Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Địa danh núi non ở Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.39 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

1


A.MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia có địa hình ¾ là đồi núi. Vì vậy, dạng địa hình này
đã góp phần quan trọng trong đời sống cư dân Việt từ xa xưa. Đồi núi vừa là nơi có
cảnh đẹp, là nơi trồng rừng vừa là nơi phát triển kinh tế và bảo vệ các loài động vật
quý hiếm. Núi ở Việt Nam nhiều vô kể, trong đó gồm các dãy núi lớn, các ngọn núi
vừa và nhỏ khác nhau. Mỗi núi đều có một sự tích dẫn đến những tên gọi đặc trưng.
Các tên gọi này không chỉ để gọi mà còn phản ánh lịch sử, văn hóa vùng nơi ngọn núi
tồn tại. Địa danh núi non ở Việt Nam vẫn còn là vấn đề rộng mở, đòi hỏi phải có sự
khảo cứu thực tế. Nếu ở miền Bắc có ngọn Fansipan nổi tiếng, ở miền Nam có núi Bà
Đen huyền thoại, thì ở Trung Bộ cụ thể là Đà Nẵng cũng có những ngọn núi lớn được
nhiều người biết đến và nói lên lịch sử của vùng đất này.

B.NỘI DUNG
1. Đặc điểm địa danh núi non
1.1. Đặc điểm cấu tạo từ
Địa danh núi non có thể là tên của một ngọn núi, có thể là tên gọi của một quần
sơn, một dãy, một rặng lớn. đặc biệt là hệ thống địa danh núi non này lại xuất phát từ
nhiều ngôn ngữ nên rất đa dạng.
Để chỉ núi non, trong tiếng Việt có các danh từ chung: núi, non, đá, động,
ngàn, hòn, cao,…. Ví dụ:
-

Núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh)
Non Tản (Ba Vì, Hà Nội)
Đá Bạc (Phú Lộc, Thừa Thiên Huế)
Động Chùa (Hương Khê, Hà Tĩnh)


Ngàn Hống (dãy Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh)
Hòn Nghê (Sơn Trà, Đà Nẵng)

Nhưng các danh từ chung này chỉ đứng trước địa danh để định hướng thông tin
về đối tượng mà không tham gia cấu tạo địa danh.
Trái lại, trong những địa danh là từ Hán Việt, các yếu tố chỉ núi như “sơn”,
“lĩnh”, “cương” đều trở thành hình vị cấu tạo từ. ví dụ:
-

Ngũ Hành Sơn, Trường Sơn, Ngân Sơn,…
Hồng Lĩnh, Nghĩa Lĩnh,…
Hy Cương, Hoàng Long Cương,…
2


Các địa danh của các dân tộc ít người thường có mặt các yếu tố “bù”, “chư”,
“khau”, “ngọc”, “phia”, “pu”… và đều có nghĩa là núi. Về mặt từ loại, chúng là
danh từ chung nhưng khi đi vào hệ thống địa danh tiếng Việt thì các yếu tố này đều
tồn tại như hình vị cấu tạo từ. Ví dụ:
-

Khau Nhi (Bắc Quan, Hà Giang)
Phia Biooc (Ba Bể, Bắc Cạn)
Phia Đén (Nguyên Bình, Cao Bằng)
Pu Sam Sao (Sơn La)
Pu Luông (Văn Chấn, Yên Bái)
Pu Pha Phong (Bá Thước, Thanh Hóa)
Pù Rinh (Long Chấn, Thanh Hóa)
Chư Mom Ray (Sa Thầy, Kon Tum)


1.2 Đặc điểm văn hóa
Các địa danh núi non trên toàn đất nước tạo nên một bức tranh sơn mỹ phản
ánh văn hóa về ngôn ngữ và tính dân tộc trên mỗi địa bàn có sự nhiên diện của địa
danh đó. Khi chúng ta giải mã các địa danh đó cũng là lúc chúng ta tiếp cận với thế
giới tâm hồn của dân tộc đã sản sinh và sử dụng nó.
Mỗi địa danh do nhiên tạo hay nhân tạo không chỉ mang cái đẹp ngoại hình mà
nó luôn luôn gắn liền với sự hung vĩ, quyền uy, thiêng liêng và sự thần hóa của cá
nhân địa danh đó. Ví dụ: Núi Bà Nà ( Đà Nẵng) không chỉ đẹp đẽ về cái hình thức
quang cảnh tham quan mà nó còn thể hiện nét tâm linh trong toàn thể ngọn núi chúa
này qua ngôi chùa mang tên Linh Ứng, hay Núi Sơn Trà cũng có nhiều nơi thờ tự linh
thiêng cho người dân đến đây cầu nguyện như chùa Tam Thai và các hạng động sâu
trong núi thờ các vị thần thiên nhiên, thần dân gian,….
Ngoài xu hướng “Thần hóa” và ngược lại đó là xu hướng “nhân hóa” – Các
ngọn núi được người dân tưởng tượng ra giống với các nhân vật huyền thoại hay
truyền thuyết mà từ đó họ tôn thờ, cầu nguyện và cũng là nơi chú ý để du lịch và tham
quan. Từ Bắc vào Nam có 4 hòn vọng phu như: Tam Thanh (Lạng Sơn), Đông Sơn
(Thanh Hóa), Phù Cát (Bình Định), M’ Đrăk (Đắk Lắk).
Nói đến địa danh núi non chúng ta không thể không nhắc đến những ngọn núi
mang dấu ấn của các di tích lịch sử và những ngọn núi gắn liền với câu truyện dan
gian có thật của dân tộc Việt hay những ngọn núi do các người kỹ sư tạo dựng nên.
Các ngọn núi này được biết đến và trở thành địa danh nổi tiếng nhằm cho nhân dân
tưởng nhớ đến quá trình lịch sử, các anh hùng lịch sử, đời sống sinh hoạt của dân tộc
ta thời xưa và những người có công tạo dựng nên địa danh đó.

3


2. Các địa danh núi non tiêu biểu
2.1. Bà Nà – Núi Chúa
Nguồn gốc tên gọi Bà Nà, có người cho rằng khi người Pháp đặt chân đến vùng

này thấy rất nhiều cây chuối nên gọi là núi Banane, lâu dần người Việt đọc chệch
thành Bà Nà. Còn nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng chữ Bà Nà là tiếng Người Katu
nghĩa là "núi của tui". Một truyền thuyết khác cho rằng tên núi là tên viết tắt của Bà
Ponagar hay bà Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Pô: ngài; Inư: mẹ; Nưgar: xứ sở, tức Bà
Mẹ xứ sở.
Theo PGS.TS Lê Trung Hoa “Bà Nà có lẽ đã bắt nguồn từ tên của dân tộc Ba Na,
vì các lý do sau:
1. GS Đặng Nghiêm Vạn viết: “(…) ngành Ba Na bao gồm các cư dân hiện đang cư
trú ở trên cao nguyên Tây Nguyên và miền núi các tỉnh Quảng Nam (tức Quảng Nam
và Đà Nẵng hiện nay – LTH), Quảng Ngãi (…). Ở Việt Nam, ngành Ba Na được chia
làm hai ngành: Ba Na Bắc gồm các dân tộc Gié – Triêng, Xơ Đăng, Ba Na, (…). Phân
ngành Ba Na Nam bao gồm các dân tộc Mnông, Xtiêng (…)”. Rõ ràng các dân tộc Ba
Na có cư trú ở vùng núi tỉnh Quảng Nam cũ.
2. GS Nguyễn Tài Cẩn thay vì gọi Ba Na, viết tiểu chi Bànà. Như vậy Ba Na cũng
gọi Bà Nà
3. Cụ Đinh Xuân Vịnh và Nguyễn Như Ý – Nguyễn Thanh Chương – Bùi Thiết,
thay vì ghi Bà Nà đã ghi Ba Na (hay Bà Na) .
4. Hai thanh ngang và huyền thường chuyển đổi với nhau: (bao) nhiêu – nhiều,
(nhà) ngươi – người, (ngày) nao – nào,…
5. Tên nhiều dân tộc ở Việt Nam cũng như trên thế giới chuyển thành địa danh. Xin
nêu cụ thể vài trường hợp: tên dân tộc Gia Rai (bắt nguồn từ tên Jrai, nghĩa là “thác
nước”) sau trở thành tên tỉnh Gia Lai; tên dân tộc Lào trở thành tên nước Lào; tên thủ
đô Paris của Pháp bắt nguồn từ tên dân tộc Paris cư trú tại đây ngày xưa,…”
Núi Bà Nà toạ lạc 1 khu vực thuộc về dãy núi Trường Sơn nằm ở xã Hòa Ninh,
huyện Hòa Vang, cách Đà Nẵng 25 km về phía Tây Nam. Trung tâm du lịch của Bà
Nà nằm trên đỉnh Núi Chúa có độ cao 1489 m so với mực nước biển.
Năm 1986, Bà Nà đã được Chính phủ công nhận là khu dự trữ thiên nhiên, đối
tượng bảo vệ và là rừng nhiệt đới gồm nhiều loại động thực vật quý hiếm cần được
bảo vệ như trầm hương, gụ lậu, sến mặt, thông chàng, trĩ sao, gấu đen Châu Á, vượn
má hung... Bà Nà có nhiều khu rừng nguyên sinh được phân bổ theo các sườn dốc khá

hiểm trở.

4


Trên núi Bà Nà, các khu vực nghỉ mát của binh lính Pháp đã xuất hiện từ đầu
thế kỷ 20 mà hiện giờ tồn tại qua các phế tích giữa rừng, ngày nay, các ngôi biệt thự,
nhà nghỉ đã được xây dựng lại và xuất hiện trong các khu resort: Bà Nà by night, Lê
Nim, Biệt thự Hoàng Lan,... Và trong những năm gần đây, thành phố Đà Nẵng vẫn
đang tiếp tục khôi phục và xây dựng một số biệt thự cổ, khu văn hóa Phật giáo, hầm
rượu và hàng loạt khách sạn, biệt thự, quán bar, sân tennis, sân cầu lông...
Từ đỉnh núi Bà Nà, về phía Tây là dãy Trường Sơn, Phía Đông là đồng lúa Hòa
Vang. Từ đây du khách dễ dàng nhìn thấy bán đảo Sơn Trà, sông Thu Bồn, Hội An,
nội thành Đà Nẵng...

Đỉnh Bà Nà
Sau nhiều đợt thăm dò, đến tháng 4-1901, đoàn thám hiểm của Debay đã tìm ra
núi Chúa, tức Bà Nà, trên đỉnh địa hình khá bằng phẳng, khí hậu tương tự như Đà Lạt
và chỉ cách thành phố Đà Nẵng về phía tây chừng 46 km.
Nhưng mãi đến năm 1912, khi toàn quyền Đông Dương ra nghị định biến Bà Nà
thành một khu bảo tồn lâm nghiệp thì việc nghiên cứu rặng núi này mới được đẩy
mạnh. Và rồi tháng 5 năm 1919, luật sư Beisson trở thành người đầu tiên xây dựng
nhà nghỉ ở Bà Nà.
Rặng núi này có chế độ khí hậu nhiệt đới với nhiệt độ trung bình hàng năm
khoảng 15-20 °C, cao nhất chỉ đến 22 - 25 °C, còn về đêm, nhiệt độ trung bình về
đêm khoảng 15 - 17 °C. Khác biệt hẳn với thời tiết nóng nực, khô rát của vùng miền
Trung, Bà Nà là một không gian ôn đới riêng biệt. Một ngày luôn có 4 mùa diễn ra và
một năm có hai mùa rõ rệt. Những khoảnh khắc trong ngày được so sánh như mùa
xuân của nước Pháp: sáng là mùa xuân, chiều là mùa thu, tối là mùa đông se lạnh.
Bà Nà có những giá trị sinh thái và du lịch to lớn,. Càng lên cao, nhiệt độ càng

giảm và độ ẩm càng tăng.
5




Hệ thực vật đa dạng và độc đáo với khoảng 136 họ, 379 chi và hơn 543 loài (có
251 loài cây thuốc).



Hệ động vật: 256 loài động vật có xương sống (61 loài thú, 178 loài chim và 17
loài bò sát)

Năm 1986, Bà Nà đã được Chính phủ công nhận là khu dự trữ thiên nhiên, đối
tượng bảo vệ và là rừng nhiệt đới gồm nhiều loại động thực vật quý hiếm cần được
bảo vệ như trầm hương, gụ lậu, sến mặt, thông chàng, trĩ sao, gấu đen Châu Á, vượn
má hung... Bà Nà có nhiều khu rừng nguyên sinh được phân bổ theo các sườn dốc khá
hiểm trở.
2.2. Ngũ Hành Sơn – Núi Non Nước
Ngũ Hành Sơn - Núi Non Nước xét về số lượng âm tiết có 3 âm tiết là địa danh
Hán Việt. Ngũ: là 5; Sơn: là núi.
Ngũ Hành Sơn có thể hiểu đơn giản là 5 ngọn núi, hay cũng có thể hiểu rộng
hơn dựa vào học thuyết Trung Hoa - Học thuyết Âm dương Ngũ hành với 5 ngọn núi:
"Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ".
Giáp Ngọ bình Nam đồ do Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng lập năm 1594 sau
khi được vua Lê Thánh Tông cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa, vẽ đường đi từ Chiêm
Thành đến biên giới Chân Lạp, có ghi địa danh là "Non Nước Sơn".
- Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá Công Đạo (tự Đạo Phủ, quê Nghệ An)
soạn vào năm Bính Dần (1686), vẽ đường đi từ Thăng Long đến Chiêm Thành, có ghi

địa danh là "Non Nước Sơn tam đỉnh" bằng chữ Nôm.
Tên Ngũ Hành Sơn xuất hiện muộn hơn, và đã được Lê Quang Định nói đến
trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806): "Phía đông bến đò xã Hoàn Ký Đông
có núi Ngũ Hành Sơn, năm tòa núi chia làm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ gọi là núi
Non Nước.
Tháng tư (âm lịch) 1825, vua Minh Mạng đến chơi Ngũ Hành Sơn lần đầu.Tuy
nhiên, mãi đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837), tên của các ngọn núi ấy mới được nhà
vua tái xác nhận bằng một văn bản hành chính. Sách Đại Nam dư địa chí ước biên có
từ thời Nguyễn chép:
"Ngũ Hành Sơn ở huyện Diên Phước Tục gọi là hòn Non Nước. Năm Minh
Mạng thứ 18 (1837) có sắc chỉ, ban cho ngọn núi phía đông bắc (núi Tam Thai) là
Thủy Sơn. Ba ngọn núi phía tây nam là núi Mộc Sơn, núi Dương Hỏa, núi Âm
Hỏa. Hai ngọn phía tây là Thổ Sơn, Kim Sơn, (cho) khắc tên núi lên đá".

6


Ngũ Hành Sơn
Ngoài ra, Ngũ Hành Sơn còn có các tên khác như: Ngũ Uẩn Sơn, Ngũ Chỉ Sơn.


Về văn hóa

Tại danh thắng Non Nước Ngũ Hành Sơn có nhiều hoạt động văn hóa như lễ hội
Quán Thế Âm vào tháng 2 âm lịch, nghề chạm khắc đá mỹ nghệ v.v… nhưng điểm
cần nhấn mạnh là danh xưng Ngũ Hành Sơn, điều trước nay ít được đề cập đầy đủ.
Danh xưng các ngọn núi ở nước ta thường dựa theo hình dáng, số lượng, truyền
thuyết, nhân vật, v.v… như Tam Đảo, Thất Sơn, Thiên Ấn, Thiên Bút, đồi Trạng
Nguyên, núi Thần Đồng, vv…
Chắc chắn không có ngọn núi nào lại mang danh xưng của học thuyết triết học duy

vật phương Đông “Âm Dương Ngũ Hành” với đầy đủ các yếu tố: Thủy, Thổ, Kim,
Mộc, Hỏa (có cả Âm và Dương), như ở Ngũ Hành Sơn.
Tất nhiên, việc đặt tên là do con người thực hiện nhưng cũng phải căn cứ trên sự
tương đồng tương đối giữa thế đất thế núi với những yếu tố cơ bản của tên đặt.
Ở Ngũ Hành Sơn có một sự tương đồng ngẫu nhiên rất cao giữa thế đất thế núi với
các điểm cơ bản về bản chất và cấu trúc không gian của học thuyết triết học Âm
Dương Ngũ Hành.
Thứ nhất, về hình dáng, núi ở đây không phải là những “dãy” hoặc
những “ngọn” mà là những “hòn”đá vôi đứng kề nhau nhưng độc lập với nhau, không
dính liền nhau, với độ cao vừa phải, trên một diện tích không quá rộng, giống như
những quả trứng khổng lồ nổi lên giữa đất liền nên có thể xem như các “hành”trong
triết học Âm Dương Ngũ Hành.

7


Thứ hai, về số lượng, Ngũ Hành Sơn không chỉ có 3 ngọn như Tam Đảo ở phía
Bắc hoặc 7 ngọn như Thất Sơn ở phía Nam mà có đúng 5 hòn, trùng hợp với con số 5,
con số sinh thành và vận động trong vũ trụ của học thuyết. Trên thực địa có 6 hòn
nhưng hai hòn phía nam được nối liền với nhau nên được xem là hòn kép có cả âm và
dương (Âm Hỏa Sơn và Dương Hỏa Sơn).
Thứ ba, về bố cục, 5 hòn núi đó được sắp xếp thành 2 hàng theo cấu trúc 2+3 (cả
dọc và ngang), trùng hợp với cấu trúc “tham thiên lưỡng địa” (2+3=5) về sự chuyển
động không ngừng của vạn vật của học thuyết.
Thứ tư, do sự tương đồng về vị trí của các hòn núi với phương vị hướng và số của
Hà Đồ nên hòn núi phía bắc có tên Thủy, phía nam là Hỏa, phía tây là Kim, phía đông
là Mộc và ở trung tâm là Thổ.
Như vây, danh xưng Ngũ Hành Sơn không hoàn toàn do con người đặt ra một cách
tùy tiện mà mang đậm yếu tố văn hóa, khó có nơi nào có thể có được.



Về tâm linh

Ngũ Hành Sơn cũng là một thế giới tâm linh. Chỉ trên bốn hòn Thủy Sơn, Hỏa
Sơn, Kim Sơn, Thổ Sơn đã có 10 ngôi chùa lớn nhỏ hiện đang tồn tại: Tam Thai, Tam
Tôn, Từ Tâm, Linh Ứng (Thủy Sơn); Phổ Đà sơn, Linh Sơn, Ứng Nhiên (Hỏa Sơn);
Quán Thế Âm, Thái Sơn (Kim Sơn); Long Hoa (Thổ Sơn). Đấy là không kể các ngôi
chùa chung quanh chân núi hoặc hiện nay không còn nữa như các chùa Thái Bình,
Vân Long, Bình An, Bửu Quang, Di Lặc.
Một đặc điểm nổi bật ở đây là chùa thường đi với động như hình với bóng. Bên
cạnh chùa Tam Thai là động Huyền Không, bên cạnh chùa Linh Ứng là động Tàng
Chân, bên cạnh chùa Quán Thế Âm là động Quán Thế Âm, vv…
Chùa ở đây được xây dựng từ rất sớm, ngay từ những năm đầu thế kỷ XVII. Dưới
triều Nguyễn chùa Tam Thai đã được xem là Quốc tự và có Quốc sư.
Trong động Quán Thế Âm có thạch nhũ có hình tượng Phật bà Quán Thế Âm.
Trên vách đá hòn Thổ sơn, cạnh chùa Long Hoa, có một vách đá cao hơn 30 mét,
nếu được gia công thì Đà Nẵng sẽ có một bức phù điêu khổng lồ hình tượng Phật Di
Lắc trên vách núi, có một không hai trong cả nước, vv…
Hằng năm tại đây có lễ hội Quán Thế Âm vào đầu năm âm lịch.
Rõ ràng đây là một thế giới chùa chiền hang động, không nên trần tục hóa.


Về lịch sử
8


Non Nước Ngũ Hành Sơn là một thắng cảnh đã được các vương triều trước đây ca
ngợi, viếng thăm. Vua Minh Mạng đã ban hành nhiều chiếu, chỉ dụ tu bổ, tôn tạo.
Thích Đại Sán có thể được xem như vị khách du lịch đã viếng thăm Ngũ Hành Sơn
vào năm 1695 và đã có bài trường ca ca ngợi danh thắng.

Tại Non Nước Ngũ Hành Sơn cũng có nhiều bia đá cổ trên vách núi và điều rất
quý là có những tấm bia còn hoàn toàn nguyên vẹn như bia “Phổ Đà Linh Trung
Phật” trong Hoa Nghiêm, trên hòn Thủy Sơn có dựng từ năm 1640, bia “Ngũ Uẩn
Sơn” trong động Vân Thông được dựng năm 1641. Đây là những tấm bia cổ nhất trên
địa bàn thành phố chứ không phải tấm bia tại chùa Long Thủ (được dựng vào năm
1657), như xưa nay vẫn nói. Nội dung cho thấy rõ tình hình xã hội lúc bấy giờ, ghi rõ
họ tên và số tiền quyên góp để xây dựng chùa trong đó hơn 50% là của thương gia
Nhật Bản ở Hội An và cả ở Nhật.
Các hang động Ngũ Hành Sơn cũng ghi lại dấu tích đấu tranh chống Mỹ kiên
cường và oanh liệt của nhân dân Quảng Nam Đà Nẵng.
Như vậy, Ngũ Hành Sơn không chỉ là một thắng cảnh thiên nhiên mà còn là một
nhân chứng lịch sử của đời sống nhân dân địa phương.

2.3. Núi Sơn Trà – Núi Khỉ:
Cách trung tâm thành phố Ðà Nẵng chừng 10 km về hướng Ðông Bắc, ở độ cao
693 m so với mực nước biển, Sơn Trà vừa là tên gọi của bán đảo, vừa là tên của dãy
núi dài 13,5km, có vị thế vô cùng đắc địa. Từ trên đỉnh Sơn Trà có thể nhìn toàn cảnh
thành phố Đà Nẵng, Ngũ Hành Sơn, Bà Nà - Núi Chúa, Cù Lao Chàm,... Bán đảo Sơn
Trà và dãy Hải Vân hợp thành hình cánh cung tạo nên một vịnh biển mang tên vũng
Sơn Trà, còn được biết đến với nhiều tên khác khá quen thuộc như vũng Tiên Sa,
vũng Thùng, vũng Hàn, vịnh Ðà Nẵng. Vũng Sơn Trà tuy rộng nhưng sâu và kín đáo,
mặt nước phẳng lặng và trong xanh. Sơn Trà không chỉ giúp Đà Nẵng trở thành một
khu an toàn về hàng hải mà còn là đài khí tượng thuỷ văn cho cư dân trong vùng qua
các câu ca dao:“Chiều chiều mây phủ Sơn Trà, Sấm rền Non Nước trời đà chuyển
mưa” hay “Đời ông cho chí đời cha, mây phủ Sơn Trà không gió thì mưa”.

9


Toàn cảnh núi Sơn Trà

Thời xa xưa, ở vị trí mà ngày nay là bán đảo Sơn Trà có ba ngọn núi nhô cao.
Ngọn phía đông nam trông như hình con nghê chồm ra biển, nên gọi là hòn Nghê.
Ngọn phía tây hình dạng như cái mỏ con diều hâu, nên nên gọi là ngọn Mỏ Diều. Và
ngọn phía bắc vươn về phía ngọn Ngự Hải bên kia cửa biển dài như cổ ngựa, nên gọi
là ngọn Cổ Ngựa. Qua thời gian dài, dòng nước biển chảy ven bờ đã tải phù sa đến bồi
đắp dần lên tạo thành doi đất chạy từ đất liền ra đảo, nước triều đều đặn lên xuống
hàng triệu năm bào mòn và lau sạch bóng những tảng đá chồng chất ven bờ hình
thành nên bán đảo Sơn Trà ngày nay.
Trong dân gian còn lưu truyền rất nhiều câu chuyện kỳ thú về vùng đất này. Có
truyền thuyết kể rằng ngày xửa, ngày xưa nơi đây là vùng đất có cây cối bốn mùa tươi
tốt, hoa thú chim muông tề tựu quanh năm trong thanh âm trong trẻo của tiếng suối
reo và tiếng sóng biển rì rào. Quang cảnh tuyệt trần đó đã thu hút những nàng tiên trên
trời giáng trần để thưởng ngoạn, vui chơi. Câu chuyện này đã được Lê Quý Đôn nhắc
đến trong tác phẩm Phủ Biên Tạp Lục: “Phía Đông liền biển, có một quả núi tên Sơn
Trà tục gọi là Hòn Nghê, tương truyền trên núi có ngọc, đêm đêm ngọc chiếu sáng
xuống biển. Người dân ở đây kể rằng, tiên thường hay giáng xuống để tắm, chơi đùa
nên cũng gọi là núi Tiên Sa”. Ngoài ra, nơi này còn có giai thoại về ván cờ của Đế
Thích với câu chuyện kể: Có hai vị tiên ông ngồi đánh cờ trên đỉnh núi Sơn Trà nhưng
trong nhiều ngày vẫn bất phân thắng bại. Rồi một hôm, những tiên nữ bay xuống bãi
10


biển để tắm, trong lúc lơ là nhìn tiên nữ vui đùa, một tiên ông đã bị đối thủ đánh bại.
Vì bực mình, tiên ông đá văng bàn cờ xuống biển, rồi bay về trời. Theo truyền thuyết
đó, người dân đã dựng một bức tượng Đế Thích ngồi một mình bên tảng đá có hình
bàn cờ ở nơi được cho là chỗ hai vị tiên ông đã ngồi chơi cờ, ngày nay được biết đến
với tên gọi là Đỉnh Bàn Cờ. Những câu chuyện mang màu sắc thần thoại ly kỳ này đã
điểm tô thêm vẻ đẹp quyến rũ và huyền bí của Sơn Trà. Thế nhưng cái tên Tiên Sa lại
có ý nghĩa khác đó là “bãi cát vàng đẹp đẽ” chứ không hẳn như truyền thuyết đề cập.
Ngoài cái tên Tiên Sa được sử dụng dưới thời Pháp thuộc, Sơn Trà còn được

biết đến với tên gọi “Monkey mountain” (Núi Khỉ) trong giai đoạn người Mỹ đóng
quân ở Đà Nẵng (1965-1975). Tên gọi này khởi nguồn từ sự phong phú về loài và số
lượng linh trưởng sống trên núi này. Theo thống kê chưa đầy đủ, hệ động vật Sơn Trà
có trên 100 loài, trong đó có 8 loài thuộc loại quý hiếm. Sơn Trà là chỗ quần cư của
họ hàng nhà khỉ với khoảng hơn 400 con voọc và nhiều loại khỉ đuôi dài; ngoài ra còn
có chồn, heo rừng, gà rừng, hoẵng... Trong rừng nguyên sinh trên bán đảo còn có hệ
thực vật vô cùng phong phú với 289 loại thực vật bậc cao thuộc 217 chi, 90 họ, trong
đó có 64 loại gỗ lớn, 107 loài cây thuốc, cây cảnh.

Khỉ trên núi Sơn Trà
Mặc dù trải qua thời kỳ chiến tranh khốc liệt, thảm thực vật ở đây bị tàn phá
nặng nề, nhưng rừng nguyên sinh trên bán đảo vẫn còn nguyên vẹn, là một bảo tàng
thiên nhiên đa dạng và phong phú, là nơi giao lưu giữa hai hệ động vật và thực vật
11


tiêu biểu của hai miền Nam - Bắc, được bảo vệ theo chế độ rừng cấm quốc gia. Với
gần 4.000 ha rừng, trong đó một phần là đất đồi đang được phủ thêm loại cây công
nghiệp, rừng Sơn Trà được xếp vào danh sách trong hệ thống rừng đặc dụng quốc gia
với tên gọi Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà (Quyết định số 41TTg ngày 24-1-1977
của Thủ tướng Chính phủ) và đóng vai trò như lá phổi xanh của thành phố Đà Nẵng.
Vì thế, việc giữ gìn và bảo vệ hệ động thực vật của Sơn Trà không chỉ có ý nghĩa về
mặt bảo vệ sự đa dạng sinh học, mà còn trực tiếp góp phần vào việc bảo vệ sinh cảnh
lâu dài của một thành phố cảng đồng thời phục vụ cho nhu cầu tham quan, du lịch,
nghỉ dưỡng và sinh hoạt văn hoá.

Cây đa nghìn năm
2.4. Đèo Hải Vân
Đèo Hải Vân là một trong những cung đường cuốn hút nhất thế giới (Tờ
Guardian). Không chỉ nổi tiếng về sự ngoạn mục và hiểm trở, mà Hải Vân còn vang

danh với vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời.
Đèo Hải Vân còn có tên là đèo Ải Vân (vì trên đỉnh đèo xưa kia có một cửa ải)
hay đèo Mây (vì đỉnh đèo thường có mây che phủ), cao 500 m (so với mực nước
biển), dài 20 km, cắt ngang dãy núi Bạch Mã (là một phần của dãy Trường Sơn chạy
cắt ra sát biển) ở giữa địa giới tỉnh Thừa Thiên-Huế (ở phía Bắc) và thành phố Đà
Nẵng (ở phía Nam), Việt Nam.

12


Đường đèo Hải Vân
Thánh Tôn là vị vua đầu tiên đặt chân đến Hai Vân năm Canh Dần (1741), vị
minh quân này lúc đó đã tiên liệu được tương lai nên xúc cảm phong cho nơi này là
"Thiên hạ đệ nhất hùng quan".
Theo sử liệu, trước năm Bính Ngọ (1306), vùng đất có đèo Hải Vân thuộc về
hai châu Ô, Rí của vương quốc Chămpa (còn gọi là Chiêm Thành). Sau khi được vua
Chămpa là Chế Mân cắt làm sính lễ cầu hôn Công chúa Huyền Trân đời Trần vào
năm vừa kể (1306), thì ngọn đèo chính là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành.
Khoảng một thế kỷ sau, vào năm Nhâm Ngọ (1402), nhà Hồ (dưới triều Hồ
Hán Thương) sai tướng Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành, khiến vua nước
ấy là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman V) phải cắt đất Chiêm Động và Cổ Lũy để cầu
hòa. Kể từ đó, cả vùng đất có đèo Hải Vân mới thuộc hẳn về nước Đại Ngu (tức Việt
Nam ngày nay), và trở thành ranh giới tự nhiên của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam,
như sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn đã chép: "Hải Vân dưới sát bờ biển, trên
chọc từng mây là giới hạn của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam".
Vào thời Nguyễn, đèo Hải Vân vẫn là chỗ giáp giới giữa Thừa Thiên và Quảng
Nam. Phía bắc chân núi giáp vực biển có hang Dơi, tục gọi là bãi Tiêu. Tương truyền
xưa có thần sóng, thuyền đi qua đó thường bị lật chìm, nên ngạn ngữ có câu: "Đường
bộ thì sợ Hải Vân/ Đường thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi".
Ngay trên đỉnh đèo, dấu vết tiền nhân vẫn còn để lại: những cửa đèo và thành

lũy đắp ngang. Cửa trông về phủ Thừa Thiên đề ba chữ: Hải Vân Quan, cửa trông
xuống Quảng Nam đề Thiên hạ đệ nhất hùng quan.

13


Hải Vân Quan
Đèo Hải Vân luôn luôn là một địa danh ấn tượng từ Nam chí Bắc, không có nơi
nào đèo cao chênh vênh, cảnh đẹp lung linh, huyền ảo như ở đèo Hải Vân. Đường đèo
quanh co, khúc khuỷu men theo triền núi, uốn lượn như dải lụa vắt ngang giữa trời
mây. Chỉ căn cứ vào tên gọi, cũng đủ hình dung Hải Vân là thế giới của gió và mây.
Gió như đàn ngựa giong ruổi dặm trường, mây như từ trên trời tuôn xuống. Bước
chân người đến đây như lạc vào cõi nào khác lạ, huyền ảo khói sương.
Vào những ngày đẹp trời, du khách có thể thấy rõ toàn cảnh thành phố Đà
Nẵng, Cảng Tiên Sa – Bán đảo Sơn Trà, Cù Lao Chàm… và những bãi cát vàng chạy
dài ôm lấy mặt nước bao la trong xanh của biển.
Mặc dù hiện tại tuyến đường đi từ Nam ra Bắc qua đèo Hải Vân đã không phải
vất vả như xưa nhờ công trình đường hầm đèo Hải Vân được xây dựng xong và đưa
vào hoạt động năm 2005. Chính vì thế cung đường đèo trở thành đường đi cho những
tuyến muốn tham quan thắng cảnh.
Nhưng nếu đã đến đây rồi mà không tham quan được cảnh đèo Hải Vân là một
điều đáng tiếc. Cái cảm giác lúc xe chạy vòng vèo theo con đường đồi núi của đèo Hải
Vân, cảm giác hồi hộp khi xe đổ dốc xuống đèo, nhất là đi trong điều kiện thời tiết
đang mưa, cảnh vật mờ mờ, ảo ảo phía dưới thung lũng, khung cảnh tuyệt đẹp.
Ngày 5 tháng 6 năm 2005, hầm đường bộ xuyên đèo Hải Vân cũng đã được
đưa ra vào sử dụng, càng tạo thuận lợi cho việc đi lại), nên trở ngại ấy đã không còn
nữa, tuy nhiên, đèo Hải Vân vẫn là một "hàng rào" ngăn cản một phần khí hậu giữa
hai miền.
Đến đèo Hải Vân để khám phá nơi giao thoa giữa hai vùng đất, khám phá nơi
bàn tay thiên nhiên kiến tạo nên ký quan và quan trọng hơn là khám phá những giá trị

lịch sử của bao dấu chân người Việt xưa đi mở cõi, những giá trị nhân văn của một
hồi sử xa xưa.
Ngày nay, trên đỉnh đèo Hải Vân vẫn còn dấu vết của một cửa ải. Cửa ải này
gọi là Hải Vân Quan (海雲關), xây từ đời Trần, và được trùng tu vào thời Nguyễn
(Minh Mạng thứ 7, 1826). Cửa trông về phủ Thừa Thiên đề ba chữ "Hải Vân Quan",
cửa trông xuống Quảng Nam đề "Thiên hạ đệ nhất hùng quan". Lạc khoản một bên
góc bảng còn ghi thêm "Minh Mệnh thất niên cát nhật tạo", tức và làm vào ngày tốt
14


năm Minh Mệnh thứ 7 (1826). Danh hiệu này tương truyền do vua Lê Thánh Tông
phong tặng khi nhà vua dừng quân ở đây vào năm Canh Thìn, 1470.
Sách Đại Nam thực lục chính biên chép rõ:
"Phía trước, phía sau đều đặt một cửa quan (ngạch trước viết ba chữ "Hải Vân
quan" (雲海關), ngạch sau viết 6 chữ "Thiên hạ đệ nhất hùng quan" (天下第一雄
關). Cửa trước cao và dài đều 15 thước (khoảng 6 mét), ngang 17 thước 5 tấc, cửa
sau cao 15 thước, dài 11 thước, ngang 18 thước 1 tấc, cửa tò vò đều cao 10 thước
8 tấc, ngang 8 thước 1 tấc. Phía tả hữu cửa quan, xếp đá làm tường, trước sau
tiếp nhau. Phái biền binh 4 đội Hữu sai và 2 đội Ứng sai chở súng ống đến để đấy
(súng quá sơn bằng đồng 5 cỗ, ống phun lửa 200 ống, pháo thăng thiên 100 cây
và thuốc đạn theo súng). Chuẩn định từ Hải Vân trở ra Bắc thuộc quản hạt Thừa
Thiên, từ ngoài Hải Vân trở vào Nam thuộc quảng hạt Quảng Nam".
Năm 1876 trước khi người Pháp lập nền Bảo hộ thì nhà địa lý học Jules-Léon
Dutreuil de Rhins khi đi đường bộ từ Đà Nẵng ra Huế có ghi nhận rằng cửa ải có 50
lính canh phòng. Năm 1885 sau khi ký Hòa ước Giáp Thân (1884) thì số lính chỉ còn
khoảng 5 người và sang đầu thế kỷ 20 khi Henri Coserat của Hội Đô thành hiếu cổ
(Association des Amis du Vieux Hué) lên đèo quan sát thỉ cửa ải đã bị bỏ ngỏ, không
còn ai canh gác.
Cửa ải Hải Vân còn chứng kiến cuộc ngự du của vua Thành Thái vào mùa hè năm
1896. Xa giá của vua đi đường thủy vào đến Lăng Cô, nghỉ qua đêm rồi hôm sau đăng

sơn. Vua cưỡi ngựa; tháp tùng là giới chức Pháp gồm có Toàn quyền Rousseau và
Khâm sứ Brière lên tận cửa ải để ngắm cảnh quan.
Đáng tiếc là di tích này đang bị xuống cấp trầm trọng. Ngoài ra, nơi đỉnh Hải Vân
hiện vẫn còn một vài lô cốt (tàn tích của Đồn Nhất) do quân đội Pháp xây dựng vào
năm 1826 để bảo vệ ngọn đèo chiến lược này. Sau, đồn bót ấy được chuyển sang tay
quân đội Mỹ. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đèo Hải Vân là
nơi đã liên tiếp diễn ra những trận đánh lớn.
Trên đỉnh đèo Hải Vân cao gần 1.500m so với mực nước biển có một cửa ải xây
bằng gạch với 3 chữ "Hải Vân quan" phía trên cửa tò vò quay về hướng Nam. Đỉnh
núi nằm trong mây, chân ngâm xuống biển nên mới có tên gọi là Hải Vân.
Dọc sườn có 5 cái khe chảy xuống, lúc nào cũng thấy bày ra cảnh tượng hùng vĩ
với hàng ngàn tảng đá hoa cương tròn trịa do bị xâm thực mài mòn từ ngàn năm nay,
Hải Vân được xem là quan ải hùng trắng nhất dưới bầu trời Việt Nam và được khắc
vào đỉnh thờ ở Thái Miếu, mệnh danh "Đệ nhất hùng quan".
Đứng trên đỉnh đèo Hải Vân nhìn ra phía Bắc thấy vùng Lăng Cô, phía Nam thấy
toàn cảnh Đà Nẵng, phía Tây núi rừng trùng điệp, phía Đông biển cả bao la.
Đèo Hải Vân chỉ căn cứ cứ vào tên gọi cũng đủ hình dung Hải Vân là thế giới của
gió và mây. Gió như đàn ngựa rong ruỗi dặm trường, mây như từ trên trời tuôn xuống.
15


Bước chân người đến đây như lạc vào cõi nào khác lạ, huyền ảo khói sương. Cao Bá
Quát, một nhà thơ một đời chỉ biết lạy hoa mai (Nhất sinh đê thủ bái hoa mai) cũng đã
phải sững sờ: Nhất bích ngưng vi giới, Trùng vân nhiễu tác thành ( Biếc một dãi mốc,
Mây muôn trùng dựng thành).
Những gì thiên nhiên ban tặng, qua thời gian và qua bàn tay con người, sẽ trở
thành những giá trị nhân văn. Đến Hái Vân là đến nơi giao thoa giữa hai vùng đất, là
thõa mãn tâm lý chiếm lĩnh đỉnh cao, hòa mình trong âm vọng sử thi của bao dấu chân
người Việt xưa đi mở cõi, bồi hồi thương nhớ quá khứ thẳm sâu của một khúc ruột
miền Trung.


16


C.KẾT LUẬN
Nhìn chung, tên gọi địa danh núi non Việt Nam xuất phát từ nhiều ngôn ngữ
khác nhau. Từ đó làm nên sự đa dạng, phong phú trong hệ thống địa danh Việt Nam
nói chung. Núi ở Đà Nẵng cũng có nhiều nguồn gốc về tên gọi, song song với đó là
các hoạt động văn hóa diễn ra thường lệ phản ánh cuộc sống của cư dân địa phương.
Các núi là nhân chứng trong chiến tranh, là nơi ghi dấu những thắng lợi và cũng là nơi
thể hiện quá trình xây dựng đất nước, phát triển đi lên.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Website Văn học và ngôn ngữ của đại học KHXH – Nhân văn _ Đại học quốc
gia thành phố Hồ Chí Minh : />Tiến sĩ Bùi Trọng Ngoãn, Giáo trình “Địa Danh Học và địa danh Việt Nam”.
Lê Hoàng Vinh, Lê Anh Dũng ( 2000 ), Ngũ Hành Sơn vùng lịch sử - văn hóa
tâm linh, nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
Bài viết Đèo Hải Vân, />PGS.TS Lê Trung Hoa, Thử giải mã một số địa danh Việt Nam.
/>
18



THỰC HIỆN:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.

Đinh Thị Thanh Vy
Mai Thị Phương Mai
Lê Thị Thanh Tâm
Huỳnh Thị Phương Kiều
Nguyễn Thị Ngọc Linh
Lê Thị Trang
Lê Thị Thu Thủy
Nguyễn Hữu Hàng
Nguyễn Tấn Quang Vinh
Đặng Thị Diễn
Nguyễn Thị Thúy Mỹ
Trịnh Thị Kim Dung
Nguyễn Thị Hồng Hạnh


19



×