MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. Thị hiếu
1.2. Thị hiếu điện ảnh
Chương 2: THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT
SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
2.1. Khái quát về đời sống vật chất, đời sống tinh thần của sinh viên một số
trường đại học và cơ sở điện ảnh tại Hà Nội
2.2. Thực trạng thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội
2.3. Nguyên nhân tác động đến thị hiếu điện ảnh của sinh viên
các trường đại học tại Hà Nội
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO THỊ
HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI
HÀ NỘI
3.1. Thị hiếu điện ảnh của sinh viên qua dư luận
3.2. Một số kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao thị hiếu điện ảnh của sinh viên
một số trường đại học tại Hà Nội
KẾT LUẬN
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Điện ảnh là môn nghệ thuật tổng hợp có sức thu hút kì lạ đối với công
chúng. Và lực lượng khán giả đông đảo của điện ảnh là sinh viên. Họ có những
thị hiếu điện ảnh khác nhau, có người thích xem bộ phim này, nhưng có người
lại thích xem bộ phim khác. Thị hiếu điện ảnh của họ góp phần làm phong phú,
đa dạng thêm thị hiếu điện ảnh của công chúng. Bởi vậy, khi nắm bắt được thị
hiếu điện ảnh của sinh viên sẽ giúp cho các nhà điện ảnh hiểu rõ hơn về một bộ
phận đông đảo của khán giả để đáp ứng kịp thời.
Sinh viên là những ngườì đang chuẩn bị kiến thức và kinh nghiệm để
bước vào lao động nghề nghiệp. Họ có mong muốn làm giàu vốn sống, vốn văn
hoá, nghệ thuật và tự hoàn thiện mình. Họ đã tìm ra phương thức hữu hiệu để
thoả mãn là điện ảnh. Môn nghệ thuật thứ bảy này từ lâu đã trở thành món ăn
tinh thần không thể thiếu được của họ. Điện ảnh đem lại cho sinh viên những
giây phút thoải mái, lý thú, thoải mái sau những giờ học căng thẳng. Điện ảnh
còn giúp cho sinh viên nhận biết và hiểu cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Không
những thế, điện ảnh đã khơi dậy những gì tốt đẹp trong tâm hồn họ, hướng tới
chân thiện mỹ, đến một cái đẹp hoàn thiện. Nghiên cứu thị hiếu điện ảnh của
sinh viên nhằm thoả mãn nhu cầu của họ.
Trong thời kì đổi mới, chăm lo đào tạo những trí thức tương lai cho xã hội
đã được Đảng và nhà nước quan tâm vì họ là những chủ nhân tương lai của đất
nước. Trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh vấn đề giáo
dục thẩm mỹ, giáo dục văn hoá, nghệ thuật: “Các ngành văn hoá giáo dục Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các ngành có liên quan cần phối hợp chặt
chẽ đẩy mạnh vấn đề giáo dục thẩm mỹ, giáo dục văn hoá, nghệ thuật trong các
trường học”. Bên cạnh những thị hiếu lành mạnh, trong sinh viên cũng tồn tại
những thị hiếu không lành mạnh. Tìm hiểu thị hiếu điện ảnh của sinh viên giúp
cho các nhà quản lý văn hoá, nhà trường và các ngành liên quan có giải pháp
định hướng giáo dục nhằm nâng cao thị hiếu của họ.
2
Thị hiếu điện ảnh của công chúng nói chung và của sinh viên nói riêng
luôn thay đổi nhất là dưới tác động của hội nhập. Nếu không nhận thức được sự
thay đổi nhanh chóng đó sẽ không đáp ứng được nhu cầu của họ.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Tìm hiểu thị hiếu điện ảnh của sinh
viên một số trường đại học tại Hà Nội” làm khoá luận tốt nghiệp cử nhân
Quản lý văn hoá.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về thị hiếu điện ảnh thì đã có rất nhiều công trình, nhiều bài
báo như: luận án phó TS của Nguyễn Văn Thủ với đề tài “Nhu cầu điện ảnh của
công chúng Việt Nam hiện nay”, “Khán giả điện ảnh Việt Nam, nhu cầu và thị
hiếu” của Phòng nghiên cứu khán giả điện ảnh – Fafilm Việt Nam, “Về nhu cầu
và thị hiếu điện ảnh của công chúng” ở An Giang của Hoàng Trần Doãn, “Nhu
cầu và thị hiếu khán giả điện ảnh” - Đặng Minh Liên… Nhìn chung các công
trình này đều đi vào khảo sát trên diện rộng. Còn nghiên cứu thị hiếu điện ảnh
của sinh viên lại rất ít, chủ yếu chỉ dưới dạng các bài báo.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi vào tìm hiểu, phân tích, đánh giá thị hiếu điện ảnh của sinh viên
một số trường đại học tại Hà Nội để rút ra những biện pháp nhằm nâng cao thị
hiếu cho sinh viên.
Đối tượng nghiên cứu là nghiên cứu về thị hiếu điện ảnh của sinh viên.
Với dự hạn hẹp của thời gian nghiên cứu, người viết chỉ xin nghiên cứu
đề tài ở 4 trường đại học tại Hà Nội (2 trường thuộc khối xã hội và hai trường
thuộc khối tự nhiên) là: Đại học Văn hoá Hà Nội, Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Bách khoa Hà Nội.
4. Nhiệm vụ của khoá luận
- Tìm hiểu thực trạng thị hiếu điện ảnh của sinh viên các trường đại học
tại Hà Nội.
- Nêu nguyên nhân thị hiếu điện ảnh của sinh viên
- Đóng góp một số giải pháp nhằm nâng cao thị hiếu điện ảnh của sinh
viên
3
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu
- Điều tra bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp xử lý số liệu
6. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài mở đầu, kết thúc, khoá luận gồm các chương:
Chương 1: Một số khái niệm cơ bản
Chương 2: Thực trạng thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại
học tại Hà Nội
Chương 3: Một số kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao thị hiếu điện ảnh của
sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội.
4
Chương 1
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. THỊ HIẾU
Theo ngôn ngữ La Tinh ở phương Tây và ngôn ngữ phương Đông thì thị
hiếu chính là Gustus đều chỉ sự ham muốn sự thích thú chung, do giác quan
mang lại chứ không chỉ là sự thích thú riêng do giác quan nào đó của con người.
Người ta thích ăn món ăn Trung Quốc, thích hút thuốc lá mùi vị Thổ Nhĩ Kỳ,
thích ngửi nước hoa Pháp…đều liên quan đến thị hiếu của con người. Do vậy thị
hiếu là một khái niệm chỉ sự thích thú của con người khi tiếp xúc với đối tượng
thông qua các giác quan.
Tuy nhiên chung quanh vấn đề thị hiếu có rất nhiều cách phát biểu khác
nhau. Nhưng nói chung đều xoay quanh hai ý kiến. Một là, trong khái niệm thị
hiếu có chỉ sự thích thú cá nhân hay không hay là sự thích thú của con người nói
chung. Hai là, khái niệm thị hiếu có bao chứa kiểu thích thú, kiểu ưa thích
không.
Tác giả Đỗ Huy cho rằng: “Thị hiếu là khả năng lựa chọn phổ biến của
con người, là sở thích trong mọi lĩnh vực của cá nhân và tập thể” [10, tr. 177].
Theo tác giả, thị hiếu là sự yêu thích của đa số công chúng chứ không phải của
một cá nhân cụ thể.
Còn ý kiến thứ hai, tác giả Trần Độ trong cuốn “Thoả mãn nhu cầu văn
hoá và nâng cao thị hiếu nghệ thuật” lại bày tỏ rằng: “Thị hiếu là kiểu ưa thích
nào đó, kiểu ưa thích này thường bộc lộ ngay lập tức, nó biểu thị toàn bộ khả
năng đánh giá, cảm xúc của chủ thể” [6, tr. 21]. Sở dĩ kiểu ưa thích này bộc lộ
ngay lập tức vì khả năng đánh giá, xúc động của ta bao giờ cũng thể hiện trước
một đối tượng thẩm mỹ và tạo ra một sự ưa thích ngay lập tức theo một kiểu nào
đó. Chẳng hạn như khi đứng trước một bức tượng (đối tượng thẩm mỹ) thị hiếu
(tức là kiểu ưa thích) của ta lập tức sẽ xuất hiện ngay. Ta sẽ thấy ngay một trạng
thái thích thú, khoái cảm hay thờ ơ thậm chí khó chịu…Với định nghĩa này ông
đã phủ nhận thị hiếu cá nhân bởi cách lựa chọn, cách ưa thích của mỗi cá nhân
không thể xác lập thành một kiểu. Kiểu là do nhiều sự vật có thuộc tính giống
5
nhau tạo nên. Do đó nhiều cá nhân cùng thích một tác phẩm nào đó mới có ý
nghĩa kiểu ưa thích. Còn nếu mỗi cá nhân có thị hiếu của riêng mình thì chúng ta
có thể gọi là sở thích cá nhân mà thôi.
Khái niệm thị hiếu trong đời sống cũng như trong khoa học đều bao hàm
sự ưa thích của một cá nhân hay một nhóm cá nhân về một quyển sách hay một
bức tranh nào đó. Thị hiếu tuy gắn với tình cảm cá nhân nhưng biểu thị các kiểu
ưa thích khác nhau. Bởi vậy, người viết xin lấy một khái niệm rất đơn giản
nhưng lại khá bao quát của TS Hoàng Trần Doãn để chúng ta cùng sử dụng
trong cuốn khoá luận này: “Thị hiếu là biểu hiện sự yêu thích của cá nhân và xã
hội trong một khoảng thời gian nào đó đối với vật chất hay tinh thần. Thị hiếu
thay đổi theo sự thay đổi của cá nhân và xã hội trong khoảng thời gian khác
nhau” [5, tr. 26] .
Thị hiếu được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động để thoả
mãn nhu cầu của cá nhân cũng như của xã hội. Trong cuốn “Những vấn đề lý
luận và phương pháp luận tâm lý học”, B.Ph.Lômô đã viết như sau: “Nhưng các
đối tượng của nhiều nhu cầu và phương pháp thoả mãn chúng được xã hội tạo
nên trong lịch sử phát triển của chúng ở mọi người, cá nhân, cộng đồng đã hoàn
thành và phát triển thị hiếu và sở thích nhất định” [14, tr.320]. Như thế thị hiếu
được hình thành trong một thời gian dài, tồn tại như một phẩm chất văn hoá của
chủ thể trong hoạt động thoả mãn nhu cầu. Trong thành phần của thị hiếu có
trình độ văn hoá, trình độ học vấn truyền thống cùng nhiều yếu tố khác. Thị hiếu
trở thành đối tượng nghiên cứu như một khái niệm căn bản gắn liền với sự tiêu
dùng cá nhân, xã hội và làm thoả nhu cầu của chủ thể.
Thị hiếu được hình thành xuất phát từ sở thích. Sở thích là ý thích riêng
của mỗi cá nhân đối với đối tượng nào đó tương đối ổn định và lâu dài. Những
sở thích này cùng với mong muốn thoả mãn nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy
hoạt động thoả mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu được thoả mãn sẽ được củng
cố và phát triển sở thích, tạo ra các sở thích mới ở chủ thể. Lúc này sở thích là
cơ chế để hình thành nhu cầu. Trong bất cứ hoạt động nào của con người hay xã
hội cũng thuộc sự yêu thích khác nhau của cá nhân với đối tượng. Sở thích nào
6
được hình thành và tồn tại trong chủ thể một cách lâu dài, chi phối việc hình
thành hoạt động và thoả mãn nhu cầu thì được gọi là thị hiếu.
Trong thị hiếu cần phân biệt thị hiếu thấp và thị hiếu cao, thị hiếu không
lành mạnh và thị hiếu lành mạnh.
Trước hết cần phân biệt thị hiếu thấp (hay thị hiếu kém phát triển) và thị
hiếu cao (thị hiếu phát triển). Thị hiếu thấp là loại thị hiếu thô kệch, do chưa
được nâng cao trình độ thẩm mỹ, chưa biết phân biệt cái nào là đẹp, cái nào là
không đẹp. Vì thế ở những người mà thị hiếu thấp thường thích những cái không
đẹp vì tưởng rằng nó đẹp. Những cái ấy đối với người có thị hiếu hơn lại thấy nó
lố bịch, cầu kỳ và buồn cười. Thị hiếu thấp là thị hiếu của những người chưa
được tiếp xúc với nhiều cái đẹp thực sự vì thế nó thô sơ, kệch cợm.
Ngược lại thị hiếu cao (hay thị hiếu phát triển) là thị hiếu của những
người có học vấn, có trình độ kiến thức cao, thực sự tiếp xúc nhiều với cái đẹp.
Ở những người này, thị hiếu tinh tế hơn, sâu sắc hơn nhất là ở những người
được giáo dục thẩm mỹ.
Thị hiếu cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ kiến thức, trong đó kiến thức
về ngôn ngữ các loại hình nghệ thuật là yếu tố rất quan trọng. Bởi vì nếu thưỏng
thức nghệ thuật mà không hiểu ngôn ngữ nghệ thuật thì không thể thưởng thức
được.
Khi nói tới thị hiếu lành mạnh và thị hiếu không lành mạnh lại đề cập tới
một vấn đề khác.
Thị hiếu không lành mạnh có hai loại ở mức cao là thị hiếu độc hại, ở
mức thấp là thị hiếu xấu. Sở dĩ có sự phân biệt như vậy vì có tác phẩm xuất phát
từ thị hiếu độc hại, tức là xuất phát từ âm mưu chính trị độc hại, nó có thể mang
sự độc hại đến cho khán giả. Thế nhưng cũng có tác phẩm xuất phát từ thị hiếu
xấu nhưng tác hại của nó khó nhận thấy hơn nó bị chen lẫn với những yếu tố
nghệ thuật thực sự…nó cũng thuộc về loại không lành mạnh. Loại thị hiếu
không lành mạnh (độc hại và xấu) này tác động xấu đến sự phát triển tinh thần
và nhân cách của con ngưòi.
7
Còn thị hiếu lành mạnh là loại thị hiếu tốt không chỉ đảm bảo cho nhân
cách phát triển toàn diện mà con giúp cho chủ thể hưởng thụ, đánh giá đúng đắn,
trọn vẹn các đối tượng thẩm mỹ mà còn tạo ra nhiều giá trị thẩm mỹ cao đẹp.
1.2. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH
1.2.1. Điện ảnh
Theo luật Điện ảnh, năm 2006 quy định: “Điện ảnh là loại hình nghệ thuật
tổng hợp thể hiện bằng hình ảnh động, kết hợp với âm thanh, được ghi trên vật
liệu phim nhựa, băng từ, đĩa từ và các vật liệu ghi hình khác để phổ biến đến
công chúng thông qua các phương tiện kỹ thuật” [15, tr.8].
Điện ảnh ra đời trên cơ sở những phát minh khoa học kỹ thuật và trong
mỗi bước phát triển của nó như đều gắn liền với những tiến bộ, những phương
tiện mới của kỹ thuật hiện đại. Chẳng bao nhiêu lâu sau khi ra đời điện ảnh đã
có một sự vượt thoát kỳ diệu lên trên một kỹ nghệ thông thường, ra khỏi sự ràng
buộc của phương tiện kỹ thuật để tồn tại như một ngành nghệ thuật. Điện ảnh đã
tổng hợp được được tinh tuý của các bộ môn nghệ thuật khác như văn học, sân
khấu, hội hoạ, âm nhạc…đã gắn kết sức mạnh của các loại hình nghệ thuật đó
bằng sức mạnh của các phương tiện. Nhờ đó mà nó có khả năng truyền cảm
mạnh mẽ, cuốn hút sự ưa thích của nhiều người.
Điện ảnh sử dụng ngôn ngữ riêng của mình, đó là ngôn ngữ đặc biệt tổng
hợp được tạo ra bởi hình ảnh, động tác của máy quay, ánh sáng, phục trang và
bối cảnh, âm thanh, dựng phim, thời gian, không gian, lời thoại và những
phương pháp bổ sung dẫn truyện…Tính đặc biệt của nó không chỉ thể hiện ở
việc nó được tạo ra mà còn ở chỗ người ta cảm nhận nó. M.Martin viết về ngôn
ngữ đặc biệt này như sau: “Người ta cảm nhận nó không chỉ bằng tai bằng mắt
mà còn bằng cảm xúc và bằng trái tim” [18, tr.36]. Tính tổng hợp của điện ảnh
còn bao hàm sự tổng hợp những cái hay nhất, cảm xúc tốt nhất của những người
trong nhóm làm phim khi cùng nhau sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật của mình.
Điện ảnh là loại hình nghệ thuật mang tính chân thực cao. Vì sự phong
phú của thể loại có trong điện ảnh như: phim truyện, phim tài liệu, phim hoạt
hình mà tính chân thực của điện ảnh rất cao. Phim tài liệu là thể loại mang tính
8
báo chí và được thể hiện theo nguyên tắc chân thực nghĩa là nó được sáng tác và
biểu hiện trên cơ sở các sự kiện có thực đã và đang xảy ra. Phim truyện lại được
thể hiện và sáng tác theo nguyên tắc khúc triết nghĩa là sự việc đã xảy ra (hoặc
chưa xảy ra) được các tác giả sắp xếp thành chuỗi liên quan qua đó câu chuyện
kể về các số phận của các nhân vật. Và người xem coi những biểu hiện trên
phim là phản ánh đời sống thực, họ tin vào những gì xảy ra trong phim, đôi khi
còn vận dụng nó vào trong đời sống của mình.
Điện ảnh là loại hình có tính hấp dẫn. Điện ảnh cho phép người ta đọc
sách bằng hình ảnh, với sự hỗ trợ của âm thanh cuộc sống (tiếng động, âm nhạc,
ngôn ngữ của con người). Hiệu quả của việc đọc sách này tăng lên nhiều lần vì
những hiện tượng văn học đã trở nên cụ thể trước mắt người xem với sự sống
động, linh hoạt giúp cho họ cảm nhận chúng một cách rõ ràng. Với cách diễn
xuất của diễn viên, cách ghi hình sinh động, linh hoạt và cách hỗ trợ tối đa âm
thanh, ánh sáng mà người nghe có thể cảm nhận được đầy đủ các vấn đề của xã
hội, của con người được đề cập trong tác phẩm. Hơn thế con người có thể tìm
thấy mình, những người thân, những người xung quanh mình trong đó.
Điện ảnh đã được hàng triệu người trên thế giới hào hứng chào đón.
Trong lịch sử phát triển của mình điện ảnh đã chứng tỏ tính ưu việt của một bộ
môn nghệ thuật tổng hợp có tác động mạnh mẽ đến tinh thần của quần chúng
người xem. Chưa có một bộ môn nghệ thuật nào lại có tính phổ cập đến vậy,
đồng thời lại đa năng đến như thế. Nó có khả năng hình thành quan điểm và thị
hiếu của người xem. Trong cuộc sống con người thường xây dựng cho mình
cách ứng xử theo một khuôn mẫu nhất định. Những khuôn mẫu này được tìm
thấy ở hình ảnh cụ thể của người cha, người mẹ, người thầy, người anh hay thần
tượng của mình…Và điện ảnh giới thiệu với họ những khuôn mẫu điển hình như
thể bằng hình tượng nghệ thuật, theo ngôn ngữ của điện ảnh. Điện ảnh đã tác
động đến trí tuệ, tâm hồn, mang đến cho người xem những hiểu biết mới, những
tình cảm mới góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội, hành vi theo lý tưởng của
thời đại. Điện ảnh xây dựng nên hình tượng, hình mẫu mà người xem thường
tìm thấy ở đó thần tượng, mầu người cho mình bắt chước. Điện ảnh mang đến
9
cho con người những khuôn mẫu ứng xử dưới dạng những hình ảnh cụ thể như
cuộc đời với những khả năng nhận thức, phản ánh như thế. Điện ảnh là phương
tiện của trí tuệ, làm giầu sự hiểu biết của con người, một hình thức hoạt động,
nâng cao dân trí, một hình thái đặc thù nhận thức xã hội, không những thế điện
ảnh còn thức tỉnh những nhu cầu tiềm ẩn, sâu xa của con người. Do thế V.I
Lenin đã nói rằng: “…đối với chúng ta trong các loại hình nghệ thuật, điện ảnh
la nghệ thuật quan trọng bậc nhất vì tính rộng rãi của nó…” [11, tr.272].
1.2.2. Thị hiếu điện ảnh
“Thị hiếu điện ảnh là biểu hiện mức độ yêu thích điện ảnh của chủ thể. Nó
còn là khuynh hướng, kết quả lựa chọn nhu cầu điện ảnh và cũng là biểu hiện
năng lực thưởng thức điện ảnh của chủ thể” [5, tr.78].
Thông thường tính hấp dẫn của tác phẩm điện ảnh tỷ lệ thuận với tác động
gây khoái cảm của nó với chủ thể. Có hai mâu thuẫn như sau: thứ nhất là tác
phẩm hay nhưng chủ thể lại không thích, thứ hai là tác phẩm không hay nhưng
chủ thể lại thích. Có thể giải thích sự tồn tại của các trạng thái này bởi sự tham
gia của thị hiếu vào việc thưởng thức các tác phẩm của chủ thể. Thị hiếu góp
phần vào việc định hướng cho hoạt động của chủ thể, tạo cho chủ thể những
trạng thái, tình cảm yêu thích hay ngược lại.
Trong nghệ thuật cũng như trong điện ảnh, thị hiếu hiện diện như một
thành phần không thể thiếu để quyết định xu hướng hoạt động thoả mãn nhu cầu
điện ảnh của người sáng tác cũng như công chúng khán giả. Thị hiếu điện ảnh
đề cập như một thành phần tham gia vào nhu cầu điện ảnh.
Thị hiếu điện ảnh thúc đẩy quá trình tiếp xúc giữa chủ thể thẩm mỹ (công
chúng) và đối tượng thẩm mỹ (tác phẩm điện ảnh). Trong khi thưởng thức, đánh
giá một tác phẩm điện ảnh, khán giả nảy sinh sở thích hay không thích một yếu
tố nào đó trong phim. Và họ có nhu cầu tìm hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm đó hay
tác phẩm khác. Thí dụ như khi xem bộ phim “Cánh đồng hoang” một khán giả
rất ấn tượng cảnh cuối phim khi người vợ trẻ ôm đứa con và bắn rơi máy bay để
trả thù cho chồng. Và vị khán giả đó nảy sinh mong muốn tìm hiểu sâu hơn về
nghệ thuật quay của phim.
10
Ở đây chúng ta cần phân biệt hai khái niệm nhu cầu điện ảnh và thị hiếu
điện ảnh. “Nếu nhu cầu điện ảnh là động cơ thúc đẩy con người hành động để
lĩnh hội, thưởng thức và sáng tạo ra các giá trị điện ảnh thì thị hiếu điện ảnh lại
là khả năng thẩm thấu, đánh giá của con người với các giá trị đó” [5, tr.46]. Nhu
cầu điện ảnh thôi thúc sự tìm kiếm, kích thích tính tích cực của con người vượt
qua trở ngại, khắc phục điều kiện và hoàn cảnh đến với tác phẩm điện ảnh thì thị
hiếu là cánh cửa đón con người vào với thế giới điện ảnh. Nhu cầu điện ảnh là
những thuộc tính tiềm ẩn bên trong vốn có của con người, còn thị hiếu điện ảnh
được dần dần hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn của họ. Tuy có sự
phân biệt nhưng nhu cầu điện ảnh và thị hiếu điện ảnh lại có quan hệ mật thiết
với nhau. Nếu nhu cầu điện ảnh là cơ sở để nảy sinh thị hiếu điện ảnh thì thị
hiếu điện ảnh lại là một dạng động cơ của nhu cầu điện ảnh.
Sở thích cá nhân là biểu hiện cụ thể của thị hiếu điện ảnh. Ở trình độ nào
đó nó đơn thuần là “thích” hay “không thích”. Trong quá trình thực tiễn, thị hiếu
thẩm mỹ nói chung trong đó có thị hiếu điện ảnh dần dần được nâng lên và con
người có những phản ứng nội tâm phong phú, sâu sắc, nhạy bén có khả năng
phát hiện, đánh giá những giá trị sâu lắng, tinh tế của tác phẩm, có khả năng tiếp
thu những cái mới lạ…Lúc này không chỉ còn đơn thuần là thích hay không
thích mà nhờ có thị hiếu chủ thể có thể lý giải rõ ràng “tại sao thích” hay “tại sao
không thích”. Đối với mỗi người thì thói quen thị hiếu được hình thành lâu dài
thể hiện tính cách của cá nhân. Sức mạnh thói quen nhất là thói quen thị hiếu
được củng cố về mặt tình cảm trong tính cách cá nhân là rất lớn.
Sở thích cá nhân nhưng diễn ra liên tục và lâu dài đến một mức độ nhất
định là biểu hiện ổn định của nhu cầu điện ảnh. Sự ưa thích đó là cơ sở cho sự
lựa chọn tích cực hoạt động điện ảnh của công chúng. Thị hiếu điện ảnh là
khuynh hướng và cũng là kết quả lựa chọn nhu cầu điện ảnh, không những thế
nó còn biểu hiện năng lực thưởng thức điện ảnh của cá nhân.
1.3. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN
1.3.1. Sinh viên
11
Trong từ điển Tiếng Việt có nêu: “Sinh viên là những người học ở trường
đại học” [22, tr. 750]. Tức là sinh viên là những người đang học tập và nắm lấy
chuyên môn ở trong các trường học đại học, cao đẳng. Kon I.X đặc biệt nhấn
mạnh: “Sinh viên là nhóm xã hội đặc biệt, nhóm người đang chuẩn bị kiến thức
và kinh nghiệm để bước vào lao động nghề nghiệp trong tương lai” [23, tr.55].
Về phương diện xã hội, sinh viên là những người ngồi ghế nhà trường phổ
thông, có nghĩa là từ 18 đến 25 tuổi . Đây là giai đoạn phát triển ổn định về hệ
xuơng, cơ bắp và mạnh về trí óc, sức sáng tạo tạo ra vể đẹp hoàn mỹ ở người
sinh viên.
Sinh viên là bộ phận dân cư trẻ tuổi được xã hội quan tâm, đào tạo một
các hệ thống cơ bản để trở thành lực lượng lao động và quản lý xã hội tương lai.
Các tổ chức chính trị xã hội, gia đình đều đặt kỳ vọng vào sinh viên, làm nâng
cao vai trò, vị trí của sinh viên trong xã hội.
Đối với sinh viên học tập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, các hoạt động
nhận thức, hoạt động trí tuệ đóng vai trò quan trọng. Sinh viên phải lĩnh hội kiến
thức mang tính chất chuyên ngành, sâu hơn phải thích ứng với những phương
pháp mới, khác hẳn so với các truờng phổ thông. Những kiến thức đó sẽ là cơ sở
cho nghề nghiệp của họ sau này. Ngoài ra sinh viên còn tích cực tham gia các
hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao. Các câu lạc bộ văn thơ, hội
hoạ, khiêu vũ…luôn hấp dẫn lôi cuốn sự tham gia của sinh viên để thoả mãn
nhu cầu giao lưu phong phú và nhu cầu rèn luyện toàn diện của sinh viên. Bởi
vậy, ở sinh viên luôn có sự năng động, sáng tạo, linh hoạt với hoàn cảnh và thích
nghi rất nhanh với cái mới.
Tuổi sinh viên cũng là thời kì phát triển tích cực nhất của hoạt động tình
cảm như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ. Những tình cảm
này biểu hiện rất phong phú trong các hoạt động của sinh viên. Để thoả mãn tình
cảm trí tuệ, sinh viên không chỉ học những gì có sẵn trong chương trình bắt buộc
mà họ còn mở rộng, đào sâu kiến thức của mình bằng nhiều cách với nhiều
nguồn cung cấp kiến thức thông tin như: tìm đọc ở thư viện, học trên các
phương tiện truyền thông, tham gia các hoạt động ngoại khoá, các hoạt động
12
nghiên cứu khoa học hay các hội thảo khoa học…Chính tình cảm trí tuệ đã làm
cho luợng trí thức sinh viên tích luỹ thường lớn.
Sinh còn là người yêu vẻ đẹp thể hiện ở hành vi, đạo đức, vẻ đẹp thẩm mỹ
ở các sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc con người tạo ra. Và tình cảm đạo đức,
tình cảm thẩm mỹ thể hiện ở một chiều sâu rõ rệt, yêu thích cái gì họ đều thể
hiện cố gắng lý giải và phân tích một cách có cơ sở. Đặc biệt đời sống tình cảm
của sinh viên khá phong phú bởi những đòi hỏi cấp thiết khi tâm sinh lý của họ
đã phát triển. Cũng chính vì thế mà nhu cầu tinh thần của họ càng lớn. Họ muốn
thưởng thức, đánh giá và tham gia vào các loại hình văn hoá văn hoá nghệ thuật.
Sinh viên chính là nguồn khán giả đông đảo của trong các buổi biểu diễn ca nhạc,
trình diễn thời trang hay những buổỉ chiếu phim. Sự thoả mãn nhu cầu này của
sinh viên góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết của họ về xã hội, những kiến thức
của cuộc sống, những tình cảm mới lạ và đẹp đẽ, những bài học bổ ích, hiểu biết
về nghệ thuật đặc biệt là tình cảm thẩm mỹ.
1.3.2. Thị hiếu điện ảnh của sinh viên
Thị hiếu điện ảnh của sinh viên là những yêu thích, là sự lựa chọn phổ
biến trong lĩnh vực điện ảnh của những người trẻ tuổi đang học tập và nghiên
cứu trong các trường đại học, cao đẳng. Sự yêu thích lựa chọn ấy giúp cho họ
thu thập kiến thức khoa học và những kinh nghiệm chuyên môn giúp cho họ trở
thành những chuyên gia trong tương lai và chuẩn bị bước vào lao động, sản
xuất.
Sinh viên là những người có nhu cầu rất cao về điện ảnh bởi thông qua
các tác phẩm điện ảnh họ tìm thấy trong đó những thông tin về cuộc sống, tình
cảm, về lao động, học tập. Nhu cầu cao thì cũng kèm theo đòi hỏi cao về nội
dung, chất lượng của điện ảnh. Bởi thế đến với điện ảnh họ luôn có niềm đam
mê được thưởng thức, đánh giá và sáng tạo điện ảnh. Trong quá trình ấy, họ
luôn luôn thể hiện quan điểm của mình yêu thích cái này, lựa chọn cái này, bác
bỏ cái khác vì cho là không hay không phù hợp. Họ có những đánh giá khác
quan nhiều khi là chủ quan đối với những khía cạnh, những lĩnh vực của điện
13
ảnh. Tuy nhiên khách quan hay chủ quan đều thể hiện thị hiếu điện ảnh của sinh
viên.
Thị hiếu điện ảnh của sinh viên đã thể hiện quan điểm của sinh viên về
cuộc sống, tình bạn, tình yêu hay cao hơn là “cách sống” của họ. Trong bối cảnh
mở cửa hội nhập này, thị hiếu điện ảnh của sinh viên lại càng được thể hiện một
cách phong phú hơn.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG
ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
2.1 KHÁI QUÁT VỀ ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, ĐỜI SỐNG TINH THẦN
CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CƠ SỞ ĐIỆN ẢNH TẠI
HÀ NỘI
2.1.1. Khái quát về đời sống vật chất, đời sống tinh thần của sinh viên các
trường đại học tại Hà Nội
Về đời sống vật chất:
Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2006, trên địa bàn Hà Nội có 35
trường đại học với 1,4 triệu sinh viên (trong đó công lập khoảng 1,2 triệu). Một
bộ phận sinh viên sống ở nội trú, còn hầu hết sinh viên ở ngoại trú.
Đời sống vật chất của ngày càng tăng nên sinh viên bớt đi gánh nặng, có
điều kiện để học tập hơn. Họ có thể tiếp thu kiến thức trên nhiều hình thức,
nhiều phương tiện khác nhau. Sinh viên không còn phải học “chay” như trước
kia, mà họ có sự hỗ trợ của các thiết bị dạy học như slide, máy chiếu, máy
tính… Giờ học thực hành của sinh viên các trường kĩ thuật như đai học Bách
khoa hiệu quả hơn nhờ được trang bị kĩ thuật hiện đại. Sinh viên khối xã hội như
đại học Văn hoá, đại học Khoa học xã hội và nhân văn được đi thực tế nhiều hơn
làm giàu kiến thức chuyên môn của mình. Hình ảnh của những sinh viên bước
lên giảng đường với chiếc laptop không còn là hiếm. Đặc biệt với sự bùng nổ
14
của mạng lưới truyền thông, cùng với sự năng động nhạy bén, sinh viên có thể
dễ dàng tiếp thu các kiến thức ở khắp mọi nơi trên thế giới. Chỉ cần kích chuột
vào một trang web thì cả chân trời tri thức mở ra. Đất nước bước vào hội nhập
đồng nghĩa với việc nhiều cơ hội mở ra cho sinh viên. Sinh viên có thể tìm ra
nhiều công việc phù hợp với mình. Nó không chỉ giúp cho họ có thêm nhiều
kinh nghiệm thực tiễn, trở nên năng động hơn mà còn mang lại một khoản thu
nhập.
Tuy nhiên với những nhu cầu vật chất ngày càng cao, gia đình lại không
có khả năng đáp ứng nên nhiều sinh viên vì mải đi kiếm đã bỏ bê học hành.
Về đời sống tinh thần
So với thời trước thì đời sống tinh thần sinh viên hiện nay được cải thiện
hơn nhiều. Các trường đại học tổ chức nhiều hơn các buổi diễn ca nhạc, các buổi
nói chuyện chuyên đề về những vấn đề mà sinh viên quan tâm…Các bạn sinh
viên có thể tham gia vào các hoạt động văn hoá, văn nghệ, làm phong phú thêm
tâm hồn của mình.
Đời sống tinh thần của sinh viên kí túc xá được quan tâm hơn. Các tổ
chức Đoàn và Hội sinh viên hoạt động tích cực hơn, có hiệu quả hơn. Tại kí túc
xá của trường đại học Kinh tế quốc dân đang thực hiện khá tốt mô hình phát
thanh kí túc xá tạo điều kiện cho sinh viên có thể cập nhật những thông tin về
nghệ thuật nói chung và điện ảnh nói riêng, được thưởng thức những bài hát
hay, những áng văn đẹp. Trường đại học Văn hoá Hà Nội với chuyên ngành
nghệ thuật thường xuyên tổ chức hội thi tiếng hát sinh viên, sinh viên thanh lịch,
các buổi gặp gỡ các nhà thơ, nhà văn. Phong trào văn hoá văn nghệ của trường
đại học Bách khoa Hà Nội, trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn cũng
khá sôi nổi, lôi cuốn được nhiều sinh viên tham gia.
Đời sống tinh thần của sinh viên được nhà trường quan tâm hơn nhiều
nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của sinh viên. Bản thân
sinh viên tự tìm các hoạt động giải trí cho mình. Họ đến nhiều hơn với các buổi
diễn ca nhạc của các “sao”, các quán âm nhạc, sàn nhảy...Bên cạnh những sở
thích tốt đẹp, cũng nảy sinh những thị hiếu không lành mạnh.
15
2.1.2. Khái quát về các cơ sở điện ảnh trên địa bàn Hà Nội
Hà Nội là thủ đô, nằm ở vị trí trung tâm của cả nước nên tập trung các cơ
sở điện ảnh phục vụ cho công chúng. Luật Điện ảnh năm 2006 quy định: “Cơ sở
điện ảnh là cơ sở do tổ chức, cá nhân thành lập, hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim theo quy định của luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan.” [15, tr.9]
Trên địa bàn Hà Nội có các hãng phim của nhà nước như: hãng phim
truyện Việt Nam, hãng phim truyện I. Các tổ chức, đoàn thể đã thành lập các
hãng phim của họ như: Hôđa phim (Hội điện ảnh Việt Nam), hãng phim Ngọc
Khánh (Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh), hãng phim Công an nhân dân (Bộ
công an)…Các hãng phim này được thành lập với chủ chương xã hội hoá điện
ảnh. Khác với các hãng phim nhà nước, các hãng phim này phải tự huy động
vốn và tự marketing để cho ra những sản phẩm đa dạng như phim tài liệu, phim
truyện, phim ca nhạc…
Trên địa bàn thành phố Hà Nội, có khá nhiều rạp chiếu phim, trong đó có
thể chia ra thành bốn loại. Loại thứ nhất do Bộ Văn hoá thông tin quản lý, hình
thức hoạt động là doanh nghiệp công ích hoặc sự nghiệp có thu như Trung tâm
chiếu bóng quốc gia, Cinema Ngọc Khánh…Loại thứ hai thuộc sở hữu của các
đơn vị chức năng xuất nhập khẩu và phát hành phim như: Fafilm Cinema (thuộc
fafilm Việt Nam), mạng lưới của các công ty điện ảnh băng hình thuộc thành
phố (rạp tháng Tám, Công ty Điện ảnh băng hình Hà Nội). Loại thứ ba chọn mô
hình liên doanh liên kết như Đăng Dung là địa chỉ liên doanh giữa Cine Net và
công ty điện ảnh và băng hình nhà nước, Dân chủ là liên doanh giữa Fafilm Việt
Nam và công ty Mỹ Visonet. Trong những năm vừa qua, các rạp đều đầu tư tu
sửa hoặc xây dựng lại, đổi mới trang thiết bị để thu hút khán giả đến với rạp. Thí
dụ như rạp Dân chủ có 328 chỗ ngồi, hệ thống đèn và âm thanh được thiết kế
qua máy tính tạo nên độ tin cậy về chất lượng; rạp Đăng Dung đã có tới 140 chỗ
ngồi, 4 buổi chiếu/ngày, trung bình 4000 lượt người xem/tháng; rạp Bạch Mai
có 300 chỗ ngồi…
16
2.2. THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
2.2.1. Thị hiếu của sinh viên trong lĩnh vực thưởng thức điện ảnh
2.2.1.1. Sinh viên yêu thích thưởng thức điện ảnh
Khi được hỏi thì 98% sinh viên đều trả lời rằng họ rất yêu thích điện ảnh.
Và nếu được lựa chọn một môn nghệ thuật để thưởng thức sinh viên sẽ chọn
điện ảnh. Theo một cuộc điều tra nhỏ của Tiến sĩ Hoàng Trần Doãn thì ông thấy
rằng trong các loại hình văn hoá nghệ thuật thì sinh viên yêu thích nhất điện ảnh.
Số sinh viên lựa chọn điện ảnh chiếm 51,2%, chiếm tỷ lệ cao nhất. Còn các loại
hình khác thì thấp hơn, chẳng hạn như: hội hoạ chiếm 23,6%, nhiếp ảnh chiếm
26,7%...Ngay cả ca múa nhạc, một loại hình rất gần gũi với công chúng đặc biệt
phù hợp với sinh viên cũng chỉ chiếm 46,1%. Những con số trên chứng tỏ sức
hấp dẫn của điện ảnh đối với sinh viên.
Người viết đã làm một cuộc phỏng vấn đối với một số sinh viên để thêm
phần khẳng định mức độ yêu thích điện ảnh của họ. Bạn Vũ Thị Thu, sinh viên
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã nói rằng: “Mình rất thích điện
ảnh vì mình có thể vừa giải trí vừa có thể hiểu biết về thế giới xung quanh”.
Là sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân, luôn phải tính toán với các
con số nhưng bạn Vũ Kim Dung lại rất yêu thích văn hoá nghệ thuật đặc biệt là
điện ảnh. Bạn đã nói rằng: “Tôi thích xem phim vì mỗi khi xem phim tôi được
sống trong tưởng tượng, được trải nghiệm nhiều điều lý thú kể cả những cái mà
ngoài đời không có”.
Bạn Nguyễn Thị Liên, sinh viên trường đại học Văn hoá Hà Nội cho biết:
“Tớ rất thích xem phim đặc biệt là những bộ phim chuyển thể kịch bản văn học
vì nó giúp tớ hình dung những nhân vật trong các phẩm văn học một cách cụ thể
và sinh động hơn. Nhiều cuốn tiểu thuyết bọn tớ chưa có thời gian đọc nhưng
nhờ xem các bộ phim chuyển thể này chúng tớ yêu thích đọc những tác phẩm đó
hơn”.
17
Sở dĩ sinh viên yêu thích điện ảnh bởi những lợi ích mà điện ảnh đem tới
cho họ là rất lớn. Là nghệ thuật tổng hợp, mỗi tác phẩm điện ảnh chứa nhiều nội
dung và cùng một lúc có khả năng thoả mãn nhiều nhu cầu khác nhau của sinh
viên. Sinh viên đến với điện ảnh từ rất nhiều lý do khác nhau. Người viết đã làm
một cuộc trắc nghiệm về mục đích đến với điện ảnh của sinh viên với 1000
phiếu phát ra và đã thu được kết quả như sau:
Bảng điều tra mục đích đến với điện ảnh của sinh viên (đơn vị:%)
Mức độ quan trọng
TT Mục đích đến với điện ảnh
Rất quan
Quan
trọng
trọng
Ko
quan
1
2
Giải trí
Nắm bắt những thông tin có ích cho
60,5
23,5
32,3
54,0
trọng
7,2
22,5
3
học tập
Làm giàu kiến thức và kinh nghiệm
27,4
67,9
4,7
4
sống
Trải nghiệm những tình huống mà
13,4
59,0
27,6
5
6
thực tế chưa trải qua
Làm tăng hiểu biết về nghệ thuật
Tìm thấy ý nghĩa tốt đẹp của cuộc
5,1
31,7
65,6
41,3
29,3
27,0
7
sống
Tìm cho mình thần tượng để mình
4,6
25,9
69,5
noi theo
8
Tìm những rung động nghệ thuật
2,8
34,0
63,2
9
Tái tạo nghệ thuật
5,0
21,0
74,0
Sinh viên đến với điện ảnh với mục đích giải trí là chính. Con số 59,5%
với mức độ quan trọng đã nói lên điều đó. Các sinh viên mà người viết phỏng
vấn đều để cập đến tính giải trí mà điện ảnh mang lại. Có sinh viên đã nói rằng:
“Tôi thích xem phim vì nó giúp tôi thoải mái đầu óc sau những giờ học căng
thẳng”. Tuổi sinh viên đang ở giai đoạn họ phải tiếp thu một khối lượng kiến
thức khoa học khá lớn để phục vụ cho nghề nghiệp sau này. Vì thế họ phải trải
qua những giờ học vất vả. Sinh viên tìm đến điện ảnh như là tìm những giây
phút thư giãn. Giải trí đối với con người nói chung và sinh viên trong xã hội
18
hiện đại như ngày nay là rất cần thiết và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong
cuộc sống. Họ đến với điện ảnh một cách tự nhiên thoải mái để rồi sau đó thu
được cái gì đó cho mình từ mỗi tác phẩm điện ảnh.
Làm giàu kiến thức và kinh nghiệm sống chiếm vị trí thứ hai trong mục
đích đến với điện ảnh của sinh viên. Ngoài giải trí ra, điện ảnh còn cung cấp cho
họ rất nhiều thông tin giúp họ tăng thêm lượng kiến thức trong cuộc sống. Sinh
viên là những người ham hiểu biết. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, họ hầu
như chỉ tiếp xúc với những kiến thức khoa học nên những kiến thức về cuộc
sống của họ vẫn chưa nhiều. Điện ảnh đã làm rất tốt điều này.
Không chỉ làm giàu kiến thức, điện ảnh còn cho sinh viên thấy ý nghĩa tốt
đẹp của cuộc sống. Sinh viên là lứa tuổi phát triển về đời sống tình cảm, họ là
những người gọi là “mới lớn”, là những người lãng mạn. Chính vì thế họ tìm
đến với điện ảnh như đến mục đích sống cao đẹp để từ đó họ có thể sống tốt đẹp
hơn.
Trong tác phẩm điện ảnh, những tình huống thực của cuộc sống được
nghệ thuật hoá, những chi tiết nghệ thuật lại được hiện thực hoá. Nhờ đó việc
tiếp xúc của người xem với các tác phẩm nghệ thuật giúp họ có thể trải nghiệm
được những tình huống thực trong cuộc đời mà nhiều khi họ chưa gặp hay chưa
trải qua. Ví dụ như xem bộ phim “Titanic” của điện ảnh Mỹ, người xem có thể
cảm nhận, trải nghiệm sự hoảng loạn của hành khách khi con tàu gặp tai nạn
trên biển thông qua diễn xuất của diễn viên mà không cần phải chứng kiến hay
trải qua tai nạn như vậy. Sự trải nghiệm này làm cho người ta thêm kinh nghiêm
sống, giúp họ có thể hình dung được sự việc xảy ra và có thể chủ động giải
quyết. Đây cũng là mục đích mà sinh viên muốn đạt được khi tiếp xúc với điện
ảnh và cũng chứng tỏ hiệu quả điện ảnh đem đến với họ.
Mục đích đến với điện ảnh của sinh viên hai khối tự nhiên và khoa học xã
hội khác nhau. Sinh viên khối xã hội đến với điện ảnh nhiều hơn với mục đích
tăng thêm hiểu biết về nghệ thuật, tìm những rung động nghệ thuật hay tái tạo
nghệ thật. Phải chăng là do ngành khoa học xã hội là ngành nghiên cứu các vấn
đề của con người, các quan hệ gắn với tâm tư, tình cảm của con người. Nhưng
19
nói tóm lại, dù là sinh viên khối nào thì họ cũng là những người yêu thích
thưởng thức điện ảnh và có niềm đam mê với môn nghệ thuật thứ bảy này.
2.2.1.2. Phương thức thưởng thức điện ảnh của sinh viên
Người viết đã lựa chọn một vài phương thức xem phim chủ yếu của sinh
viên để làm một cuộc điều tra
Bảng điều tra số lần xem phim 1 tuần
Số lần/tuần
Xem trên TV
Xem bằng đĩa Xem trên Internet
0 lần
0
0
0
1 lần
0
0
0
2 lần
12,8
10,7
9,2
3 lần
36,8
23,6
15,4
Hơn 3 lần
58,2
24,3
16,7
Sau các giờ học căng thẳng, sinh viên có nhiều cách giải trí khác nhau
như đọc sách báo, đọc truyện, chơi thể thao, chat, đi chơi với bạn bè…Nhưng họ
vẫn dành một khoảng thời gian thư giãn của mình cho điện ảnh. Hình thức xem
phim của học chủ yếu là xem trên ti vi. Đến với những khu trọ sinh viên, người
viết thấy rất rõ điều này. Các khu nhà trọ thường chỉ có vài cái ti vi, và mỗi tối
sinh viên tập trung rất đông ở một phòng để cùng xem một bộ phim yêu thích.
Đây là một trong những minh chứng thể hiện sự yêu thích điện ảnh của họ.
Sinh viên thích xem phim, họ đã tìm đến với điện ảnh bằng nhiều hình
thức khác nhau như xem đĩa hoặc xem trên Internet. Những bộ phim nổi tiếng
của điện ảnh Việt Nam và thế giới sinh được họ thuê đĩa về xem. Và một cách
đơn giản để sinh viên xem phim hiệu quả và phổ biến nhất là “lướt web”. Họ có
thể lựa chọn vô vàn trang để xem khi vào các trang web như www.phim24g.net,
www.ephim.com, www.loadphim.com. Cả thế giới phim online mở ra cho sinh
viên thưởng thức phim cũ, phim mới kể cả những phim rạp chưa chiếu, truyền
hình chưa phát.
Những sinh viên có điều kiện thì đến các rạp để xem phim. Họ yêu thích
đến rạp bởi vì rạp là nơi thưởng thức tốt nhất các tác phẩm điện ảnh. Rạp có
phục vụ tốt, phương tiện máy móc hiện đại. Hơn nữa đi xem rạp mỗi người đều
cảm nhận được không khí thưởng thức nghệ thuật và được giao lưu cảm xúc
nghệ thuật. Nhưng không phải sinh viên nào cũng có điều kiện đến rạp. Chỉ có
20
18,4 % bạn lựa chọn đến xem phim 1 lần/tháng, 7% là 2 lần/ tháng, còn lại đều
không lần nào.
Bảng điều tra số lần đến xem phim ở rạp 1 tháng (đơn vị %)
Số lần đến xem phim ở rạp 1 tháng
0 lần
1 lần
2 lần
3 lần
Hơn 3 lần
74,6
18,4
7,0
0
0
2.2.1.3. Những yêu thích của sinh viên trong thưởng thức điện ảnh
Sự lựa chọn thể loại điện ảnh của sinh viên
Trong điện ảnh có rất nhiều thể loại phim như phim tài liệu, thời sự, phổ
biến khoa học, phim truyện, phim hoạt hình. Những lựa chọn của sinh viên đối
với các thể loại này thể hiện sự yêu thích hay không yêu thích của họ, người ta
gọi là thị hiếu. Thái độ mong muốn lựa chọn thể loại điện ảnh của sinh viên
được thể hiện như sau:
Bảng điều tra các thể loại điện ảnh sinh viên yêu thích (đơn vị: %)
Mức độ yêu thích
TT
Rất
Thể loại điện ảnh
thích
1
2
3
Thích
Bình
Ko
thường
thích
Tài liệu, phóng sự, khoa học
7,3
14,7
36,6
41,4
Phim truyện
43,7
36,1
15,4
4,8
Phim hoạt hình
10,4
13,1
42,2
34,3
Qua bảng số liệu thấy rằng sinh viên thích xem phim truyện nhất, tiếp đến
là phim hoạt hình, cuối cùng là phim tài liệu, phóng sự khoa học.
Câu hỏi đặt ra ở đây là sinh viên chỉ thích xem phim truyện mà không
thích xem các thể loại khác nhất là phim phóng sự, tài liệu, khoa học.
Mỗi thể loại phim khác nhau có đặc điểm, chức năng khác nhau và các tác
giả sử dụng thể loại này vào mục đích khác nhau khi muốn chuyển tải những
21
vấn đề của xã hội, con người đến người xem. Các thể hiện của phim truyện phù
hợp với sinh viên hơn các thể loại khác.
Mang tính chính luận, ít tính giải trí, phim tài liệu, phóng sự khoa học là
thể loại báo chí mang nhiều thông tin và tính chân thật. Chức năng chủ yếu của
thể loại này là phổ biến kiến thức người xem nên không có kịch tính, lời nói chủ
yếu của người thuyết minh chứ không phải của diễn viên. Do vậy thể loại này
kém hấp dẫn, ít thu hút với người xem. Như đã nói ở trên sinh viên đến với điện
ảnh với mục đích giải trí là chính nên ít bạn chọn thể loại này (chỉ có 7,3%).
Phim truyện là loại phim do diễn viên đóng, có hư cấu với chủ định của
tác giả được gọi là phim nghệ thuật. Với tính nghệ thuật cao ở nội dung và cách
thức thể hiện bằng ngôn ngữ điện ảnh mà mặc nhiên người ta coi phim truyện là
tiêu biểu cho nền điện ảnh quốc gia. Qua các tác phẩm phim truyện, người xem
thấy được các vấn đề của xã hội, con người. Phim truyện phản ánh toàn vẹn và
sinh động hiện thực cuộc sống theo hướng tiếp xúc gần gũi nhất. Người xem có
thể tìm thấy hình ảnh của mình, của người thân, bạn bè trong phim. Mặt khác
với độ dài thích hợp, khả năng mô tả, mổ xẻ những vấn đề thực tiễn được thể
hiện khúc triết hơn, đầy đủ hơn giúp cho người xem dễ theo dõi, dễ đồng cảm
hơn đối với nhân vật. Bên cạnh đó, cùng với sự phối hợp một cách nhuần
nhuyễn của các bộ môn nghệ thuật khác nhau như nghệ thuật biểu diễn, âm
nhạc, hội hoạ đem lại hiệu quả cảm xúc cho người xem. Phim truyện với những
lợi thế đó đã tác động mạnh mẽ vào tình cảm của nhận thức của công chúng điện
ảnh đặc biệt là sinh viên - những trí thức có nhiều hoài bão, mong muốn hoàn
thiện mình. Phim truyện mang lại cho sinh viên những giá trị tinh thần, giúp cho
tầm mắt họ được mở rộng hơn về nhiều lĩnh vực, hướng dẫn họ cách sống, các
làm việc. Cách thể hiện sinh động của phim truyện tất yếu sẽ thu hút những
người đề cao tính giải trí như sinh viên (có 43,7% lựa chọn với mức độ rất thích)
Phim hoạt hình cũng là một thể loại phim truyện, với nhiều yếu tố nghệ
thuật và giải trí, nhưng bối cảnh, nhân vật được thể hiện bằng nhiều chất liệu
mang tính hội hoạ (búp bê, cắt giấy…) và gần đây là hoạt hình 3D (three
dimensions animal). Xuất phát từ sự ngộ nghĩnh dễ thương của các nhân vật
22
cũng như bối cảnh của phim, thể loại này thường dành cho trẻ em. Sinh viên là
những người từ 18 tuổi trở lên, có thể gọi là người lớn tuy nhiên tính trẻ con
nhiều khi vẫn còn trong họ. Do vậy không phải bàn tại sao sinh viên lại yêu
thích xem phim hoạt hình. Hơn nữa sinh viên còn yêu thích những cái mới lạ,
đầy hấp dẫn do kĩ xảo của hoạt hình mang lại. Các bộ phim như Fantaxi,
Shrek…với hình ảnh đẹp mắt, kĩ sảo tuyệt vời đã được nhiều bạn yêu thích.
Người viết đã làm một cuộc điều tra về những thể loại phim truyện được
sinh viên hay xem và thu được kết quả như sau:
Bảng điều tra về những thể loại phim yêu thích của sinh viên (đơn vị:%)
Mức độ yêu thích
Bình
Ko
Rất thích
Thích
thường
thích
1
Phim tâm lý xã hội
46,5
21,6
15,6
16,3
2
Chuyển thể văn học
30,5
22,6
12,7
34,2
3
Phim hành động
32,9
23,7
13,8
29,6
4
Phim viễn tưởng
28,6
24,3
19,4
27,7
5
Phim thần thoại
19,8
15,9
21,5
42,8
6
Phim lịch sử
15,6
14,3
23,8
46,3
7
Phim chưởng
13,6
18,8
23,2
44,4
Trên đây người viết xin đưa ra một số thể loại phim tiêu biểu. Việc gọi tên
TT
Thể loại phim truyện
phim chỉ là một cách tương đối. Tác phẩm điện ảnh đặt ra ở lĩnh vực gì, yêu tố
nào trong nó thì đặt nó vào thể loại đó.Chẳng hạn như tác phẩm đặt vấn đề xã
hội, với nhiều yếu tố tâm lý xã hội thì gọi là phim tâm lý xã hội, yếu tố hành
động đuổi bắt nhiều thì được gọi là phim hành động, phim dựng trên cơ sở kịch
bản chuyển thể từ tác phẩm văn học được gọi là phim chuyển thể, yếu tố lịch sử
nhiều thì được gọi là phim lịch sử…
Sinh viên thích xem nhất thể loại phim tâm lý xã hội (46,5% với mức độ
rất thích) chứng tỏ sinh viên quan tâm nhiều đến diễn biến xã hội và đời sống
tâm lý con người. Trong thể loại này thường có biểu hiện của đời sống lứa đôi,
một loại tình cảm đặc biệt của con người. Loại tình cảm này thường xuất hiện và
23
phát triển mạnh ở lứa tuổi thanh niên, sinh viên. Khi xem thể loại phim này con
người thường cảm nhận và thường liên hệ tới bản thân mình. Phim tâm lý xã hội
thường khai thác những mâu thuẫn nội tâm, những dằn vặt toan tính, những xúc
cảm từ sâu thẳm con người. Do vậy người xem như được trải nghiệm những
rung động của mình từ đó nhận thức rõ hơn và xuất hiện nhiều cảm xúc hơn. Và
như thế những khúc mắc trong cuộc sống, trong tình cảm đã được lý giải. Thời
kỳ sinh viên là thời kỳ con người ta vừa thực tế vừa dễ rung động, lãng mạn. Họ
luôn có nhu cầu lý giải một cách chính xác những vấn đề xác thực của đời sống
vì họ nhìn cuộc sống rất thực tế. Nhưng nhiều khi sinh viên lại cần những cái
lãng mạn trong cuộc sống để thấy lạc quan, yêu đời hơn. Tính thực tế và cả tính
lãng mạn luôn tồn tại trong họ và là nguyên nhân khiến họ yêu thích thể loại
phim này.
Tính ly kỳ mạnh mẽ làm cho sinh viên thích xem phim hành động. Phim
hành động đứng vị trí thứ hai trong lựa chọn thể loại phim yêu thích của sinh
viên. Những pha rượt đuổi gay cấn, những cú lia súng điêu luyện luôn làm cho
các bạn sinh viên thán phục khi xem thể loại phim này (32,9% với mức độ rất
thích).
Những sinh viên thích phiêu lưu mạo hiểm lại thích xem phim khoa học
viễn tưởng. Bạn Vũ Kim Dung, Đại học Kinh tế quốc dân đã nói rằng: “Phim
viễn tưởng đã cho tôi những thứ mà ngoài đời thực không có”. Những bộ phim
như thế này làm giàu thêm trí tưởng tượng của sinh viên và chắp thêm đôi cánh
cho những ý tưởng sáng tạo của họ. Nhiều khi những sáng kiến của sinh viên lại
xuất phát từ ý tưởng của một bộ phim viễn tưởng nào đó.
Sinh viên đa phần không thích xem phim lịch sử (46,3 % với mức độ
không thích) vì họ cho rằng nó quá khô khan, không có tính thời sự chỉ phản ánh
những cái đã qua, mang tính khô cứng, ít có tình tiết tình cảm riêng tư, và do đó
ít phù hợp với sinh viên. Còn phim chưởng một thời cũng làm say mê giới trẻ
hay tò mò thích xem những cảnh đánh nhau. Nhưng sinh viên bây giờ thì không
thích nữa (44,4% với mức độ không thích) vì phim chưởng hay có những tình
tiết giống nhau, đánh nhau nhiều quá mà không đi vào thực tiễn con người.
24
Người viết có làm một cuộc phỏng vấn nhỏ đối với các bạn sinh viên
thuộc hai khối khoa học xã hội và khoa học tự nhiên về thị hiếu xem phim
chưởng và phim lịch sử. Kết quả thấy rằng có lẽ là do tính chất khối học nên các
bạn khoa học xã hội thường yêu thích xem phim lịch sử hơn và phim chưởng lại
là sự lựa chọn của các bạn khối tự nhiên.
Sự lựa chọn đề tài phim truyện của sinh viên
Phim truyện được chia thành các thể loại, mỗi thể loại có những nội dung
khác nhau phản ánh các mặt hoạt động của xã hội, của con người. Người ta gọi
đó là đề tài. Đề tài nào phản ánh được những vấn đề mà khán giả quan tâm thì
chiếm được sự yêu thích và mong muốn được xem của khán giả. Người xem
thường quan tâm đến những đề tài gắn liền với cuộc sống, nghề nghiệp và tính
chất hoạt động của họ. Tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất của
những tính cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ. Những tình cảm
này biểu hiện rất phong phú trong hoạt động và đời sống của sinh viên. Vì thế
người viết đã chọn một số đề tài tiêu biểu phù hợp với họ sinh viên để làm cuộc
trắc nghiệm và thu đuợc kết quả như sau:
Bảng điều tra về đề tài phim truyện yêu thích của sinh viên (đơn vị: %)
Mức độ yêu thích
Rất
Bình
Ko
Thích
thích
thường thích
1 Chiến tranh
11,0
15,2
27,4
46,4
2 Sản xuất, kinh doanh, học tập
27,4
32,4
14,6
25,6
3 Các vấn đề gia đình
25,4
28,3
16,3
30,0
4 Các vấn đề xã hội
29,0
27,9
13,2
29,9
5 Tình bạn, tình yêu
43,3
29,4
10,7
16,6
6 Lịch sử
16,6
16,3
21,3
45,8
Nhìn vào bảng trên thì chúng ta đều thấy rằng sinh viên yêu thích nhất đề
TT
Đề tài phim truyện
tài tình bạn, tình yêu trong thể loại phim truyện (43,3 % với mức độ rất thích).
Tình bạn đã làm phong phú thêm tâm hồn nhân cách của họ. Bên cạnh tình bạn,
tình yêu là một loại tình cảm đặc trưng mà họ đặc biệt quan tâm vì thế có thể dễ
hiểu vì sao sinh viên lại yêu thích những thể loại về tình bạn, tình yêu. Nó như
một món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với sinh viên. Bởi nhiều khi họ
25