh được việc áp dụng

không thống nhất trong thực tiễn gây khó khăn kéo dài do thời gian giải quyết vụ việc
phải di chuyển lại giữa các Tòa án, thậm chí bản án, quyết định bị hủy để xét xử lại do vi
phạm thẩm quyền dân sự theo lãnh thổ. Đồng thời, quy định về thẩm quyền dân sự của
Tòa án theo lãnh thổ còn là cơ sở giải quyết trong các trường hợp có tranh chấp về thẩm
quyền sơ thẩm giữa các Tòa án cùng cấp với nhau.
2. Cơ sở của việc xác định
Việc phân định thẩm quyển của Tòa án theo lãnh thổà việc phân định thẩm quyền sơ thẩm
vụ việc dân sự giữa các Tòa án cùng cấp với nhau và phải dựa trên những cơ sở sau:
-

Đảm bảo giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án được nhanh chóng, đúng đắn, đảm
bảo việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyề.n, lợi ích hợp pháp của các bên đương
sự; tạo thuận lợi cho các bên đương sự, tránh chồng chéo trong việc thực hiện thẩm

-

quyền giữa các Tòa án cùng cấp.
Đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự

II. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của
Tòa án theo lãnh thổ và quyền lựa chọn tòa án của đương sự
1. Các nguyên tắc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của tòa án theo lãnh thổ
Việc phân định thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền sơ
thẩm vụ việc dân sự giữa các Tòa án cùng cấp với nhau. Hiện nay, các quy định tại điều
35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004(BLTTDS) được sửa đổi theo khoản 10 Điều 1 Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 về việc phân định thẩm quyển của
Tòa án theo lãnh thổ được quy định theo hướng phân định hai loại việc là: thẩm quyền
giải quyết vụ án dân sự và thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Tòa án theo lãnh thổ.
+ Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự.
- Đối với những tranh chấp về bất động sản.

Đối với những tranh chấp về bất động sản thì Tòa án nơi có bất động sản có thẩm
quyền giải quyết. Bởi vì, bất động sản là một loại tài sản không thể dịch chuyển được và
3


thông thường các loại giấy tờ, tài liệu liên quan đến bất động sản sẽ do cơ quan nhà đất
hoặc chính quyền địa phương nơi có bất động sản lưu giữ. Chính vì vậy, Tòa án nới có
bất động sản sẽ là Tòa án có điều kiện tốt nhất để tiến hành xác minh, xem xét tại chỗ tình
trạng của bất động sản và thu thập các giấy tờ, tài liệu liên quan đến bất động sản. Đối với
các tranh chấp là bất động sản, các bên đương sự không có quyền thỏa thuận về việc yêu
cầu tòa án nơi không có bất động sản giải quyết. Tuy nhiên, cần chu ý rằng không phải
tranh chấp liên quan đến bất động sản đều thuộc thẩm quyển của Tòa án có bất động sản.
Mà chỉ những vụ án dân sự có bất động sản là đối tượng chính của các cuộc tranh chấp thì
mới thuộc thẩm quyền của Tòa án nơi có bất động sản đang tranh chấp 1
- Đối với những vụ án dân sự khác không phải là tranh chấp về bất động sản.
Đối với những vụ án dân sự khác không phải là tranh chấp về bất động sản thì Tòa án nơi
bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị buộc phải
tham gia tố tụng, họ thường là những bên yếu thế và thường có tâm lý không muốn tham
gia tố tụng, hay nêu ra những khó khăn để không đến tòa án. Việc quy định như vậy sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho bị đơn và người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng.
Mặt khác, các Tòa án này cũng có khả năng xác minh, nắm được các vấn đề cần thiết liên
quan đến vụ án.
Đối với các vụ án dân sự này các bên đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn
bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc
nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp.
+ Thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự.
Thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:
- Tòa án nơi người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người

mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
1

Khoản 3, khoản 4 – Điều 8 – Nghị quyết 03/2012/ NQ – HĐTP. Hướng dẫn thi hành một số quy định trong
phần thứ nhất “những quy định chung” của bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự.

4


- Tòa án nơi người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm vắng mặt tại nơi cư trú, bị yêu cầu
tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có nơi cư trú cuối cùng có thẩm quyền giải quyết yêu
cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó, yêu
cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết;
- Tòa án đã ra quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết có thẩm quyền giải
quyết yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích hoặc là đã chết;
- Tòa án nơi người phải thi hành bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi
hành án là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành án có trụ sở, nếu người phải thi hành án
là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của
Tòa án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
của Tòa án nước ngoài;
- Tòa án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân hoặc nơi người
gửi đơn có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết yêu
cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam;
- Tòa án nơi người phải thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài cư trú, làm việc,
nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở, nếu người phải
thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành quyết định của

Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài;
- Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có thẩm quyền giải quyết
yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật;
- Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú,
làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài
sản khi ly hôn;
- Tòa án nơi một trong các bên thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly
hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay
đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
5


- Tòa án nơi cha hoặc mẹ của con chưa thành niên cư trú, làm việc có thẩm quyền giải
quyết yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm
nom con sau khi ly hôn;
- Tòa án nơi cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu
cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;
- Tòa án nơi Phòng công chứng, Văn phòng công chứng đã thực hiện việc công chứng có
trụ sở có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu;
- Tòa án nơi Cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành án có trụ sở hoặc nơi có tài sản
liên quan đến việc thi hành án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xác định quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật;
- Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến việc Trọng
tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện theo quy định của
pháp luật về Trọng tài thương mại.
2. Quyền lựa chọn Tòa án của các đương sự
Ngoài các nguyên tắc để xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ thì pháp luật tố
tụng dân sự còn cho phép các trường hợp các bên đương sự có quyền lựa chọn Tòa án cụ
thể như sau:

-Theo sự thỏa thuận của các bên
Theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 35 BLTTDS được sửa đổi tại khoản 10 Điều 1
BLTTDS sưả đổi năm 2011 thì: “b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng
văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân
hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những
tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định
tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
Như vậy ngoài các nguyên tắc đã xác định như trên, các đương sự còn có quyền tự
thỏa thuận về việc lựa chọn Tòa án để giả quyết vụ việc dân sự. Việc thỏa thuận phải lập
thành văn bản trong đó xác định rõ tòa án có thẩm quyền giải quyết; Tòa án này phải nằm
trong các tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Quy định này phù
hợp với nguyên tắc Quyền tự định đoạt của đương sự, quyền lợi của bị đơn – người bị
động trong vụ án dân sự cũng được đảm bảo.
6


Ngoài ra, cũng theo điểm m Khoản 2 Điều 35 BLTTDS: “m, Thẩm quyền của Toà án
theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam
giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài
thương mại.” Và khoản 1 Điều 7 LTTTM xác định Toà án có thẩm quyền đối với hoạt
động trọng tài: “1. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận lựa chọn một Tòa án cụ thể thì
Tòa án có thẩm quyền là Tòa án được các bên lựa chọn.” thì đương sự là các bên trong
tranh chấp thương mại cũng có thể thỏa thuận với nhau trước khi hoặc sau khi có tranh
chấp với nhau bằng văn bản về việc lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Quy định
này đáp ứng được yêu cầu giải quyết tranh chấp thương mại nhanh chóng bên cạnh việc
bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS và quyền tự do thương lượng, thỏa
thuận trong thương mại.
-

Quyền lựa chọn tòa án Theo sự lựa chọn của nguyên đơn


Để tạo thuận lợi cho đương sự trong việc tham gia tố tụng, các nhà lập pháp đã quy định
cho đương sự được lựa chọn một trong số các Tòa án có thẩm quyền để giải quyết yêu
cầu của mình. Song để đảm bảo cho việc tham gia tố tụng của các đương sự và việc tiến
hành tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền diễn ra trong một trật tự nhất định,
các nhà làm luật đã quy định các trường hợp mà đương sự có quyền lựa chọn Tòa án theo
quy định tại điều 36 BLTTDS - được sửa đổi bổ sung tại khoản 11Điều 1 Luật sửa đổi ,bổ
sung một số điều của BLTTDS 2011và Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP cụ thể:
+ Vụ án dân sự mà đương sự có quyền lựa chọn toà án.
Đối với các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động.
- Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu
Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải
quyết(điểm a khoản 1 điều 36 BLTTDS).Mà theo quy định tại điều 9 nghị quyết
03/2012/NQ-HĐTP, chỉ trong trường hợp không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị
đơn, thì nguyên đơn mới có thể yêu cầu Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối
cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết.Tuy nhiên về nguyên tắc, nguyên đơn đi kiện
phải xác định nơi bị đơn đang cư trú, làm việc ở đâu thì Tòa án mới có cơ sở để thụ lý
giải quyết.
7


- Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu
cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết(điểm b khoản 1
điều 36 BLTTDS).
- Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án tranh chấp về
cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải
quyết(điểm c khoản 1 điều 36 BLTTDS).
- Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu
Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải

quyết(điểm d khoản 1 điều 36 BLTTDS).Mà theo quy định tại điều 9 nghị quyết
03/2012/NQ-HĐTP trong trường hợp này việc yêu cầu lựa chọn Tòa án giải quyết tranh
chấp dân sự không đòi hỏi phải có bất kỳ điều kiện nào, nên nguyên đơn có thể yêu cầu
Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết và
Tòa án chấp nhận yêu cầu đó.
- Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo
hiểm xã hội, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều
kiện lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn là người lao động có thể yêu
cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết(điểm đ khoản 1 điều 36 BLTTDS).
- Nếu tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu hoặc người có vai
trò trung gian thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có người sử dụng lao động là chủ
chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi người cai thầu, người có vai trò trung gian cư
trú, làm việc giải quyết(điểm e khoản 1 điều 36 BLTTDS).
- Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi
hợp đồng được thực hiện giải quyết(điểm g khoản 1 điều 36 BLTTDS).
- Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết(điểm h
khoản 1 điều 36 BLTTDS).
- Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì
nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết(điểm i
khoản 1 điều 36 BLTTDS). Mà theo quy định tại khoản 2 điều 9 nghị quyết 03/2012/NQHĐTP trong trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu được quyền lựa chọn nhiều Toà án
có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự thì khi nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, Toà án
8


phải giải thích cho họ biết là chỉ có một Toà án trong các Toà án được Điều luật quy định
mới có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự để họ lựa chọn. Cho nên người khởi kiện,
người yêu cầu phải cam kết trong đơn khởi kiện hoặc trong đơn yêu cầu là không khởi
kiện hoặc không yêu cầu tại các Toà án khác.
Trong trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu nộp đơn khởi kiện, nộp đơn yêu cầu tại

nhiều Toà án khác nhau được Điều luật quy định, thì Toà án đã thụ lý đầu tiên theo thời
gian có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Các Toà án khác, nếu chưa thụ lý thì căn
cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 168 của BLTTDS trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; nếu đã
thụ lý thì căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 168 và điểm i khoản 1 Điều 192 của BLTTDS
ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự, xoá tên vụ việc dân sự đó trong sổ thụ lý
và trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự.
Nếu đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án căn cứ vào khoản 3 Điều 193 của
BLTTDS trả lại tiền tạm ứng án phí cho người đã nộp.
+ Việc dân sự mà đương sự có quyền lựa chọn toà án.
Đối với các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình
-Đối với các yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 26 của Bộ luật
này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc hoặc có trụ sở giải
quyết (điểm a khoản 2 điều 36BLTTDS). Đối với các yêu cầu về dân sự thuộc một trong
các trường hợp quy định tại Điều 26 BLTTDS, người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án nơi
mình cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết.
-Đối với yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật
này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bên đăng ký kết hôn trái
pháp luật giải quyết( điểm b khoản 2 điều 36 BLTTDS).
-Đối với yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền
thăm nom con sau khi ly hôn thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi người con cư
trú giải quyết( điểm c khoản 2 điều 36 BLTTDS).
III. Thực trạng thực hiện pháp luật và kiến nghị hoàn thiện
1. Thực trạng và nguyên nhân
- Thực tiễn của việc áp dụng thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ:
9


Thứ nhất, việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo nơi có bất động sản tranh chấp
còn nhiều vướng mắc. Trước đây, theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự 1989 thì “ Tranh chấp bất động sản do Tòa án nơi có bất động sản tranh

chấp”. Nhưng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 lại quy định:
“trong trường hợp vụ án chỉ liên quan đến bất động sản thì Tòa án nơi có bất động sản
giải quyết”. Vì thế các Tòa án gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc xác định tranh
chấp nào là tranh chấp về bất động sản do có nhiều ý kiến khác nhau như có phải tất cả
những tranh chấp liên quan đến bất động sản đều thuộc thẩm quyền của Tòa án nơi có bất
động sản đó; hay chỉ những tranh chấp mà đối tượng tranh chấp là bất động sản là tranh
chấp chính thì mới thuộc thẩm quyền của Tòa án nơi có bất động sản giải quyết.
Thứ hai, việc xác định thẩm quyền trong trường hợp tranh chấp về quan hệ về tài
sản bao gồm cả động sản và bất động sản.Đối với những vụ việc chỉ có một quan hệ pháp
luật tranh chấp là quan hệ về tài sản nhưng tài sản là đối tượng tranh chấp lại bao gồm cả
động sản và bất động sản. Điều này dẫn đến các Tòa án bị lúng túng khi xác định thẩm
quyền của Tòa án trong trường hợp đương sự có tranh chấp và yêu cầu chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kì hôn nhân còn tồn tại, yêu cầu chia tài sản thừa kế nhưng tài
sản tranh chấp lại bao gồm cả động sản và bất động sản. Vì vậy, trong các văn bản hướng
dẫn thi hành cần có hướng dẫn cụ thể về nguyên tắc xác định thẩm quyền trong trường
hợp vụ việc có nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp.
Thứ ba, việc mở rộng thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án cấp huyện như là
trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp lao động đã và đang đặt ra thách thức cho các
Tòa án cấp huyện, đặc biệt là các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Bởi các thẩm phán ở
cấp huyện hiện nay phần lớn vẫn còn thiếu về số lượng, chất lượng yếu. Thực tiễn giải
quyết tranh chấp tại Tòa án trong thời gian qua cho thấy kinh nghiệm của tòa trong việc
giải quyết tranh chấp ở nhiều địa phương là chưa nhiều. Do đó các Tòa án lúng túng ngay
từ khi xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và luật áp dụng.
- Thực tiễn áp dụng quyền lựa chọn Toà án của đương sự:
Trong thực tế, việc áp dụng quyền lựa chọn Tòa án của đương sự, do pháp luật chưa dự
liệu hết các trường hợp có thể xảy ra hoặc các đương sự hiểu không đúng các quy định
của pháp luật, đã phát sinh nhiều quan điểm trái chiều và tranh chấp về việc lựa chọn Tòa
10



án nào thì hợp pháp, Tòa án nào thì bảo vệ quyền tự do lựa chọn Tòa án của đương sự,
gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết.
Thứ nhất, xác định Tòa án giải quyết vụ việc là Tòa án mà các đương sự thỏa thuận trong
hợp đồng nếu có tranh chấp xảy ra hay Tòa án mà pháp luật quy định có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đó trên thực tế đã gây ra nhiều tranh cãi.
Thứ hai, khi tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau
thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết. Thiết
nghĩ, quy định này sẽ gây nhiều khó khăn cho Tòa án trong việc xét xử khi mà vấn đề xác
minh, kiểm chứng những bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau sẽ gây tốn kém
thời gian, tiền bạc và làm chậm quá trình tố tụng.
2. Kiến nghị hoàn thiện:
- Kiến nghị về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ:
Thứ nhất, cần có sự điều chỉnh quy định tại điểm c khoản 1 điều 35 Bộ luật Tố
tụng Dân sự theo tinh thần tránh những tranh chấp bất động sản chỉ có Toà án nơi có bất
động sản giải quyết.
Thứ hai, nên quy định trường hợp vụ việc có nhiều quan hệ pháp luật về tài sản bao
gồm cả động sản và bất động sản thì Toà án có thẩm quyền là Toà án nơi có bất động sản
tranh chấp, nếu đối tượng tranh chấp là bất động sản đồng thời đó là quan hệ tranh chấp
chính cần giải quyết trong vụ án dân sự đó.
Thứ ba, cần đào tạo các cán bộ Toà án có đủ năng lực đưa về các huyện vùng sâu,
vùng xa hoặc đào tạo cho các cán bộ tư pháp hiện tại có thêm kinh nghiệm thông qua
những lần tập huấn, hoặc trao đổi kinh nghiệm giữa các Toà với nhau.
- Kiến nghị về quyền lựa chọn Toà án của đương sự:
Thứ nhất, không nên sử dụng cách xác định Tòa án giải quyết vụ việc là Tòa án mà
các đương sự thỏa thuận trong hợp đồng nếu có tranh chấp xảy ra mà chỉ nên quy định
khi có tranh chấp xảy ra, Tòa án được xác định là Tòa án mà pháp luật quy định có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đó. Bởi việc Tòa án tuân thủ việc thụ lý theo thẩm quyền sẽ
tránh được tình trạng các doanh nghiệp hiểu sai và gửi đơn kiện tràn lan, không theo địa
hạt.


11


Th hai, nu Tũa ỏn m nguyờn n yờu cu l ni cú phn ln bt ng sn m
cỏc bờn tranh chp (hoc la chn Tũa ỏn ni cú bt ng sn cú giỏ tr ln nht) thỡ vic
gii quyt v vic s thun li hn l nu nguyờn n yờu cu Tũa ỏn ni cú ớt bt ng
sn (hoc ni cú bt ng sn cú giỏ tr thp). Phỏp lut t tng dõn s cn cú mt quy
nh rừ rng hn, lm cn c phỏp lý cho ng s khi la chn Tũa ỏn gii quyt. iu
ny khụng ch m bo cho quỏ trỡnh gii quyt v vic xy ra nhanh chúng, tit kim
thi gian, tin bc; m hn na, cũn to tin hot ng t tng sau ú diờn ra thun
li.

C. KT LUN
Cú th thy, bờn cnh nhng im tớch cc trong quy nh v thm quyn s thm ca
Tũa ỏn theo lónh th trong BLTTDS thỡ cũn cú nhng im cũn hn ch cn c sa i
b sung hon thin nhng quy nh ca phỏp lut. iu ú m bo cho cỏc ng s
tham gia t tng bo v c quyn v li ớch hp phỏp ca mỡnh cng nh to iu kin
cho cỏc Tũa ỏn trong vic gii quyt nhanh chúng chớnh xỏc v vic dõn s.

Danh mc ti liu tham kho:
1. Trng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội,
2011.
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).

12


3. Nghị quyết của HĐTPTANDTC số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 hướng dẫn
thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của
BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

BLTTDS.
4. Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ và quyền lựa chọn Tòa án của
đương

sự

/>
lanh-tho-va-quyen-lua-chon-toa-an-cua-duong-su-151189#ixzz3Qs8v6XMi

13



×