Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đề tài thực trạng xuất khẩu nông sản ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.45 KB, 26 trang )

Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở
Vỉẽt Nam
PHẦN I: MỞ ĐẦU

Iệ Tính Cấp thiếtễ

Nông sản là một mặt hàng thiết yếu phục vụ cho nhu cầu của con người. Cùng với sự tăng
trưởng mạnh mẽ của kinh tế, đời sống người dân ngày càng được cải thiện, nhu cầu của con người
cũng theo đó mà ngày càng tăng. Xuất phát từ đó mà đòi hỏi đổi với các mặt hàng nông sản không
chỉ tăng về số lượng mà còn tăng cả về chất lượng. Tuy nhiên, quá trình sản xuất, thu hoạch và
buôn bán thì mặt hàng nông sản lại mang tính thời vụ. Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi
dào, phong phú về chủng loại, chất lượng khá đồng đều và giá bán rẻễ Ngược lại, vào những lúc
trái vụ, hàng nông sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều và giá bán thường cao. Điều đó đã
ảnh hưởng không nhỏ đến việc sản xuất cũng như xuất khẩu hàng nông sản ở các nước trên thế giới
nói chung và ở Việt Nam nói riêng.

Việt Nam là một nước có nên nông nghiệp lâu đời, có tiềm năng khá lớn trong việc sản xuất
hàng nông sản. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế đang được đẩy mạnh, Việt Nam đang mở
rộng cánh cửa giao lưu buôn bán với các quốc gia trên thế giới, và mỗi nước đều có những lợi thế
so sánh cũng riêng mình thì hàng nông sản được coi là một thế mạnh của Việt Namế Và thực tế
cũng đã chứng minh, hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản đã và đang đóng một vai trò
vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Hoạt động sản xuất và xuất
khấu hang nông sản không những đảm bảo được nhu cầu trong nước, đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia, giải quyết việc làm cho người lao động mà còn giúp nâng cao đời sống cho người nông
dân, là động lực thúc đẩy quá trình sản xuất trong nước. Hoạt động này sẽ giúp cho Việt Nam có thế
khai thác tối đa lợi thế ở Việt Nam về điều kiện khí hậu, tài nguyên, nguồn nhân lực,.ẽẽ Với vai trò
to lớn như vậy, xuất khấu hàng non sản được coi là một mũi nhọn chủ lực ở Việt Nam trong phát
triến kinh tế.

Trong nhưng năm trở lại đây, hoạt động xuất khẩu hàng nông sản có tộc độ


tăng khá nhanh và ôn định. Đặc biệt là ở các mặt hàng như gạo, cà phê, cao su đã

đóng góp một phần không nhỏ vào tống kim ngạch xuất nhập khâu của cả nước

1


nói riêng và tổng sản phẩm GDP nói chung. Tuy nhiên, không phải lúc nào hoạt

động xuất khấu hàng nông sản của Việt Nam cũng thuận lợi mà còn đầy rẫy những

khó khan, thử thách. Con đường đế hàng nông sản Việt Nam đến với thị trường thế

2


2giới còn có không ít những rào cản đòi hỏi những người nông dân, những nhà doanh
nghiệp và cả chính phủ cần phải có giải pháp tháo gỡ để vượt qua.

Xuất phát từ những lý do đó mà nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “ Thực trạng xuất
khấu hàng nông sản ở Vĩệt Nam ” đế nghiên cứu.

IIẼ Phương pháp nghiên cứu.

-

-

Sử dụng phương pháp diễn giải xen lẫn phân tích để giới thiệu vấn đề.


Sử dụng phương pháp thu thập số liệu: số liệu được đọc, được nghiên cứu từ
sách, báo, mạng internet có liên quan.

Sử dụng các phương pháp phân tích số liệu, đánh gía, so sánh, thống kê mô tả
nhằm đạt được mục tiêu nghiên cún của đề tài.
Phân chia công việc mỗi thành viên đóng góp một phần và trưởng nhóm tổng hợp hoàn
thành bài.PHAN II: NỌI DUNG
-

I. LÝ LUẬN LIÊN QUAN.
1. Khái niêm về xuất khâu

Xuất khẩu hay xuất cảng, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng hóa
và dịch vụ cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là
việc bán hàng hóa cho nước ngoài.

Theo điều 28, mục 1, chương 2, Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định: “Xuất
khấu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thô Việt Nam hoặc đưa vào khu
vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy

3
3


định của pháp luật”.

Hàng hóa xuất khẩu: Là hàng hóa sản xuất đế đưa ra thị trường, mua bán trao đối
trên thị trường nhưng là thị trường nước ngoài. Hàng hóa này phải di chuyến qua biên
giới của quốc gia. Đồng thời cũng phải đáp ứng được tiêu chuẩn, chất lượng mà thị
trường nhập khẩu đó đòi hỏi. Như vậy so với hàng hóa sản xuất đế bán trên thị trường

nội địa nó phức tạp hơn nhiều

Giá cả xuất khẩu: Là mức giá của hàng hóa xuất khẩu, nó được đưa ra dựa trên
mức giá quốc tế và có sự chấp nhận của cả hai bên xuất nhập khấu

Kim ngạch xuất khẩu: Được hiếu là tổng giá trị hàng hjóa xuất khẩu của một
doanh nghiệp, một đơn vị kinh tế hay một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất
định.

Hạn ngạch xuất khẩu: Là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, được hiếu là
quy định của nhà nước về sản lượng hay giá trị của một mặt hàng, hay nhóm mặt hàng
sang một thị trường nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định thông qua hình thức
cấp giấy phép xuất khẩu (Quota xuất khấu).

Hợp đồng xuất khẩu: Là hợp đồng mua bán hàng hóa được kí kết giữa một bên là
thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài. Các chủ thế của họp
đồng là ngừơi mua, người bán phải có trụ sở đăng kí kinh doanh tại các nước khác nhau,
thông thường là có quốc tịch khác nhau.
2. Vai trò của xuất khâu

-

4
4

Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa và hiện
đại hóa.


-


Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đấy sản xuất phát
triểnế Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đổi với sản xuất và
chuyến dịch cơ cấu kinh tế.

Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quả
nhu cầu nội địa. Trong trường hợp, nền kinh tế còn lạc hậu và phát triển như nước ta, sản
xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất, thì
xuất khấu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm. Sản xuất và sự thay đối cơ cấu kinh tế
sẽ rất chậm chạp.

Hai là, coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ
chức sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản
xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đấy sản xuất
phát triến.

5
5

-

Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.

-

Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát
triển và ổn định.

-


Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng
cao năng lực sản xuất trong nước.

-

Xuất khấu tạo ra những tiền đề kinh tế, kĩ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực
sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng
tạo ra vốn và kĩ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện
đại hóa nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới.

-

Thông qua xuất khấu, hàng hóa của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị


trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hởi chúng ta phải
tố chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị
trường.

-

Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đối mới và hoàn thiện công việc
quản trị sản xuất và kinh doanh.

-

Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống của nhân dân.

-


Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước
ta.

3. Những yếu to tác đôns đến xuất khâu

Khi các nhân tố liên quan đến chi phí sản xuất hàng xuất khẩu ở trong nước không
thay đối, giá trị xuất khẩu phụ thuộc vào thu nhập của nước ngoài và vào tỷ giá hối đoái.

-

Thu nhập của nước ngoài tăng (cũng có nghĩa là khi tăng trưởng kinh tế của nước
ngoài tăng tốc), thì giá trị xuất khẩu có cơ hội tăng lên.

-

Tỷ giá hối đoái tăng (tức là tiền tệ trong nước mất giá so với ngoại tệ, thì giá trị
xuất khấu cũng có thế tăng nhờ giá hàng tính bằng ngoại tệ trở nên thấp đi.

-

Chính sách của Nhà nước về thương mại quốc tế:

+ Thuế quan: Hiện nay các mặt hàng nông sản chủ yếu như gạo, cà phê, hồ tiêu... là
các mặt hàng nông sản được Nhà nước khuyến khích xuất khấu nhằm giải quyết
các vấn đề xã hội nên được miễn thuế xuất khẩu.

6
6



+ Công cụ phi thuế quan:

Quota xuất khấu (hạn ngạch xuất khấu): Được áp dụng như một công cụ chủ yếu
trong hàng rào phi thuế quan và ngày càng có vai trò quan trọng trong xuất khẩu hàng
hoá. Hạn ngạch được hiểu như quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt
hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu từ một thị trường nội địa trong một thời
gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép.

Quota xuất khấu là một trong những công cụ trước đây cũng đã áp dụng cho hàng
hoá nông sản (xuất đi phải xin giấy phép xuất khẩu) làm hạn chế khả năng xuất khẩu. Từ
năm 1997 đến nay, Nhà nước đã bở Quota xuất khẩu đối với các mặt hàng nông sản xuất
khẩu chủ yếuế Riêng đối với gạo, việc xuất khẩu phải thông qua hiệp hội xuất khẩu gạo
để đảm bảo quyền lợi chung của hiệp hội và của các doanh nghiệp xuất khẩu.

- Chính sách đổi với cán cân thanh toán cán cân thương mại: Trong hoạt động kinh

tế thương mại nói chung, giữ vững được cán cân thanh toán và cán cân thương
mại có ý nghĩa quan trọng góp phần quyết định vào sự củng cố nền độc lập và
tăng trưởng kinh tế nhanh. Đương nhiên biện pháp đế giữ cân bằng không phải là
hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu hoặc vay vốn đế giữ cho cán cân thanh toán
được cân bằng. Sự cân bằng theo kiếu đó là cân bằng tiêu cực.

Vấn đề đặt ra là phải có chính sách khuyến khích sản xuất hàng hoá xuất khẩu.
Song song với việc mở rộng quy mô xuất khẩu, đa dạng hoá mặt hàng xuất khấu, trong
đó chú trọng đến những mặt hàng chủ lực. Có như vậy, quốc gia mới có thể giảm dần
nhập khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu.

- Những quy định về tiêu chuẩn kĩ thuật (tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phấm,


đo lường, bao bì đóng gói,...)...
4. Muc tiêu. nhiêm vu của xuât khâu

7
7


- Mục tiêu chung của hoạt động xuất khấu hiện nay là: “Đây mạnh xuất khâu, coi

xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điếm của kinh tế đối ngoại, tạo thêm các
mặt hàng chủ lực; nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khâu trên thị trường;
giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh
trong hàng xuất khẩu”.

Ở những thời điểm nhất định mục tiêu xuất khẩu có khác nhau, nhưng mục tiêu
quan trọng chủ yếu nhất của xuất khẩu là để nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế
quốc dân. Nhu cầu của nền kinh tế rất đa dạng, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, cho tiêu dùng, cho xuất khẩu và tạo công ăn việc làm.

- Đế thực hiện tốt mục tiêu trên, hoạt động xuất khẩu hướng vào thực hiện các

nhiệm vụ sau:

+ Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (đất đai, nhân lực, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chấtề.

+ Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim
ngạch xuất khâu.
+ Tạo ra những mặt hàng (nhóm hàng) xuất khấu có khối lượng và giá trị lớn đáp ứng
những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có

sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao

8
8


.THỤC TRẠNG XUẤT KHÁU NÔNG SẢN Ở VIỆT NAM.
1.

Trong nhữns năm sần đây

Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khấu
của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế và phát
triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia. Sự độc lập phát
triển của mỗi quốc gia là sự phụ thuộc của quốc gia đó vào thế giới phải cân bằng
với sự phụ thuộc của thế giới vào quốc gia đó. Hoạt động xuất nhập khấu là yếu tố
quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư đế đối mới
công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đấy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước.

Những năm qua, hoat động xuất khấu nông sản của Việt Nam đã có những
chuyến biếm tích cực như: Sự tăng lên về kim nghạch xuất khâu, Cơ cấu các mặt
hàng xuất khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa dạng hóa, giảm tỷ trọng
loại hàng hóa chưa qua chế biến tăng tỷ trọng hàng đã qua chế biến. Thị trường
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam càng ngày càng mở rộng và thay đối về cơ cấu
thị trường. Sự thay đối đó thể hiện rất rõ ở kết quả xuất khẩu nông sản cuả Việt
Nam năm 2008, 2009, 2010, 2011 và 10 tháng đầu năm 2012.

Trong những năm qua, hoat động xuất khẩu nông sản đã có những chuyến
biếm tích cực như sự tăng lên về kim nghạch xuất khẩu, cơ cấu các mặt hàng xuất

khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa dạng hóa, giảm tỷ trọng loại hàng
hóa chưa qua chế biến tăng tỷ trọng hàng đã qua chế biến. Thị trường xuất khấu
hàng húa của Việt Nam càng ngày càng mở rộng và thay đổi về cơ cấu thị trường.
Trong số các nước ở Châu Á như Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn, tuy nhiên
tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của ta sang các nước đó cũng đó thay đổi
theo hướng giảm dần và tăng ở các nước khối EU và Châu Mỹ.

Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sản xuất nông
nghiệp trong năm 2008 gặp không ít khó khăn về thời tiết, dịch bệnh cũng như
điều kiện thị trường. Đầu năm là những đợt rét chưa từng có trong vòng nhiều
thập kỷ qua đã ảnh hưởng lớn không chỉ đến cây trồng, vật nuôi mà cả đến đời
sống của người nông dân. Tiếp đó là thiên tai bão lụt mà tiêu biểu đợt mưa ngập ở


các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng, gây thiệt hại lớn về mùa màng và nuôi trồng
thủy sản, VẼV... Mặt khác, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu tù’ giữa
năm 2008 đã tạo nên những cơn bão giá (giá xăng dầu thế giới tăng đã làm cho
hàng loạt các vật tư nhập khẩu đầu vào của nông nghiệp tăng mạnh) làm tăng chi
phí của người sản xuất tăng vào những tháng giữa năm. Đặc biệt, những tháng
cuối năm điều kiện thị trường của nông sản đã biến động bất lợi cho ngành nông
nghiệp: xuất khâu khó
8

khăn, nông sản khó tiêu thụ, v.v... Xuất khâu thủy sản trong các tháng cuối năm giảm
mạnh, đi ngược lại xu thế chung trong những năm trước đây và sẽ còn tiếp tục
trong năm tớiế Tất cả những yếu tố này đã tạo ra một năm đầy những yếu tố bất
thường đối với ngành: kể cả thuận lợi cũng như khó khăn. Mặc dù vậy, ngành
nông nghiệp vẫn đạt được những thành tựu nhất định. Sản lượng lương thực tăng
mạnh (7,5% so với năm 2007), kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt hơn
2,8 tỷ USD, cà phê - hơn 2 tỷ USD. Xuất khấu thủy sản lần đầu tiên vượt ngưỡng

4 tỷ USD.

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2009 có những thuận lợi: Chính
phủ triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ lãi suất đế kích cầu và tăng cường
đầu tư cho sản xuất, thời tiết về cơ bản thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và khai
thác thuỷ sản, dịch bệnh diễn ra ở qui mô nhỏ,ễ.. Tuy nhiên, năm 2009 sản xuất
cũng gặp nhiều khó khăn: mưa lũ lớn trên diện rộng cuối năm 2008 đã ảnh hưởng
lớn đến sản xuất cây vụ đông, khu vực Tây Nguyên quí I bị hạn, thiếu nước, mưa
bão trong quý III ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, giá cả nhiều nông sản giảm
mạnh từ cuối năm 2008, giá thức ăn chăn nuôi ở mức cao, thị trường xuất khẩu
một số sản phấm khó khăn,... Do vậy, kết quả sản xuất năm 2009 vẫn tăng so với
cùng kỳ nhưng ở mức tăng thấp so với những năm trước. Sản lượng lương thực có
hạt đạt 43,33 triệu tấn tăng 24 ngàn tấn so với năm ngoái (tương đương 0,1%),
trong đó sản lượng lúa đạt 38,9 triệu tấn, tăng 116 ngàn tấn (tương đương 0,4%),
sản lượng ngô giảm khoảng 3,1% (tương đương 141 ngàn tấn) đạt mức 4,4 triệu
tấn. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu gạo của năm 2009 đạt mức cao nhất từ trước
đến này: ước đạt 5,8 triệu tấn với trị giá kim ngạch 2,6 tỉ USD, so cùng kỳ năm
trưó’c tang 22,67% về lượng, nhưng giảm 10,34% về giá trị. Xuất khẩu nông lâm
thủy sản tuy không đạt được mức của năm ngoái do tác động của khủng hoảng


kinh tế và giảm giá thế giới nhưng cũng vượt mức đề ra (kế hoạch của ngành là 12
triệu USD và chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao là 14 tỷ USD). Tổng kim ngạch
xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 12/2009 ước đạt trên 1,3 tỷ USD, đưa giá trị
xuất khâu nông lâm thuỷ sản cả năm 2009 ước đạt 15,34 tỷ USD, giảm 6,91% so
cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu các mặt hàng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn
nhất, ước đạt 7,8 tỷ USD, so với cùng kỳ năm trước giảm 10,88%, thuỷ sản ước
đạt 4,2 tỷ USD, giảm 6,73% so cùng kỳ, lâm sản ước đạt 2,74 tỷ USD, giảm
10,94% so cùng kỳ.


Năm 2010 diễn biến thời tiết không mấy thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp: vụ đông xuân thiếu nước trên phạm vi rộng; nắng nóng kéo dài đầu vụ hè
thu và vụ mùa; mưa, bão ảnh hưởng lớn đến năng suất, sản lượng lúa hè thu và lúa
mùa ở các tỉnh miền Trung và Bắc Trung Bộ; dịch bệnh cây trồng, vật nuôi lan
rộng ở nhiều địa phương, nhất là bệnh rầy nâu trên cây lúa và dịch bệnh tai xanh
trên lợn. Tuy nhiên, nhờ có các chính sách và biện pháp cụ thế kịp thời kết quả sản
xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2010 đạt khá so với năm trước.

Năm 2011 giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản cả năm 2011 ước xấp xỉ 25
tỷ USD, tăng 27,9% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, các mặt hàng nông sản
chính có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong nhóm hàng này, ước đạt 13,7 tỷ USD,
so với cùng kỳ năm trước tăng 33,2%; thuỷ sản ước đạt 6,1 tỷ USD, tăng 21% so
với cùng kỳ; lâm sản chính ước đạt 4,1 tỷ USD (trong đó gỗ và sản phẩm gỗ đạt
3,9 tỷ USD), tăng 12,7% so cùng kỳ năm 2010.

Năm 2012 tính đến tháng 10 thì xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu nông
lâm thuỷ sản tháng 10 ước đạt 2,25 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản
10 tháng đầu năm 2012 ước đạt 22,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm
trước. Giá trị xuất khấu các mặt hàng nông sản chính 10 tháng đầu năm ước đạt
12,2 tỷ USD, tăng 7,7%; thuỷ sản ước đạt 5 tỷ USD, tăng 1,7%; lâm sản chính
ước đạt gần 4 tỷ USD, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trướcế Giá trị xuất khẩu
các mặt hàng nông lâm sản chính 10 tháng đầu năm có xu hướng tăng so với cùng
kỳ năm trước, ngoại trừ mặt hàng gạo và cao su. Giá trị nhập khấu các đầu vào
cho sản xuất nông lâm sản 10 tháng đầu năm 2012 ước đạt 13,76 tỷ USD, tăng
11,7% so với cùng kỳ năm 2011. Như vậy, xuất siêu ngành Nông nghiệp 10 tháng
đầu năm ước đạt 8,74 tỷ USD.


2. Thưc traníỉ xuất khâu môt so nông san chính

a. Hoat đông xuất khâu sao

Trong tháng xuất khẩu 436 nghìn tấn, tăng 51,5% so với tháng trước, nâng
tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 đạt 4,74 triệu tấn, tăng 4% so
với năm trước và thực hiện được 105,4% kế hoạch nămế Giá bình quân xuất khẩu
gạo cả năm là 610 USD/tấn, tăng 86,7% tương đương với tăng 283 USD/tấn, trị
giá cả năm đạt 2,89 tỷ USD tăng 94,3% so với cùng kỳ năm 2007.

Tính đến hết tháng 12 năm 2008, Việt Nam xuất khẩu gạo sang Châu Á là
2,68 triệu tấn, giảm 19,1% so với năm 2007 và chiếm 56,4% tổng lượng gạo xuất
khấu của cả nước (trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu về nhập khấu gạo
của Việt Nam với 1,69 triệu tấn, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2007, các nước
còn lại 986 nghìn tấn, giảm 46,7%); tiếp theo là Châu Phi: 1,18 triệu tấn, tăng
88%; Châu Mỹ: 547 nghìn tấn, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2007,...

Năm 2009, Việt Nam xuất khấu gạo sang Châu Á đạt 3,21 triệu tấn, tăng
19,9% so với năm 2008 và chiếm 53,8% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước
(trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu với 1,71 triệu tấn, tăng nhẹ 0,9%; các
nước còn lại 1,5 triệu tấn, tăng 52,6%). Tiếp theo là Châu Phi: 1,67 triệu tấn, tăng
41,7%; Châu Mỹ: 497 nghìn tấn, giảm 9,2% so với năm trướcề..

Philippin là đối tác dẫn đầu về nhập khấu gạo của Việt Nam trong năm 2009
với 1,48 triệu tấn, giảm 13,6% so với năm trước; tiếp theo là các thị trường:
Singapore đạt 539 nghìn tấn, tăng 64,7%; Cuba đạt 472 nghìn tấn, tăng 5%. Mặc
dù, xuất khấu gạo giảm ở thị trường lớn nhất Philippin, nhưng tăng mạnh ở một số
thị trường mới nổi như thị trường Inđônêxia đạt 687 nghìn tấn (năm 2009 chỉ là

17,8

nghìn tấn); Bănglađét đạt 359 nghìn tấn (năm 2009 là hơn 5 nghìn


tấn);ề..

Năm 2011 thì mặt hang gạo vẫn là một mặt hàng nông sản chủ đạo, chiếm


tỷ trọng lớn trong tống giá trị xuất khấu nông sản của nước ta (chiếm 26,8% tông
kim ngạch xuất khẩu nông sản), số liệu thống kê của Tống cục Hải quan cho thấy
năm 2011 lượng gạo xuất khẩu đạt 7,1 triệu tấn và trị giá đạt 3,66 tỷ USD, chỉ
tăng nhẹ 3,3% về lượng và tuy nhiên tăng khá 12,6% về trị giá so với năm trước.

Năm 2012 lượng gạo xuất khâu của cả nước trong tháng 9 năm nay là 673
nghìn tấn, giảm 17,4%, trị giá đạt 303 triệu USD, giảm 17% so với tháng trước.
Như vậy, tính đến hết quý III/2012, lượng xuất khẩu nhóm hàng này là 6,23 triệu
tấn, tăng 5% và trị giá đạt 2,82 tỷ USD, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước.

Trong 3 quý qua, Trung Quốc là đối tác lớn nhất nhập khẩu gạo của Việt
Nam với 1,71 triệu tấn, tăng gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2011. Tiếp theo là
Philippin: 1,04 triệu tấn, tăng 13,1%; Malaixia: 542 nghìn tấn, tăng 36,1%; Bờ
Biến Ngà: 465 nghìn tấn, tăng 65,7%; Inđônêxia: 325 nghìn tấn, giảm 72,5% và
Ghana: 263 nghìn tấn, tăng gấp hơn 2 lần;...
b. Huat đông xuất khâu thủy sản

Theo Tống cục Hải Quan, xuất khâu thuỷ sản 11 tháng đạt 4,2 tỷ USD với
khối lượng xuất khẩu 1,15 triệu tấn, tăng 22,06% về giá trị và 33,60% về khối
lượngế Do những bất ổn trong tình hình kinh tế thế giới nên xuất khẩu thuỷ sản
tháng 12 chỉ ước đạt 300 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thuỷ sản cả năm là 4,5
tỷ, tăng 19,64% so với năm 2007 và vượt kế hoạch 5,92%.

Năm 2008 là năm thành công của cá tra, basa. Thời điểm đầu năm, giá xuất

khẩu xuống thấp, các doanh nghiệp thiếu vốn thu mua cá khiến hàng ngàn tấn cá
nguyên liệu tồn đọng ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, gây tâm lý lo ngại cho
bà con nuôi cá tra, basa. Nhưng sau một thời gian ngắn, nhờ đẩy mạnh xuất khẩu
sang các nước Đông Âu, EU và mở rộng thị trường sang các nước vùng Trung
Đông, nên mặt hàng cá tra, basa vẫn duy trì mức độ tăng trưởng cao. Sau 11 tháng
đã xuất khẩu được 584,7 ngàn tấn cá tra, basa đạt giá trị 1,33 tỷ USD, tăng
66,65% về khối lượng và 48,84% về giá trị so với cùng kỳ năm 2007. Các thị
trường xuất khâu cá tra, basa quan trọng là Nga (171,24 triệu USD, gấp 2,22 lần


so với năm 2007, chiếm 12,84% giá trị xuất khẩu cá tra, basa). Neu năm 2007 Ucơ-rai-na là nước nhập khẩu cá tra, basa lớn thứ bảy của Việt Nam thì đến năm
nay đã vươn lên vị trí thứ hai (133,06 triệu USD, gấp 3,57 lần năm 2007, chiếm
9,98%). Tây Ban Nha tù' thị trường tiêu thụ cá tra, basa đứng đầu trong năm 2007,
đã tụt xuống vị trí thứ ba, nhưng vẫn tăng trưởng cả về khối lượng (42,22 ngàn
tấn, tăng 28,87% so với cùng kỳ năm 2007) và giá trị (111,34 triệu USD, tăng
20,54%). Các nước khác trong khối EU cũng là những khách hàng tiêu thụ cá tra,
basa quan trọng của Việt Nam như Đức (99,24 triệu USD, chiếm 7,44%), Hà Lan
(85,39 triệu USD, chiếm

6, 4%), Ba Lan (78,12 triệu USD, chiếm 5,86%, nhưng giá trị xuất khẩu năm 2008

sang thị trường này lại có sự sụt giảm 6,55% so với cùng kỳ năm 2007),... Một thị
trường khá mới nữa là A-rập Xê-Út đã trở thành thị trường tiềm năng, từ vị trí thứ
76 năm 2007 (83,62 ngàn USD), đã vươn lên vị trí 14 (22,93 triệu USD).

Mặt hàng tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu số một. Tuy nhiên, xuất khẩu tôm
cũng đang gặp khó khăn do khủng hoảng tài chính. Người tiêu dùng các nước
phát triển phải cắt giảm chi tiêu, các mặt hàng tôm đắt đỏ trước đây đã dần được
thay thế bằng các loại thuỷ sản khác rẻ tiền hơn, dẫn đến giá tôm xuất khẩu bị sụt
giảm. Sức tiêu thụ của thị trường tôm truyền thống của Việt Nam như Nhật, Mỹ,

do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, đã giảm sút. Mặc dù vậy,
xuất khẩu tôm năm 2008 vẫn có sự tăng trưởng cả về khối lượng và giá trị, nhưng
khối lượng tăng nhanh hơn giá trị. Xuất khẩu tôm 11 tháng năm 2008 đạt 176,29
ngàn tấn (tăng 20,37% so với cùng kỳ năm 2007) với giá trị gần 1,5 tỷ USD (tăng
8,98%). Nhật Bản vẫn là thị trường tiêu thụ tôm hàng đầu của Việt Nam, với khối
lượng xuất khấu là 53,92 ngàn tấn (chiếm 30,59% khối lượng tôm xuất khấu, tăng
4,96%) tương ứng với giá trị 460,47 triệu USD (chiếm 30,70% giá trị xuất khẩu
tôm, tăng 2,59%)ế Thị trường tiêu thụ tôm lớn thứ hai là Mỹ với 42,97 ngàn tấn
(chiếm 24,37%, tăng 18,36%) nhưng giá trị lại giảm chỉ đạt 430,44 triệu USD
(chiếm 28,70%, giảm 1,18%). Thị trường tiêu thụ tôm lớn thứ ba là EU có sự tăng
trưởng khả quan hơn với khối lượng 30,44 ngàn tấn (chiếm 17,27%, tăng 53,91%)
và giá trị 218,42 triệu USD (chiếm 14,56%, tăng 49,75%). Mặc dù chịu nhiều tác
động tiêu cực tù' cuộc khủng hoảng tài chính khiến tình hình tiêu thụ thủy sản
cuối năm tại các nước EU bị chững lại, nhưng trong tương lai đây vẫn là thị
trường tiềm năng của mặt hàng tôm Việt Nam. Thị trường Hàn quốc vẫn có sự
tăng trưởng về khối lượng tôm xuất khẩu nhưng giá trị chỉ tăng nhẹ so với cùng


kỳ năm 2007 với khối lượng 11 ngàn tấn và giá trị 76,83 triệu USD (tăng 17,37%
khối lượng, tăng 3,21% giá trị), trong khi đó thị trường ASEAN giảm mạnh so với
cùng kỳ năm 2007 với khối lượng 2,9 ngàn tấn và giá trị 22,42 triệu USD (giảm
14,45% khối lượng và 32,01% giá trị).

Mặt hàng mực, bạch tuộc thu về giá trị ngoại tệ lớn thứ ba trong xuất khẩu
thuỷ sản đạt 294 triệu USD (chiếm 7,01% tống giá trị xuất khấu thuỷ sản), có tăng
nhẹ về khối lượng (tăng 7,09%) nhưng giá bán có phần khá hơn năm 2007 (tăng
13,95%). Thị trường tiêu thụ mặt hàng này lớn nhất là EU (chiếm 32,64% giá trị
xuất khấu mực, bạch tuộc đông lạnh), tăng trưởng khá cả về khối lượng (26,87
ngàn tấn, tăng 22,44%) và giá trị (96,17 triệu USD, tăng 32,97%) so với năm


Nhật (chiếm 31,07%) là thị trường tiêu thụ mực, bạch tuộc lớn thứ hai lại có
sự suy giảm so với năm 2007, với khối lượng 17,13 ngàn tấn (giảm 4,51%) và giá
trị (giảm 1,76%). Ngoài cá tra, basa, các mặt hàng cá đông lạnh khác cũng tăng
trưởng khả quan với tốc độ tăng trưởng giá trị nhanh hơn khối lượng, các thị
trường tiêu thụ cá chủ lực là các nước EU, Nhật và Mỹ. Các mặt hàng chế biến,
mặt hàng giá trị gia tăng cũng ghi nhận những kết quả khá, nhóm hàng tôm chế
biến (chiếm 5,19% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản) đạt 218,18 triệu USD (tăng
79,02% so với cùng kỳ năm 2007), nhóm hàng cá chế biến (chiếm 11,99%) đạt

2007.

159,8

triệu USD (tăng 122,29%).

về thị trường xuất khấu, nhóm các nước EU tiếp tục là thị trường tiêu thụ
thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao với khối
lượng 326,17 ngàn tấn (chiếm 28,34% tống khối lượng xuất khấu thuỷ sản, tăng
27,51% so với cùng kỳ năm 2007) và giá trị 1,06 tỷ USD (chiếm 25,35% tổng giá
trị xuất khẩu thuỷ sản, tăng 27,98%). Thị trường lớn thứ hai là Nhật có tốc độ tang
trưởng đều đặn về khối lượng và giá trị, còn thị trường Mỹ lớn thứ ba chỉ tăng
nhẹ. Nhờ mặt hàng cá tra, basa mà thị trường các nước châu Âu (405,28 triệu
USD, gấp 2,1 lần cùng kỳ năm 2007) và châu Phi (81,26 triệu USD, gấp 2,82 lần)
cũng ghi nhận những kết quả đáng ngạc nhiên.


Kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 12 năm 2009 đạt 330 triệu USD, nâng
tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản 12 tháng lên 4,21 tỷ USD, đạt 93,27%
kế hoạch năm, giảm 6,73 % so với cùng kỳ năm 2008. Nét mới trong xuất khấu
thủy sản năm 2009 là Việt Nam đã tiến hành đàm phán hiệp định với Nhật Bản về

xuất nhập khấu thủy sản. Nhiều khả năng tới đây, phía Nhật Bản sẽ giảm mức
thuế nhập khẩu bằng 0% đối với các sản phẩm tôm Việt Nam.

Năm 2009 hàng thủy sản của nước ta xuất khấu đạt kim ngạch 4,25 tỷ USD,
giảm 5,7% so với năm 2008 (nhưng tăng 14,2% so với năm 2007). Trong đó, tôm
đạt 211 nghìn tấn với trị giá: 1,69 tỷ USD; cá Tra & cá Basa đạt 614 nghìn tấn, trị
giá: 1,36 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong năm 2010 đạt hơn 5 tỷ
USD, tăng 18% so với năm 2009.

Xuất khẩu thuỷ sản của nước ta trong năm 2010 sang EU đạt 1,2 tỷ USD,
tăng 7,6%; sang Hoa Kỳ đạt 956 triệu USD, tăng 34,4%; sang Nhật Bản đạt 894
triệu USD, tăng 17,5%; sang Hàn Quốc đạt 389 triệu USD, tăng 24,2% so với
năm 2009ế Tổng giá trị thuỷ sản xuất khẩu sang 4 thị trường này đạt 3,44 tỷ USD,
chiếm 68,6% tống kim ngạch xuất khấu thuỷ sản cả nước.

Kim ngạch xuất khẩu trong tháng 12/2011 đạt 581 triệu USD, giảm nhẹ

0, 2% so với tháng 11. Tính đến hết năm 2011, kim ngạch xuất khấu nhóm hàng này

đạt 6,11 tỷ USD, tăng 21,8% so với năm 2010 và tăng 65,6% so với mức bình
quân giai đoạn 2005 - 2009.

Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn là 3 đối tác chính nhập
khâu hàng thuỷ sản trong năm 2011, cụ thế: xuất mặt hàng này sang thị trường EU
đạt 1,36 tỷ USD, tăng 12,9%; sang Hoa Kỳ đạt 1,16 tỷ USD, tăng 21,3%; sang
Nhật Bản đạt 1,02 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2010. Ngoài ra, xuất khẩu thủy
sản của Việt Nam còn mở rộng sang các thị trường như Hàn Quốc: 490 triệu USD,
tăng 26,1%; Trung Quốc: 223 triệu USD, tăng 37,3%; Braxin.ệ 86,3 triệu USD,
tăng 153,5%...



Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng 6/2012 đạt 524 triệu USD,
giảm 4,7% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong 2 quý lên
2,86 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2011. Trong đó, xuất sang Hoa Kỳ
đạt 559 triệu USD, tăng 16%; sang EƯ là 555 triệu USD, giảm 13,9%; và sang
Nhật Bản đạt 502 triệu USD, tăng 33,4%;...
c. Hoat đôns sản xuất cà phê

Xuất khẩu tháng 12/2008 đạt khoảng 120 ngàn tấn với trị giá 203 triệu
USD, đưa tổng lượng cà phê xuất khấu cả năm 2008 sẽ đạt 994 ngàn tấn với giá
trị kim ngạch vượt ngưỡng 2 tỷ USD, giảm gần 20 % về lượng nhưng tăng 4,8%
về kim ngạch. Đây là mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ hai sau gạo trong
nhóm hàng nông sản xuất khấu của nước ta.

Lượng xuất khấu cà phê cả năm 2009 là 1,18 triệu tấn, tăng 11,7% so với
năm 2008. Do đơn giá xuất khẩu bình quân giảm 26,6% nên trị giá chỉ là 1,73 tỷ
USD, giảm 18% so với năm trước.

Các thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong năm 2009 là
Đức: 136 nghìn tấn, tăng 0,2% so với năm 2008; Bỉ: 132 nghìn tấn, tăng 49,5%;
Hoa Kỳ: 128 nghìn tấn, tăng 20,4%; Italia: 96,2 nghìn tấn, tăng 11,3%;...

Trái ngược với xuất khấu gạo, mưa kéo dài làm sản lượng cà phê thu hoạch
sụt giảm kéo theo tình hình xuất khẩu cà phê cũng không mấy khả quan. Khối
lượng xuất khấu năm 2010 chỉ đạt 1,1 triệu tấn và giá trị là 1,67 tỷ USD, giảm xấp
xỉ 5% về lượng và 3,7% về giá trị so với năm 2009. Giá xuất khâu trung bình xấp
xỉ bằng năm 2009. Năm 2010, có sự thay đổi lớn về vị trí của các thị trường tiêu
thụ lớn, thị trường tiêu thụ đứng đầu của năm 2009 là Bỉ có sự sụt giảm mạnh chỉ
bằng 1/3 và tụt xuống vị trí thứ 6. Hoa Kỳ và Đức là hai thị trường tiêu thụ hàng
đầu có sự tăng trưởng khá, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm trước.


Lượng cà phê xuất khâu trong tháng 12/2011 là 155,6 nghìn tấn, trị giá đạt
325 triệu USD, tăng 119,9% về lượng và tăng 116,6% về trị giá so với tháng
trước. Tính đến hết 12 tháng/2011, lượng cà phê xuất khẩu của nước ta đạt gần


1,26 triệu tấn, trị giá đạt 2,75 tỷ USD, tăng 3,2% về lượng và tăng 48,7% về trị
giá so với năm 2010.

Thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của nước ta trong năm 2011 bao gồm
EU: 490 nghìn tấn, tăngl ,8% và chiếm 39% tông lượng xuất khấu nhóm hàng này
của nước ta; tiếp theo là Hoa Kỳ: 138,5 nghìn tấn, giảm 9,5%; Nhật Bản: 50,7
nghìn tấn, giảm 4,4%... so với năm 2010.

Lượng cà phê xuất khấu trong tháng 6/2012 là hơn 141 nghìn tấn, trị giá đạt
303 triệu USD, giảm 30,8% về lượng và giảm 29% về trị giá so với tháng trước.
Tính đến hết 6 tháng/2012, lượng xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước là gần

1, 05 triệu tấn, trị giá là 2,2 tỷ USD, tăng 20,4% về lượng và tăng 15,2% về trị giá so

với cùng kỳ năm trước.
d. Hoat đông xuât khâu cao su

Năm 2008 xuất khấu hơn 72 nghìn tấn, tăng 20% so với tháng 11, nâng
tổng lượng cao su xuất khẩu năm 2008 là 658 nghìn tấn, giảm 7,9% và chỉ hoàn
thành có 84,4% kế hoạch năm. Tuy nhiên, do năm 2008 giá bình quân tăng 25%
(tương đương với tăng 487 USD/tấn) nên kim ngạch xuất khấu cao su cả năm đạt
hơn 1,6 tỷ USD tăng 15,1% so với năm 2007.

Năm 2008, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khấu chính của Việt Nam gần

431 nghìn tấn, chiếm tới gần 65,5% khối lượng xuất khẩu cao su của cả nước.
Tiếp theo là Hàn Quốc: 29 nghìn tấn, Đức: 24 nghìn tấn, Đài Loan: 21,2 nghìn
tấn, Malaysia gần: 21 nghìn tấn,...

Lượng xuất khẩu trong tháng 12 năm 2009 đạt 90,4 nghìn tấn, nâng tổng
lượng xuất khẩu mặt hàng này cả năm đạt 731 nghìn tấn, tăng 11,1% so với năm


Mặc dù vậy, do giá xuất khâu bình quân giảm mạnh đến 31,1% nên kim
ngạch chỉ đạt 1,23 tỷ USD, giảm 23,5% so với năm trước.

2008.

Trung Quốc tiếp tục là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của Việt
Nam trong năm qua với 510 nghìn tấn (chiếm 69,6% tổng lượng cao su xuất khẩu
của cả nước), tăng 18,4% so với năm 2008. Tiếp theo là sang Malaixia: 30,1 nghìn
tấn, tăng 43,3%; sang Hàn Quốc: 28,3 nghìn tấn, giảm 2,4%; sang Đài Loan: 25
nghìn tấn, tăng 18,1%; sang Đức: 21,4 nghìn tấn, giảm 12,4%;...

Lượng xuất khẩu trong tháng đạt 101 nghìn tấn với trị giá gần 393 triệu
USD, tăng 13,3% về lượng và tăng 21,9% về trị giá so với tháng trướcế Tính đến
hết năm 2010, lượng cao su xuất khấu đạt 782 nghìn tấn, tăng 6,9% và kim ngạch
đạt 2,39 tỷ USD, tăng 94,7% so với năm 2009.

Năm 2010 Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của nước
ta với 464 nghìn tấn, nhưng giảm 9% so với năm 2009 và chiếm 59,4% tổng
lượng cao su xuất khấu của cả nước. Tiếp theo là Malaixia: 58,9 nghìn tấn, tăng
95,5%; Hàn Quốc: 34,7 nghìn tấn, tăng 22,4%; Đài Loan: 31,9 nghìn tấn, tăng
27,5%; Đức: 27,8 nghìn tấn, tăng 29,9%; ...


Tháng 12/2011, lượng cao su xuất khẩu đạt 111 nghìn tấn, trị giá 335 triệu
USD, giảm 11,8% về lượng và giảm 11,1% về trị giá so với tháng trước. Tính đến
hết tháng 12/2011, tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước đạt 817 nghìn
tấn, tăng 4,4%, trị giá đạt 3,23 tỷ USD, tăng 35,4% so với năm 2010. Trung Quốc
vẫn là đối tác chính tiêu thụ cao su nhập khấu từ nước ta trong năm 2011 với 502
nghìn tấn, tăng 8% và chiếm tới 61,4% lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp
theo là các thị trường: EƯ: 67,1 nghìn tấn, tăng 6,2%; Malaixia: 57,8 nghìn tấn,
giảm 2%; Đài Loan: 34,3 nghìn tấn, tăng 7,6%;...

Tháng 6/2012, xuất khẩu nhóm hàng này là 60 nghìn tấn, trị giá 170 triệu
USD, giảm 19,2% về lượng và giảm 27,5% về trị giá so với tháng trước. Tính đến
hết tháng 6/2012, tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước đạt 403 nghìn tấn, tăng
39,6% so với cùng kỳ năm trước. Và tiếp tục Trung Quốc vẫn là đối tác chính


nhập khẩu cao su của Việt Nam với 210 nghìn tấn, tăng 21,3% và chiếm tới 52,2%
lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp sau là các thị trường: Malaixia: 65
nghìn tấn, tăng gấp 3 lần; Hàn Quốc: 19 nghìn tấn, tăng 33,3%; Đài Loan: 18
nghìn tấn, tăng 50,6%;... so với cùng kỳ năm trước.

Những năm gần đây, rau quả, hạt tiêu và hạt điều đang khẳng định vai trò
của mình trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu; kim ngạch xuất khẩu của chúng
ta không ngừng tăng qua các năm. Hiện nay, thị trường rau quả xuất khấu đã được
mở rộng tới gần 50 nước và vùng lãnh thổ, chủ yếu tập trung ở thị trường châu á,
Tây Băc Âu và Mỹ.
II.

THỤC TRẠNG THỊ TRƯỜNG HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM.

Việt Nam là một nước có khĩ hậu nhiệt đới, gió mùa, 80% dân số sống bằng

nghề nông, vì vậy hàng nông sản là loại hàng chủ lực và cần thiết của Việt Nam.
Không phải chỉ một vài năm gần đây Việt Nam mới xuất khấu nông sản mà thực
tế nó đã có mặt trên thị trường thế giới hàng trăm năm nay.

1- Thị trường Nhật Bản

Từ năm 1986 đến nay, lượng hàng mà Việt Nam nhập của Nhật Bản đã tăng
lên 3-4 lần, trong khi đó lượng hàng xuất khấu tù' Việt Nam sang Nhật Bản lại
tăng từ 13-14 lần. Sau Indonesia Việt Nam là nước đang phát triển tại châu á luôn
xuất siêu sang Nhật Bản, đay là thị trường mà mặt hàng nông lâm sản chiếm lĩnh
lớn nhất của nước ta. Có thế nói Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn nhất của Việt
Nam đồng thời cũng là nước xuất khẩu lớn thứ hai sang Việt Nam.

Triển vọng tăng trưởng quan hệ xuất nhập khấu giữa Nhật Bản và Việt Nam
phụ thuộc rất nhiều vào chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam, điều này
cũng sẽ quyết định lượng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Vì vậy Việt Nam
nên tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và công nghệ của Nhật Bản vào
đế sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có của đất nước tạo ra
những sản phấm có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tếẵ


2- Thị trường các nước Asean.


Việt Nam gia nhập Asean là một mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển hoá mối
quan hệ giữ Asean Việt Nam với các nước thành viên mang đậm tính chất hợp tác.
Nen kinh tế Việt Nam và nền kinh tế của các nước thành viên có thể bố sung cho
nhau, đem lại sự phồn vinh cho mỗi quốc gia và cả khu vực. Cho đến nay Asean
đã chiếm khoảng 25-30% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, khoảng 30 % kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam và 15% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt

Nam. Việt Nam đã trở thành một thành viên chính thức của Asean có điều kiện mở
rộng thương mại không chỉ với các nước Asean mà còn với các nước khác, tuy
nhiên là một thành viên Việt Nam phải thực hiện các hiệp định thoả thuận của
Asean trong đó việc tham gia vào hiệp định khu vực mậu dịch tự’ do Asean
(AFTA), thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan (CFPT). Điều này ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động kinh doanh thương mại trong khu vực nói chung và đối vơí
nông lâm sản nói riêng. Khi đó chúng ta sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh lớn, đòi
hỏi những mặt hàng nông lâm sản phải có chất lượng cao, giá rẻ.

3- Thị trường EU

Thị trường EU là một thị trường giàu tiềm năng đối với hàng nông sản của
Việt Nam. Nhận định này dựa trên hai căn cứ sau đây:

- Thứ nhất, tuy nhập khấu các sản phẩm nông nghiệp của thị trường EU chỉ

chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của thị trường này, nhưng đó
vẫn là một thị trường rất lớn, các sổ liệu thống kê đều cho thấy rằng, bên cạnh
việc vẫn đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp ra thị trường thế giới,
nhưng để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của chính mình, EƯ vẫn đẩy mạnh
nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp.

- Thứ hai, với các định hướng phát trien nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù
hợp với nhu cầu thị trường và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong
nông nghiệp.ẾẾ, đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế
biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, chúng ta sẽ nâng cao được
chất lượng và VSATTP của sản phẩm nông nghiệp.

4- Thị trường Mỹ



Trước năm 1975, Việt Nam xuất khấu sang Mỹ một số mặt hàng như cao
su, gỗ, hải sản, đồ gốm... song kim ngạch xuất khẩu không đáng kể.

Ngày 3/2/1994 tổng thống Mỹ B.Clinton tuyên bố bãi bở lệnh cấm vận Việt
Nam, tiếp đó bộ thương Mại Mỹ chuyến Việt Nam từ nhóm Z(gồm Bắc Triều
Tiên, CuBa và Việt Nam) lên nhóm Y ít hạn chế thương mại hơn (gồm các nước
Liên Xô cũ, các nước thuộc khối Vacsava cũ, Anbani, Môngcố, Lào, Camphuchia
và Việt
18

Nam ). Bộ vận tải và bộ thương mại Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận tàu biến và máy bay Mỹ
vận chuyển hàng sang Việt Nam, cho phép tàu mang cờ Việt Nam vào cảng Mỹ
nhưng còn hạn chế phải xin phép trước 7 ngày và thông báo tàu đến trước 3 ngày.
Từ năm 1991 đến năm 1994 thì kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đã tăng đáng kể.

Căn cứ vào nhu cầu thị trường Mỹ hàng sau đây có khả năng xuất khẩu
sang Mỹ như cà phê, chè gia vị, hải sản chế biến, hàng may mặc... ngoài những
mặt hàng nói trên Việt Nam có thế mạnh như cao su, dầu thô, thực vật, hoa quả
nhiệt đới, hàng thủ công mỹ nghệ. ẵ. đều có thế xuất sang Mỹ.

5- Thị trường liên bang Nga và các nước Đông Âu và Trung Quốc

Đây là thị trường chủ yếu tiêu thụ hàng nông lâm sản của Việt nam như:
Hoa quả tươi và chế biến, chè, cà phê, cao su, hàng thủ công mỹ nghệ. Nga là bạn
hàng truyền thống tiêu thụ nhiều mặt hàng của Việt Nam. Nhưng vài năm gần đây
thì kim ngạch buôn bán giữa nước ta và Nga đã giảm dần và hiện nay Nga là nước
xuất siêu sang Việt Nam.

Với sản lượng và chủng loại hàng hóa không ngừng tăng lên trong nhiều

năm gần đây, hoạt động sản xuất nông nghiệp của Việt Nam đã khẳng định được
vị thế quan trọng đối với cả thị trường trong nước và thế giới. Với thị trường trong


nước, các mặt hàng nông sản đã cung cấp đủ cho thị trường những mặt hàng thiết
yếu đặc biệt quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu chi tiêu của người
dân (chiếm gần 40% chi tiêu của người dân trong tông chi tiêu), đó là nhóm hàng
lương thực, thực phẩm. Đối với thị trường thế giới, xuất khấu nông sản của Việt
Nam tăng nhanh cả về sản lượng và kim ngạch, tốc độ tăng trưởng bình quân kim
ngạch xuất khẩu trong nhiều năm trở lại đây đạt mức 22-23% năm, kim ngạch
xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm thủy sản chính ngạch năm 2010 và 2011 đã đạt
15-20 tỷ USD, chiếm 20-21% tổng kimn ngạch xuất khẩu cả nước. Một số mặt
hàng nông sản chủ lực của Việt Nam có thị phần lớn và chiếm vị trí dẫn đầu trong
các nước xuất khấu nông sản như: gạo (đứng thứ 2 thế giới), hồ tiêu (đứng thứ
nhất thế giới), hạt điều (đứng thứ 2 thế giới), cà phê (chiếm 40% thị phần).
III.

THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA XUẤT KHẤU NÔNG SẢN
Ở VIỆT NAM.

1. Thuận lợi.

a. về đất đai.

Việt Nam có diện tích 330.363 km2, tiềm năng đất nông nghiệp của là 10 -

11, 157 triệu ha với 8 triệu hecta (ha) cây trồng hàng năm (đất trồng lúa khoảng 5,4

triệu ha, 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm). Hiện nay, nước ta mới chỉ sử dụng 65%
quỹ đất nông nghiệp. Trong đó 5,6 triệu ha cho cây trồng hàng năm, cây lâu năm



0, 86 triệu ha, 0,33 triệu ha đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha mặt nước.Việt Nam có

một diện tích lớn đất bị xói mòn, thoái hoá. Cụ thế: Vùng Bắc Bộ 5% tống diện
tích, Khu 4 cũ 35% tống diện tích, Đồng Bằng Nam Bộ 34% tống diện tích. Neu
đầu tư cải tạo diện tích này sẽ rất thuận tiện cho việc phát triển cây công nghiệp
dài ngày như cao su, hạt tiêu, cà phêế

Vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long có diện tích


đất đưa vào sử dụng khá cao lần lượt là 93% và 82% tổng diện tích của cả vùng
nhưng hệ số sử dụng đất mới chỉ đạt 1,5 lần do tình trạng thâm canh trong nông
nghiệp còn lạc hậu với sự yếu kém về hệ thống thuỷ lợi. Do vậy nước ta vẫn có
thể khai thác được vùng đồng bằng màu mỡ này nếu biết đầu tư phát triến sản
xuất theo chiều sâu. Đặc biệt những vùng đất còn hoang hoá ở các vùng khác
cũng cần tích cực đầu tư tạo tiềm lực cho sản xuất nông nghiệp.
b. về khí hậu.

Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu sắc của chế độ
gió mùa Châu Á. Khí hậu Việt Nam rất đa dạng, phân biệt rõ rệt từ miền Bắc vào
miền Nam. Miền Bắc có mùa đông lạnh. Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng
Bằng Sông Cửu Long có khí hậu kiểu Nam Á. Đây là điều kiện khí hậu thuận lợi
để đa dạng hoá các loại cây trồng. Ngoài ra tiềm năng nhiệt độ, độ ấm và gió dồi
dào phân bố khá đồng đều trên phạm vi cả nước. Tiềm năng nhiệt của nước ta
được xếp vào dạng giàu có với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, độ ẩm
tương đối trong năm lớn hơn 80%, lượng mưa khoảng 1800 - 2000 mm/năm là
điều kiện lý tưởng cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát triểnế


c. về vị trí địa lý và cảng khấu.

Từ trước đến nay, một khối lượng lớn hàng nông sản xuất khẩu của Việt
Nam được vận chuyển bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế
bằng đường sắt, đường ống và đường hàng không thì phương thức vận tải này có
nhiều thuận lợi hơn, thông dụng hơn và có mức cước phí rẻ hơn.

Trong thực tiễn chuyên chở bằng đường biển, các doanh nghiệp Việt Nam
có nhiều thuận lợi nối bật. Đường biến Việt Nam có hình chữ “S”, hệ thống cảng
biển nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế trải dọc từ Bắc, Trung, Nam,
có thể hành trình theo tất cả các chuyến đi Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Thái Bình
Dương, Trung cận Đông, Châu Phi, Châu Mỹ. Một số cảng có khả năng bốc xếp
hàng xuống tàu lớn, có hệ thống kho bảo quản tốt, lại gần đường hàng hải quốc tế.


×