Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Việt nam khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.05 KB, 6 trang )

Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam khi gia nhập
cộng đồng kinh tế ASEAN
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dự kiến sẽ được thành lập vào cuối năm 2015 là một
bước ngoặt đánh dấu sự hòa nhập toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á. Đây vừa là
cơ hội vừa là thách thức lớn đối với lao động Việt Nam cũng như công tác đào tạo nghề
hiện nay.
Cộng đồng kinh tế ASEAN - tiềm năng phát triển
Từ năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã hoạch định tầm nhìn ASEAN 2020 bao gồm
ba trụ cột chính là Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN (APSC), Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC). Năm 2007, một lần
nữa các nhà lãnh đạo nhấn mạnh lại cam kết này, đồng thời quyết định đẩy nhanh quá
trình thành lập cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo
ASEAN đã đồng ý rút ngắn tiến trình hội nhập kinh tế khu vực bằng việc thông qua Kế
hoạch hành động AEC và thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Theo định
hướng, AEC sẽ là một khu vực kinh tế ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh tranh cao,
trong đó hàng hóa, dịch vụ và đầu tư được lưu chuyển thông thoáng, kinh tế phát triển
đồng đều, nghèo đói và phân hóa kinh tế - xã hội giảm bớt. Cộng đồng kinh tế là xu
hướng liên kết khu vực hiện nay của các nhóm nước ở nhiều khu vực trên thế giới, như
Cộng đồng châu Âu, Cộng đồng các quốc gia độc lập… Cộng đồng Kinh tế ASEAN
được thành lập nhằm tạo dựng một thị trường thống nhất cho các quốc gia thành viên
ASEAN, thúc đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có tay
nghề trong ASEAN. Mục tiêu của Cộng đồng Kinh tế ASEAN là thúc đẩy phát triển kinh
tế một cách công bằng, thiết lập khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao mà với năng
lực cạnh tranh này, ASEAN có thể hội nhập đầy đủ và vững chắc vào nền kinh tế toàn
cầu. Cộng đồng Kinh tế ASEAN được kỳ vọng là cộng đồng năng động, có ảnh hưởng
lớn đến nền kinh tế toàn cầu với GDP bình quân hằng năm ước đạt 2.000 tỷ USD và sẽ
tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm tới. Khi tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN,
theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), kinh tế Việt nam có cơ hội tăng trưởng
thêm 14,5% vào năm 2025.



Cộng đồng Kinh tế ASEAN bao gồm 10 quốc gia với dân số hơn 620 triệu người, trong
đó 300 triệu người tham gia lực lượng lao động. Ba quốc gia có số lao động chiếm tỷ
trọng hơn 70% là Indonesia (40%), Philippines (16%) và Việt Nam (15%). Lực lượng lao
động này khi được “giải phóng”, được tự do di chuyển trong thị trường chung sẽ là nhân
tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước thành viên Cộng đồng
Kinh tế ASEAN. Trước mắt, trong năm 2015 có 8 ngành nghề lao động trong các nước
ASEAN được tự do di chuyển thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương
đương, gồm kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên
ngành du lịch. Ngoài ra, nhân lực chất lượng cao (các chuyên gia, thợ lành nghề), trong
đó có nhân lực được đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên, thông thạo
ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, được di chuyển tự do hơn.
Hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN giúp thị trường lao động trong ASEAN sôi động
hơn, thúc đẩy tạo việc làm cho từng quốc gia thành viên. Cũng theo dự báo của Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO), khi tham gia AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng lên 14,5%
vào năm 2025. Tuy nhiên, do trình độ phát triển không đồng đều, nên hiện nay, lao động
có tay nghề và kỹ năng cao trong khối ASEAN chủ yếu di chuyển vào thị trường
Singapore, Malaysia và Thái Lan. Còn lại, hầu hết các lao động di chuyển trong phạm vi
ASEAN là lao động trình độ kỹ năng thấp hoặc không có kỹ năng. Kết quả khảo sát các
chủ sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN do ILO thực hiện cho thấy, doanh nghiệp
trong khối ASEAN hiện đang rất lo ngại về tình hình thiếu hụt lực lượng lao động có tay
nghề và kỹ năng trước sự ra đời của Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015; gần 50%
chủ sử dụng lao động trong khối ASEAN trong cuộc khảo sát cho biết, người lao động tốt
nghiệp phổ thông không có được kỹ năng họ cần; cử nhân tốt nghiệp đại học có được
những kỹ năng có ích nhưng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp (cả về
số lượng và chất lượng)...
Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam
Khi tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Việt Nam có những lợi thế nhất định, nhưng


đồng thời có những hạn chế, những thách thức không nhỏ. Lợi thế lớn nhất của Việt Nam

là có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê, tính đến giữa năm 2014, quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là
53,8 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 47,52 triệu người. Tỷ lệ lao
động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 47,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng
20,8%; khu vực dịch vụ là 32,1%. Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng
lên; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10 năm trở lại đây (theo
số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), trong đó lao động qua đào tạo nghề
đạt 30%. Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và
thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa
học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh
doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài.
Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, do vậy, tỷ
lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%. Chất
lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập.
Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như chưa qua đào tạo. Chất lượng
nguồn nhân lực nước ta còn thấp, là một trong những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (năm 2012), lao động phổ thông không có chuyên
môn kỹ thuật chiếm 83,28% tổng số lao động; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ
lệ 4,84%; lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp là 3,61% và lao động có trình độ
từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 8,26%. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
lao động qua đào tạo nghề (gồm cả dạy nghề chính quy và thường xuyên, phi chính quy,
dạy nghề dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh nghiệp) chiếm khoảng 34% tổng số lao
động trong cả nước. Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và
có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực. Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt
Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Nếu lấy thang
điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước
châu Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm;
Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm... Do vậy nên năng suất lao động của Việt
Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái Bình Dương (thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp
hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần). Năng suất lao động của Việt Nam

bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan. Trong giai đoạn 2002 - 2007, năng suất lao động tăng
trung bình 5,2% mỗi năm. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm
2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hằng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%.
Việt Nam còn thiếu nhiều lao động lành nghề, nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được
nhu cầu của trị trường lao động và doanh nghiệp về tay nghề và các kỹ năng mềm khác.
Trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong quá
trình hội nhập. Những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong những nhân tố
chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (năm 2011, Việt Nam xếp
thứ 65/141 nước được xếp hạng về năng lực cạnh tranh).
Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực thấp là do công tác đào
tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu
sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước


trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chưa giải quyết tốt mối
quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa dạy chữ với dạy người, dạy nghề,…
Mặt khác, hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu
kém và hạn chế, như bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát, thu thập và cung
ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là
người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ thống chỉ tiêu về thị trường lao động
tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ, thiếu thống nhất và khó so sánh
quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được hiện trạng của cung - cầu lao động, các “nút thắt” về
nhu cầu nguồn nhân lực trong nước. Ngoài ra, còn thiếu mô hình dự báo thị trường lao
động tin cậy và nhất quán, thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác thống kê, phân
tích, dự báo.
Giải pháp cho phát triển
Tăng trưởng kinh tế chỉ dựa vào những lợi thế không căn bản (như xuất khẩu tài nguyên
thiên nhiên, sử dụng công nghệ lạc hậu, lao động giá rẻ...) là sự tăng trưởng không bền
vững. Khi tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, công nghệ sản xuất lạc hậu và năng lực tài
chính không đủ để đổi mới công nghệ và thiết bị, không có sự chuẩn bị tốt về nguồn nhân

lực có kỹ năng, tất cả các yếu tố trên sẽ trở thành lực cản lớn cho sự phát triển. Việc sử
dụng nhân công giá rẻ với năng suất lao động thấp sẽ dẫn đến tình trạng người lao động
không có thời gian để đào tạo lại và nâng cao trình độ để đáp ứng được những đòi hỏi
mới của công nghệ hiện đại; khi đó, nền kinh tế rơi vào vòng luẩn quẩn, thậm chí có thể
suy thoái, mất cân đối trầm trọng về các yếu tố đầu vào có chất lượng cho sản xuất.
Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) từng khuyến cáo rằng Việt Nam cần dành
sự đầu tư lớn hơn để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vì đây là yếu tố then chốt đưa
Việt Nam vượt khỏi ngưỡng nước có thu nhập trung bình trong những năm tới. Đầu tư
mạnh mẽ cho phát triển lực lượng lao động có kỹ năng thông qua nâng cao chất lượng
đào tạo nghề, cùng với cơ chế, chính sách sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chính là
chìa khóa để Việt Nam vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” thành công và trở thành nước
có thu nhập cao trong thời gian sớm hơn dự báo là năm 2058.
Để góp phần nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nhân lực Việt Nam, nhất là khi
Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập vào năm 2015, cần phải đổi mới căn bản và
toàn diện hệ thống giáo dục - đào tạo, trong đó có đào tạo nghề ở nước ta với một số giải
pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của dạy nghề trong chiến lược phát triển
nhân lực của đất nước thời kỳ 2011 - 2020. Ưu tiên đầu tư đào tạo nghề trong từng
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, vùng, ngành. Hình
thành thang giá trị nghề nghiệp trong xã hội.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách về dạy nghề, học nghề; sửa Luật Dạy nghề và các
quy định liên quan. Có cơ chế để cơ sở dạy nghề là một chủ thể độc lập, tự chủ. Có chính
sách đãi ngộ, thu hút giáo viên dạy nghề; chính sách đối với người đứng đầu cơ sở dạy
nghề, người lao động qua đào tạo nghề; chính sách đào tạo liên thông, hỗ trợ người học


nghề. Xây dựng cơ chế để các doanh nghiệp và cơ sở sử dụng lao động tham gia xây
dựng, đánh giá, điều chỉnh chương trình đào tạo, hướng dẫn thực hành và đánh giá năng
lực người học, hướng tới doanh nghiệp phải là một trong những chủ thể đào tạo nghề.
Đổi mới chính sách tài chính về dạy nghề; đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng nguồn lực cho

phát triển dạy nghề; khuyến khích hợp tác và thành lập các cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư
nước ngoài cũng như các cơ sở dạy nghề chuyên biệt đối với người khuyết tật, người dân
tộc thiểu số.
Thứ ba, đổi mới cơ cấu dạy nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chuyển hệ thống
dạy nghề khép kín thành hệ thống đào tạo mở, linh hoạt, liên thông giữa các thành tố của
hệ thống và liên thông với các bậc học khác. Đổi mới cơ cấu hệ thống dạy nghề trên cơ
sở khung trình độ quốc gia, tiêu chuẩn kỹ năng nghề phù hợp với đất nước, xu thế các
nước trong khu vực và trên thế giới. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp gồm ba
cấp trình độ là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, trên cơ sở sáp nhập trung cấp nghề và trung
cấp chuyên nghiệp; cao đẳng nghề và cao đẳng.
Thứ tư, tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy nghề, bao gồm phát triển đội
ngũ giáo viên dạy nghề chuẩn hóa về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề, nghiệp vụ sư phạm
theo các cấp độ (quốc gia, khu vực và quốc tế). Phát triển chương trình đào tạo phù hợp
với công nghệ sản xuất hiện đại theo hướng mở, linh hoạt, thích hợp với các cấp và trình
độ đào tạo nghề; áp dụng một số chương trình đào tạo của các nước tiên tiến trong khu
vực và thế giới phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Thực hiện kiểm định cơ sở dạy nghề và
chương trình; xây dựng và ban hành tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia; tổ chức đánh giá,
cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động; ban hành các tiêu chuẩn về cơ
sở vật chất và thiết bị dạy nghề cho từng nghề ở từng cấp độ.
Thứ năm, đổi mới hoạt động đào tạo; chuyển chương trình dạy nghề từ chủ yếu trang bị
kiến thức sang mục tiêu phát triển kỹ năng và năng lực hành nghề cho người học; đa dạng
hóa nội dung dạy nghề theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình thành năng
lực nghề nghiệp cho người học. Các cơ sở dạy nghề tự chịu trách nhiệm về các hoạt động
đào tạo từ việc chủ động trong tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo trên cơ sở
khung chương trình; xây dựng kế hoạch đào tạo, đánh giá kết quả đào tạo trên cơ sở có sự
tham gia của doanh nghiệp; bảo đảm chất lượng đào tạo; bảo đảm chuẩn hoá “đầu vào”,
“đầu ra”; tự kiểm định chất lượng đào tạo và chịu sự đánh giá định kỳ của các cơ quan
kiểm định chất lượng của Nhà nước. Đổi mới quản lý quá trình dạy và học, nội dung,
hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả dạy nghề trên cơ sở chú trọng đánh giá việc
hiểu, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, có sự

tham gia của doanh nghiệp hoặc đại diện sử dụng lao động.
Thứ sáu, gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp,
phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động. Xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ
giữa dạy nghề với trị trường lao động, hướng vào việc đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội
của từng địa phương, từng ngành, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Hình thành các
đơn vị quan hệ trường - ngành trong các cơ sở dạy nghề. Doanh nghiệp trực tiếp tham gia
vào các hoạt động đào tạo nghề như xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề, xác định danh
mục nghề, xây dựng chương trình đào tạo, đánh giá kết quả học tập của người học


nghề… Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin cho các cơ sở dạy nghề về nhu
cầu việc làm và các chế độ cho người lao động; phản hồi cho cơ sở dạy nghề về trình độ
của người lao động. Các cơ sở dạy nghề tổ chức theo dõi, thu thập thông tin về học sinh
học nghề sau khi tốt nghiệp; có trách nhiệm tiếp nhận các thông tin từ phía doanh nghiệp
và thay đổi để thích ứng với nhu cầu của doanh nghiệp.
Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về dạy nghề, nhất là với những nước thành công
trong phát triển dạy nghề ở khu vực ASEAN và trên thế giới. Tích cực vận động, thu hút
nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA cho dạy nghề. Hợp tác với các nước ASEAN
để tiến tới công nhận kỹ năng nghề giữa các nước, hướng tới Cộng đồng ASEAN vào
năm 2015, tích cực tham gia vào các hoạt động của khu vực và thế giới để giao lưu và
học hỏi kinh nghiệm, như tham gia Hội thi tay nghề ASEAN, Hội thi tay nghề thế giới.../.
PGS, TS. Mạc Văn Tiến Viện trưởng
Viện Nghiên cứu khoa học dạy nghề



×