I.
MỞ ĐẦU
Trình độ tay nghề của người lao động (NLĐ) chỉ có được hoặc chỉ đạt đến trình
độ nhất định bằng con đường học tập và tích lũy kiến thức về nghề nghiệp đó. Vì
vậy, học nghề chính là con đường đúng đắn và tích cực nhất đối với NLĐ. Quan hệ
dạy và học nghề giữa cơ sở dạy nghề và người học nghề được hình thành bằng một
trong hai con đường: tuyển sinh theo chỉ tiêu tuyển sinh Nhà nước giao hoặc giao
kết hợp đồng học nghề. Sau đây em xin được nêu và phân tích các qui định hiện
hành về hợp đồng học nghề.
II. NỘI DUNG
Về khái niệm, theo khoản 1 Điều 35 Luật dạy nghề 2006, “Hợp đồng học nghề
là sự thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ giữa người đứng đầu cơ sở dạy nghề với
người học nghề”. Từ khái niệm trên, có thể thấy, hợp đồng học nghề chính là sự
thỏa thuận giữa người đứng đầu cơ sở dạy nghề và người học nghề, tập nghề với
mục đích kèm cặp nghề để người học nghề, tập nghề học xong có thể trở thành
người lao động có đủ kĩ năng và kĩ thuật làm việc trong các dây chuyền sản xuất
của tổ chức, doanh nghiệp.
Về chủ thể giao kết, trong hợp đồng học nghề, chủ thể giao kết là người đứng
đầu cơ sở dạy nghề và người học nghề.Trong đó, người đứng đầu cho cơ sở dạy
nghề là người đại diện cho cơ sở dạy nghề trong giao kết hợp đồng với người học
nghề. Để tham gia giao kết, người học nghề phải đủ 13 tuổi trở lên, có đủ sức khỏe
đáp ứng yêu cầu của nghề theo học. Đối với cơ sở dạy nghề, điều kiện để tham gia
vào quan hệ hợp đồng học nghề là cơ sở đó phải được phép thành lập đáp ứng các
yêu cầu luật định, bao gồm điều kiện về nội dung và điều kiện về thủ tục.
Về hình thức, Điều 24 BLLĐ qui định việc học nghề phải có hợp đồng học
nghề bằng văn bản hoặc bằng miệng giữa người học nghề với người dạy nghề hoặc
đại diện cơ sở dạy nghề.Hợp đồng học nghề bằng văn bản có thể được sử dụng
trong mọi trường hợp, không phân biệt thời hạn học nghề.Tuy nhiên, trong trường
hợp doanh nghiệp tuyển người vào học nghề để làm việc cho doanh nghiệp và
trường hợp học nghề tại cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài thì hợp đồng học
nghề buộc phải được giao kết bằng vănbản.Khi giao kết bằng văn bản, hợp đồng
học nghề được lập thành hai bản có giá trị pháp lí như nhau, mỗi bên giữ một
bản.Đối với trường hợp truyền nghề và kèm cặp nghề tại doanh nghiệp thì sử dụng
hình thức hợp đồng học nghề giao kết bằng lời nói. Xét về tính hiệu quả và tính có
căn cứ thì hợp đồng học nghề bằng lời nói có rất nhiều hạn chế so với hợp đồng học
nghề bằng văn bản. Vì vậy, Nhà nước không khuyến khích các bên sử dụng loại
hợp đồng này và giới hạn phạm vi áp dụng nó rất hạn chế.
Về nội dung, khoản 1 Điều 36 Luật dạy nghề 2006 đã qui định rất cụ thể vấn đề
này. Ngoài các nội dung chủ yếu đó, hai bên có thể thoả thuận các nội dung khác
phù hợp với điều kiện thực tế nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Trong trường hợp doanh nghiệp nhận người vào học nghề để sử dụng thì hợp đồng
học nghề phải có cam kết về thời hạn làm việc cho doanh nghiệp và phải bảo đảm
ký kết hợp đồng lao động sau khi học xong, đồng thời phải có giao kết về tiền lương
trả cho người học trong trường hợp người học trực tiếp hoặc tham gia làm ra sản
phẩm cho doanh nghiệp trong thời gian học nghề. Đối với hợp đồng học nghề theo
hình thức kèm cặp tại doanh nghiệp, ngoài những nội dung giống như các trường
hợp thông thường, “phải có thỏa thuận thời gian bắt đầu được trả công và mức tiền
công trả cho người học nghề theo từng thời gian” (khoản 3 Điều 36 Luật dạy nghề
2006).
Về vấn đề chấm dứt hợp đồng học nghề, vấn đề này được qui định chi tiết
trong Luật dạy nghề 2006 và Nghị định 139/2006/NĐ-CP. Hợp đồng hoc nghề có
thể chấm dứt trong các trường hợp: hết hạn hợp đồng, khóa học kết thúc, người học
nghề đi thực hiện nghĩa vụ quân sự, hai bên cùng thỏa thuận chấm dứt hợp đồng
học một trong hai bên cùng thỏa thuận chấm dứt hợp đồng,..Quyền lợi và trách
nhiệm của các bên được giải quyết như thế.nào phụ thuộc chủ yếu vào việc chấm
dứt hợp đồng học nghề hợp pháp hay trái pháp luật. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật
nước ta chưa có qui định cụ thể về các điều kiện chấm dứt hợp đồng học nghề hợp
pháp và cách giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng học nghề trái pháp
luật. Chỉ có hai vấn đề được qui định, đó là: trách nhiệm của cơ sở dạy nghề trong
việc hoàn trả tiền học phí cho người học nghề và trách nhiệm bồi thường chi phí
dạy nghề của người học nghề cho cơ sở dạy nghề trong một số trường hợp. Theo
qui định tại Điều 37 Luật dạy nghề năm 2006, người học nghề đơn phương chấm
dứt hợp đồng học nghề trước thời hạn thì không được trả lại học phí đã nộp. Chỉ
trong trường hợp người học nghề đi làm nghĩa vụ quân sự, bị ốm đau, tai nạn, thai
sản không đủ sức khỏe hoặc gia định có khó khăn không thể tiếp tục học nghề thì
được trả lại phần học phí của thời gian học còn lại. Cơ sở dạy nghề đơn phương
chấm dứt hợp đồng học nghề thì phải báo cho người học nghề biết trước ít nhất 3
ngày làm việc và hoàn trả toàn bộ học phí đã thu, trừ những sự kiện bất khả kháng
theo qui định của pháp luật dân sự. Cũng trong điều 37, tại khoản 3 qui định:
“Trường hợp doanh nghiệp tuyển người vào học nghề để làm việc cho doanh
nghiệp, nếu người học nghề không làm việc theo cam kết thì phải bồi hoàn chi phí
dạy nghề. Mức bồi hoàn do hai bên thoả thuận theo hợp đồng học nghề”.
Tuy nhiên, thực tế, có không ít những vấn đề bất cập xảy ra giữa luật và văn
bản hướng dẫn. Theo tinh thần của BLLĐ và Luật Dạy nghề 2006, trường hợp
người học nghề, tập nghề được doanh nghiệp (DN) tổ chức dạy nghề không thu phí
học nghề, nếu đã ký HĐLĐ và cam kết làm việc cho DN theo một thời hạn nhất
định mà người học nghề sau khi được đào tạo lại không làm việc hoặc chấm dứt
hợp đồng trước thời hạn cam kết làm việc cho DN thì phải bồi thường chi phí dạy
nghề (theo Điều 24BLLĐ, Điều 37 Luật Dạy nghề 2006). Tinh thần của BLLĐ và
Luật Dạy nghề là vậy, nhưng Nghị định số 44/2003/NĐ-CP do Chính phủ ban hành
đã loại trừ một số trường hợp, đó là khi NLĐ chấm dứt HĐLĐ đúng và đủ theo các
quy định tại Điều 37 BLLĐ thì không phải bồi hoàn chi phí đào tạo.Trong thực tế,
để chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực và kỹ năng làm việc của NLĐ Việt
Nam, các DN có vốn đầu tư nước ngoài, bằng chi phí của mình, đã đưa NLĐ của
mình sang các nước phát triển để đào tạo từ vài tháng đến vài năm với cam kết
NLĐ phải làm việc cho DN trong khoảng thời gian nhất định.
III. KẾT LUẬN
Mặc dù còn nhiều vấn đề bất cập, nhưng không thể phủ nhận rằng hợp đồng
học nghề đã giúp cho hoạt động dạy - học nghề được tiến hành một cách cụ thể,
minh bạch.Những qui định về hợp đồng học nghề càng được hoàn thiện thì người
học nghề cũng như cơ sở dạy nghề sẽ càng thực hiện việc dạy và học một cách đúng
đắn và nghiêm chỉnh hơn.Từ đó mới có thể nâng cao chất lượng dạy nghề, nâng cao
nghiệp vụ, kiến thức và kĩ năng cho người học nghề.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật lao động Việt Nam, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội – 2010
2. Bộ luật lao động, Nxb Tư pháp, Hà Nội – 2010
3. Luật dạy nghề năm 2006
4. Nghị định 139/2006/NĐ-CPngày 20/11/2006