Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

88 phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.85 KB, 5 trang )

BÀI LÀM
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến
trong đời sống xã hội.Khi xác định các dấu hiệu của vi phạm hành chính , cần
đặc biệt lưu ý đến việc nhận biết các dấu hiệu để phân biệt vi phạm hành
chính với tội phạm hình sự.Chúng ta đều biết rằng , vi phạm hành chính là
hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự.Trong rất nhiều trường hợp ranh giới giữa vi phạm hành chính
và tội phạm hình sự rất khó phân biệt . Như vậy, nếu không xác định đúng
đắn vấn đề này thì có thể sẽ xảy ra tình trạng “ để lọt tội phạm ” hoặc “ xử lí
oan người vi phạm chưa đến mức phạm tội ”.Chính vì thế cần phân biệt vi
phạm hành chính với tội phạm. Để phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm
thì cần phân biệt ở một số khía cạnh sau :
Về khái niệm :
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố
ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lí nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật thì bị xử phạt hành
chính.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đuợc quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độc chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa.( Khoản 1 Điều 8 của Bộ luật hình sự năm 1999).
Về chủ thể :
Chủ thể của vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức.Còn
chủ thể của tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự nước ta chỉ có thể là
cá nhân.
1



Về loại khách thể bị xâm hại:
Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính phong phú, đa dang, ít
nguy hiểm hơn như trật tự quản lí hành chính nhà nước trong các lĩnh vực an
toàn giao thông, an ninh trật tự, an toàn xã hội...
Khách thể của quan hệ pháp luật hình sự quan trọng hơn như các tội xâm
phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người...
Ví dụ: các hành vi như mua bán, tàng trữ, vận chuyển chất ma túy xâm
phạm chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước luôn được xác định là tội
phạm, còn hành vi hút thuốc lá ở những nơi cấm hút thuốc thì do tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi này không đáng kể nên được xác định là vi phạm
hành chính.
Về hành vi vi phạm:
Hành vi vi phạm hành chính gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý còn tội phạm gồm
những lỗi như cố ý gián tiếp, cố ý trực tiếp, vô ý do cẩu thả, vô ý do quá tự
tin.
Về hình thức xử lí:
Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính ít nguy hiểm hơn nên hình
thức xử lí chủ yếu thông qua các biện pháp xử phạt hành chính.
Khách thể của quan hệ pháp luật hình sự quan trọng hơn nên hình thức xử
phạt chủ yếu thông qua hình phạt.
Về cơ sở pháp lí quy định:
Tội phạm là loại vi phạm đuợc quy định trong Bộ luật hình sự và chỉ có
Quốc hội mới có quyền đặt ra các quy định về tội phạm và hình phạt
Ví dụ như tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 136 của Bộ luật
hình sự năm 1999 , tội buôn lậu được quy định tại Điều 153 Bộ luật Hình sự
1999…
Vi phạm hành chính đuợc quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như luật, pháp lệnh hoặc nghị

2


định. Không được quy định trong luật hình sự, nhiều cơ quan có chức năng xử
lý, không chịu hình phạt, chỉ bị phạt hành chính, không mang án tích.
Ví dụ như Điều 6 Nghị định số 87/ 2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm
2001 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia
đình
Về mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm:
Về đại thể, vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm thấp hơn so với
tội phạm hình sự.Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm đuợc
đánh giá ở nhiều yếu tố khác nhau và những yếu tố này đuợc thể hiện một
cách cụ thể trong các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm là dấu hiệu căn bản
để phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm hình sự.
Vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn, ít
nghiêm trọng hơn và thiệt hại nhỏ hơn so với tội phạm hình sự. Trong Bộ
luật hình sự 1999, các nhà làm luật đã quy định tương đối cụ thể những dấu
hiệu xác định các loại tội phạm cụ thể và những dấu hiệu này giúp chúng ta
có thể xác định ranh giới giữa tội phạm và vi phạm hành chính. Căn cứ vào
các quy định của pháp luật hiện hành, việc đánh giá mức độ nguy hiểm của
tội phạm và vi phạm hành chính thường phân biệt với nhau ở các dấu hiệu sau
đây:
Dấu hiệu về mức độ gây thiệt hại cho xã hội : Trong Bộ luật Hình sự ,
đối với nhiều loại tội phạm, nhà làm luật thường mô tả một cách cụ thể mức
độ gây thiệt hại cho xã hội của tội phạm. Dựa vào dấu hiệu này ta có thể phân
biệt ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm hình sự.Vi phạm hành
chính có mức độ gây thiệt hại nhỏ hơn so với tội phạm.Mức độ gây thiệt hại
có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như mức độ gây thương tật ,
giá trị tài sản bị xâm hại , giá trị hàng hóa phạm pháp…

Ví dụ: Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự quy định: “ Người nào trộm
cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm
3


mươi triệu đồng hoặc dưới năm mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm
trọng...thì bị...”. Như vậy, nếu như giá trị tài sản bị trộm cắp dưới mức quy
định nêu trên thì người vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính về hành
vi “trộm cắp vặt” theo quy định tại khoản 1Điều18 Nghị định số
150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của chính phủ; hoặc Khoản 1 Điều 104
Bộ luật hình sự quy định : “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ thương tật từ11% đến 30% hoặc dưới
11% nhưng...thì …” ; vì vậy nếu mức độ gây thương tích cho nạn nhân dưới
mức quy định nêu trên thì người vi phạm bị xử phạt hành chính vì hành vi
“đánh nhau” theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 15/2005/NĐ-CP
ngày 12/12/2005 của Chính phủ.
Dấu hiệu về mức độ tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần: Trong Bộ luật
Hình sự, rất nhiều loại tội phạm đuợc nhà làm luật mô tả là “đã bị xử phạt
hành chính”. Như vậy , dấu hiệu này cũng đuợc coi là ranh giới để xác định
tội phạm và vi phạm hành chính.Trong những trường hợp này, nếu chỉ đánh
giá về mặt hành vi không thôi thì không thể xác định đó là tội phạm hay vi
phạm hành chính mà phải căn cứ vào dấu hiệu tái phạm hoặc vi phạm nhiều
lần.
Ví dụ: người nào có hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn mà bị xử phạt
hành chính theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21
tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình mà còn vi phạm thì sẽ bi xử phạt theo Điều 148 BLHS năm
1999 và tức là sẽ là tội phạm chứ không phải là vi phạm hành chính nữa.
Dấu hiệu về công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm:
Trong nhiều trường hợp , mức độ gây thiệt hại không phi là căn cứ duy nhất

để xác định ranh giới giữa tội phạm và vi phạm hành chính , mà còn cần xét
đến dấu hiệu về công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi
phạm.Dấu hiệu này là một căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi vi phạm.
4


Ví dụ: Điều 104 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào cố ý gây thương
tích...mà tỉ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây thì...:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều
người ;
…”
Tức là nếu mức độ gây nguy hiểm cho nạn nhân dưới mức 11% thì chỉ
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh nhau” theo quy định tại
khoản 2 Điều 7 Nghị định của Chính phủ số 150/2005/NĐ- CP ngày
12/12/2005. Còn nếu gây thương tật từ 11% đến 30% hoặc gây thương tích
cho nạn nhân dưới 11% nhưng lại dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ
đoạn gây nguy hại cho nhiều người...thì bị buộc tội cố ý gây thương tích hoặc
tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình
sự năm 1999.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giao trình luật hành chính Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2008.
2. Bộ luật hình sự năm 1999 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002.
4. Pháp lệnh số 31/07/PL-UBTVQH11 ngày 08/3/2007 về sửa đổi một số điều
của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính...
5. Nghị định của Chính phủ số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005.
6. Quyết định 1315/QĐ-TTg ngày 1-1-2010 của Thủ tướng Chính phủ

về việc cấm hút thuốc lá.
7. Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
8. Một số trang wed khác

5



×