Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

ĐỘT PHÁ THỂ CHẾ ĐỂ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.64 KB, 12 trang )

ĐỘT PHÁ THỂ CHẾ ĐỂ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
TS. Nguyễn Minh Phong
Phó Vụ trưởng - Phó Ban tuyên truyền lý luận - Báo Nhân Dân

Đột phá về thể chế là một trong ba đột phá chiến lược, mang tính
quyết định thành công trong phát triển kinh tế-xã hội đất nước thời kỳ
2011-2020 được khẳng định tại Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đồng thời, nhiều định hướng lớn, quan trọng về tiếp tục hoàn
thiện thể chế đã được cụ thể hóa và làm sâu sắc hơn trong các Kết luận
và Nghị quyết của Bộ Chính trị tại 8 kỳ Hội nghị TW khóa XI.
Kết luận Hội nghị TW 6, khóa XI, ngày 15/10/2012, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Nhiều vấn đề đã có chủ trương, chính
sách và đã được tiến hành từ lâu, nhưng đến nay, bên cạnh những kết
quả đạt được, vẫn còn không ít những hạn chế, yếu kém, cần phải tiếp
tục được thực hiện ở tầm mức mới với những quyết sách mới, nhằm đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển
kinh tế tri thức, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Trong thông điệp đầu năm mới 2014 đăng tải rộng rãi trên các
phương tiện truyền thông: “Hoàn thiện thể chế, phát huy quyền làm
chủ của Nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2014, tạo nền
tảng phát triển nhanh và bền vững”, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng
khẳng định động lực mà những cải cách trước đây tạo ra đã không còn
đủ mạnh và đất nước cần có thêm động lực từ Đổi mới thể chế và phát
huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân, tạo lập thể chế chất lượng
cao và nền quản trị quốc gia hiện đại, để lấy lại đà tăng trưởng nhanh
và phát triển bền vững.
449



Định huớng trọng tâm đã có, quyết tâm chính trị đã đồng thuận
cao, thách thức còn nhiều, những cơ hội mới đang xuất hiện. Hy vọng
về một chu kỳ phát triển mới từ đột phá thể chế đang và sẽ đậm nét
dần…
I. Nhận diện sự bất cập thể chế về doanh nghiệp
Theo cách hiểu mở, thể chế gồm những giá trị nhận thức, luật định
và cơ chế, chế tài thực thi, cũng như con người, tổ chức gắn với hành vi
của chúng. Mỗi quốc gia và đối tượng quản lý nhà nước cần có thể chế
phù hợp với đặc điểm, trình độ và mục tiêu phát triển của mình. Một thể
chế nhà nước về doanh nghiệp phù hợp, hiệu quả khi làm giảm chi phí
giao dịch và hạn chế được xung đột, lợi ích nhóm, tham nhũng và tạo
sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan quyền lực, cũng như
phối hợp chặt chẽ với các thể chế khác (như thị trường) và các nhóm
xã hội (như tư nhân, cộng đồng,..) trong quá trình xây dựng, điều chỉnh
và thực hiện các chiến lược, chính sách vì mục tiêu phát triển lựa chọn.
Ngược lại, một thể chế nhà nước về doanh nghiệp được coi là thất bại
khi làm ngưng trệ, sử dụng sai lệch hoặc lãng phí các nguồn lực doanh
nghiệp xã hội, tạo ra những thực thể doanh nghiệp yếu ớt, cô lập, rời rạc
và thiếu sức cạnh tranh, trì trệ trước các biến động thị trường, với hàng
loạt hệ lụy tiêu cực kèm theo khác.
Quá trình thay đổi thể chế thường diễn ra theo 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Bao gồm những bước tiến nhỏ, tích tụ và tiệm tiến
về lượng những thay đổi thể chế bộ phận thích hợp, từ đơn giản đến
phức tạp dần, từ bề rộng sang bề sâu, từ hình thức tới thực chất hơn, từ
đơn lẻ tới hệ thống…
- Giai doạn 2: Vào thời điểm ở cuối giai đoạn các tích tụ điều
chỉnh trên đạt tới ngưỡng và đủ xung lực tạo bùng nổ thể chế về chất,
hoặc trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, được thúc đẩy nhanh hơn bởi cộng
hưởng các sức ép từ điều kiện khách quan và ý chí mãnh liệt chủ quan,
tạo ra những cải cách mang tính cấp tiến, đột phá, bước ngoặt, cách

mạng. Những thể chế mới tạo ra, nếu phù hợp có thể đem lại cả sự lo
450


ngại rủi ro, cũng như sự kỳ vọng lớn lao vào những lợi ích tiềm năng có
được của chu kỳ phát triển mới.
Hành trình 30 năm đổi mới Việt Nam đã có nhiều hay đổi cơ bản
về thể chế, như thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, quyền tự do
kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh
tế, mở “room” ngày càng rộng hơn trong thu hút đầu tư nước ngoài,
tuân thủ ngày càng đầy đủ hơn các cam kết hội nhập quốc tê và nhiều
thể chế kinh tế mới ngày càng mang tính thị truờng hơn, đã góp phần
cải thiện môi trưòng kinh doanh và tạo động lực và nền tảng ban đầu
quan trọng cho sự phát triển doanh nghiệp nói riêng, kinh tế Việt Nam
nói chung với nhiều thành tựu đáng ghi nhận và được đánh giá khá cao,
cả trong và ngoài nước...
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, sự bất cập về phân định thành phần
kinh tế đã gây ra nhiều định kiến xã hội dai dẳng và sự phân biệt đối xử
đối giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cả trong nhận
thức, chính sách, tâm lý và hành động; thậm chí, gây tâm lý e ngại, làm
chậm quá trình sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa, giải thể, phá sản các
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoặc các hợp tác xã (HTX) thua lỗ, bất
lợi cho sự đồng thuận xã hội và phát huy hiệu quả nội lực đất nước. Việc
cải cách DNNN chậm có một nguyên nhân quan trọng khác là nhà nước
vẫn duy trì những chính sách ưu đãi đối với DNNN. Nhận thức về vai
trò, vị trí của DNNN và yêu cầu sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả DNNN còn khác nhau. Nỗi ám ảnh về “thành phần” làm cho
doanh nghiệp và cả những người thực thi công vụ cũng e dè, ngần ngại
mỗi khi phải giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích của khu vực
tư nhân. Một bộ phận doanh nhân “vừa làm, vừa lo”, làm ăn kiểu “chụp

giật” hoặc “lách luật”, che giấu vốn, doanh thu, lợi nhuận. Ngược lại,
một số doanh nghiệp tư nhân (DNTN) thì tự “thổi phồng”, khai vống
vốn điều lệ và năng lực, kinh nghiệm để đánh bóng với hy vọng đủ tiêu
chuẩn dự thầu và có lợi thế trong cạnh tranh, thắng thầu với các DNNN
và doanh nghiệp có vốn FDI. Đa số DNTN tập trung nhiều vào những
451


ngành nghề đòi hỏi vốn ít, thời gian thu hồi vốn nhanh; tính liên kết
cộng đồng còn yếu, kém bền vững. Các quan hệ hợp tác, liên kết, hỗ trợ
nhau mới chủ yếu “khép kín” trong từng thành phần kinh tế v.v... Ngoài
ra, các DNTN còn gặp những khó khăn hơn so với các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác về tiếp cận những điều kiện đất đai,
mặt bằng sản xuất kinh doanh. Nhiều địa phương còn tình trạng thiếu
đất cho các doanh nghiệp, trong khi tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp,
khu chế xuất tập trung còn thấp.
Hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp còn yếu, chưa thu hút
được nhiều hội viên, do thiếu kinh nghiệm, điều kiện hoạt động còn hạn
chế, và thiếu sự quan tâm đồng bộ của các cấp ngành liên quan.
Công tác quản lý nhà nước về phát triển đồng bộ các thị trường và
trợ giúp các thể chế thị trường còn lúng túng, hạn chế, đặc biệt, về cung
cấp thông tin, tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực, bảo lãnh tín dụng và hỗ
trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Định kiến và nhiều thủ tục
chưa hợp lý đã gây khó khăn và tăng chi phí trong việc tiếp cận nguồn tín
dụng chính thức. Khung pháp lý cho việc hình thành thị trường lao động
vẫn chưa hoàn chỉnh, chưa tạo được cân bằng quyền lợi giữa người lao
động và người sử dụng lao động. Nhiều quy định pháp lý về bản quyền,
về phát minh và chuyển giao công nghệ vẫn chưa đi vào cuộc sống, việc
xử lý vi phạm chưa nghiêm minh. Chưa có những quy định pháp lý tạo
điều kiện cho các DNTN tiếp cận với nguồn ngân sách nhà nước cấp cho

nghiên cứu và triển khai. Thiếu những quy định và chế tài hiệu quả bảo
vệ cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, bảo vệ người tiêu dùng trong xã
hội. Thiếu những quy định và chính sách cần thiết tạo điều kiện cho các
DNTN xâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế, làm giảm lợi thế kinh
doanh, gây thiệt thòi cho cả bản thân doanh nghiệp và cộng đồng, khiến
nền kinh tế phát triển dưới mức tiềm năng.
Những vấn đề tồn tại nêu trên có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu
do tư tưởng, quan điểm về sự phân biệt giữa các thành phần và định kiến
với khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa được đổi mới một cách cơ bản;
452


chức năng và tổ chức của bộ máy Nhà nước, nhất là trình độ và trách
nhiệm của đội ngũ công chức chưa đáp ứng được yêu cầu mới, cũng
như những đòi hỏi chính đáng của doanh nghiệp. Cả ở cấp độ Trung
ương và địa phương, một số chủ trương chưa đi liền với kế hoạch, cơ
chế, trách nhiệm triển khai cụ thể, kịp thời, thậm chí được thực hiện một
cách hình thức, tắc trách, nửa vời. Chưa xử lý hài hoà và hiệu quả một
số vấn đề về nội dung, phương thức, mức độ quản lý nhà nước đối với
các thành phần kinh tế...
II. Một số yêu cầu và đột phá thể chế để phát triển các doanh
nghiệp
Thứ nhất, ưu tiên đột phá về chuẩn giá trị (vĩ mô và vi mô); đột
phá về cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia (lãnh thổ, tài nguyên, môi trường,
kinh tế, con người, lòng tin và truyền thống tốt đẹp…); và đột phá về
công tác cán bộ.
Bối cảnh chuyển đổi, phát triển và hội nhập quốc tế trong thời kỳ
mới đòi hỏi phải quan tâm và đẩy nhanh hơn việc xây dựng và hoàn
thiện các chuẩn giá trị chuẩn quốc gia cần thiết cả về lý luận, chính trị,
luật pháp và đạo đức xã hội tạo định hướng phát triển, đo lường đúngsai và tạo đồng thuận cao cả trong và ngoài nước, giảm thiểu những lệch

lạc, tiêu cực cả vĩ mô và vi mô. Đột phá về cơ chế bảo vệ lợi ích quốc
gia và cơ chế cán bộ đòi hỏi tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các cấu trúc
thể chế, hệ thống chính trị, bộ máy quản lý, đặc biệt là tiêu chuẩn và
quy trình công tác cán bộ, khắc phục tình trạng bổ nhiệm cán bộ đúng
quy trình đúng, nhưng không bảo đảm chất lượng với những hệ luỵ tiêu
cực to lớn và lâu dài cho xã hội; nâng cao tính thuợng tôn pháp luật,
trách nhiệm giải trình, năng lực, hiệu lực và và chất lượng quản lý nhà
nước, phát triển các thể chế thị truờng tiên tiến và hiệu năng cao, tăng
cuờng giám sát xã hội, bảo đảm an ninh, an toàn kinh tế-tài chính và
kiểm soát tham nhũng, hạn chế lối hành xử gắn với lợi ích nhóm và tư
duy nhiệm kỳ, thực hiện tốt các đề án tái cơ cấu, nhất là tái cơ cấu tổng
thể nền kinh tế và phát triển đồng bộ các thể chế thị trường, góp phần
453


giải phóng động lực, củng cố lòng tin, nâng cao năng lực cạnh tranh và
đẩy mạnh phát triển bền vững…
Thứ hai, đồng bộ xóa bỏ những thể chế kìm hãm doanh nghiệp,
điều chỉnh những thể chế làm lệch lạc, lãng phí các nguồn lực doanh
nghiệp, đồng thời lấp đầy những “khoảng trống thể chế” cần thiết để
hỗ trợ doanh nghiệp phát triển lành mạnh, hiệu quả.
Phân biệt rõ các khái niệm sở hữu, khu vực kinh tế và loại hình
doanh nghiệp, trong đó thay cụm từ “thành phần kinh tế” bằng cụm từ
“khu vực kinh tế” hoặc “loại hình kinh tế” và giảm sự phân loại từ 5
thành phần xuống còn 3 khu vực, gồm  KTNN, kinh tế ngoài nhà nước
và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tương ứng với trong thống kê nhà
nước các cấp hiện nay. Điều này là cần thiết để loại bỏ những thành
phần kinh tế “rỗng”, không có nội hàm, tiêu chí, không được đưa vào
thống kê nhà nước và cũng không được điều chỉnh bởi các quy định
pháp lý có liên quan.

Đặc biệt, cần khắc phục sự định kiến về kinh tế tư nhân, cũng như
những định kiến về kinh tế nhà nước và DNNN, hiểu đúng về vai trò,
chức năng, nhiệm vụ và cơ chế quản lý DNNN. Coi trọng cả hạn chế
độc quyền nhà nước (nhất là trong lĩnh vực kinh doanh vì lợi nhuận),
cũng như kiểm soát độc quyền tư nhân (đang biểu hiện khá rõ trong
kinh doanh các sản phẩm sữa, thuốc chữa bệnh, mỹ phẩm, nước uống
có ga và nhiều sản phẩm, dịch vụ khác), nhằm ổn định và cạnh tranh
lành mạnh, đúng quy trình và yêu cầu của kinh tế thị trường có điều
tiết vĩ mô nhà nước. Tạo lập và duy trì ổn định các điều kiện thể chế và
những yếu tố khách quan có liên quan để đảm bảo sự phát triển và quản
lý phát triển các thành phần kinh tế trên cơ sở ngày càng tự do hóa, bình
đẳng hóa và phù hợp với cơ chế thị trường, cũng như các cam kết hội
nhập quốc tế và thông lệ thế giới, tăng cường sự hợp tác, gắn kết giữa
các doanh nghiệp và thành phần kinh tế, cũng như tạo sự đồng thuận
xã hội cao

454


Thứ ba, đột phá về năng lực xây dựng và chất luợng văn bản pháp
lý doanh nghiệp.
Trong quá trình chuyển đổi và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã, đang
và sẽ tiếp tục soạn thảo, thông qua và chỉnh lý các văn bản tạo cơ sở
pháp lý đồng bộ, phù hợp với các nguyên tắc thị truờng, yêu cầu và cam
kết hội nhập, không ngừng cải thiện môi truờng kinh doanh cho doanh
nghiệp và từng bước xây dựng, củng cố nhà nước pháp quyền XHCN,
đáp ứng các mục tiêu quản lý và phát triển đất nước trong tình hình
mới... Các cơ quan chức năng ở các cấp quản lý nhà nước, các Bộ, ngành
và địa phương có liên quan đã có nhiều cố gắng bảo đảm chất lượng văn
bản pháp lý do minh soạn thảo; quá trình kiểm tra, xử lý các văn bản trái

pháp luật cũng ngày càng đi vào nề nếp, góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật của nước ta, được dư luận ghi nhận, hoan nghênh.
Tuy nhiên, theo Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Cục
KTVB), Bộ Tư pháp, chỉ trong 10 năm (2003-2013), các cơ quan kiểm
tra văn bản cả nước đã tiếp nhận, kiểm tra trên 1,7 triệu văn bản, phát
hiện trên 50 nghìn văn bản sai trái (tức khoảng 3%) và đã xử lý ở các
mức độ khác nhau. Trong đó, Cục KTVB đã tiếp nhận, kiểm tra trên
27 nghìn văn bản, phát hiện trên 4,8 nghìn văn bản sai trái (tức khoảng
18%) và đã xử lý ở các mức độ khác nhau. Rõ ràng đây là con số có
sức cảnh báo cao về chất lượng soạn thảo văn bản pháp lý trong quản
lý nhà nước. Qua kiểm tra và cả trên thực tế cũng cho thấy, còn nhiều
hiện tuợng bất cập đa dạng trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp lý trong quản lý nhà nước. Trước hết, đó là sự vi
phạm quyền hạn, quy trình soạn thảo, thông qua văn bản pháp lý, khiến
ban hành một số quy định có nội dung không phù hợp thực tế, khó khả
thi hoặc thậm chí gây phản cảm. Ngoài ra, còn hiện tuợng các văn bản
hướng dẫn dưới luật có những nội dung không rõ ràng, thiếu cụ thể,
hoặc gây hiểu theo nhiều cách khác nhau, tạo khó khăn hoặc kẽ hở trục
lợi trong áp dụng; thậm chí, gây tình trạng “trên lỏng - dưới chặt”, luật
và chủ truơng trung uơng thì thông thoáng, văn bản huớng dẫn dưới
455


luật và vận dụng ở địa phuơng thì xiết chặt hơn… Ngược lại, ở một số
địa phuơng còn có một số quy định về ưu đãi khuyến khích đầu tư vượt
thẩm quyền và trái các quy định của Trung ương, tạo bất bình đẳng về
đầu tư, thất thu NSNN, mất kỷ luật, kỷ cương trong quản lý nhà nước
thống nhất.
Những bất cập trên đây, trực tiếp hay gián tiếp, ít nhiều đều tạo hệ
luỵ tiêu cực, giảm hiệu lực, hiệu quả của chính văn bản quy định đó,

đồng thời làm giảm hiệu lực, hiệu quả, uy tín trong quản lý nhà nước,
giảm sức cạnh tranh của môi truờng đầu tư cả nước hoặc địa phuơng,
vi phạm quyền lợi nhà đầu tư, doanh nghiệp và quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân - đối tuợng quản lý nhà nước…
Để nâng cao chất lượng các văn bản luật và quy phạm pháp lý các
cấp trong quản lý nhà nước, thực tế cho thấy, trước hết, cần bảo đảm
việc hoàn thiện và tuân thủ đúng các quy định phân cấp quản lý nhà
nước; chấp hành nghiêm túc quy trình soạn thảo, lấy ý kiến, phản biện,
thẩm định, kiểm tra và thông qua các văn bản quy phạm pháp lý; tăng
cuờng đào tạo, chấn chỉnh và nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ
chuyên môn, tính chuyên nghiệp, kỷ luật công vụ và trách nhiệm cá
nhân của đội ngũ nhân lực trực tiếp tham gia soạn thảo và thực thi văn
bản pháp lý. Đồng thời, nhận diện và ngăn chặn các biểu hiện lạm dụng
thẩm quyền, “cài cắm quy định” vì lợi ích cục bộ địa phương hoặc các
biểu hiện tư duy nhiệm kỳ trong quá trình xây dựng và thực thi pháp
luật. Bên cạnh đó, cũng cần phát triển hệ thống thông tin dữ liệu và các
đuờng dây “nóng” phục vụ soạn thảo và thẩm định, phản biện các văn
bản va quy phạm pháp lý TW và địa phuơng nói riêng, hệ thống pháp
luật nhà nước nói chung.
Thứ tư, đột phá về triển khai và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực
tế các luật định liên quan về doanh nghiệp chung, xúc tiến nhanh hơn,
triệt để hơn việc tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức
năng quản lý sản xuất kinh doanh, chức năng hành chính với chức năng
dịch vụ công, hoạt động kinh doanh vị lợi nhuận với các hoạt động
456


công ích, phi lợi nhuận; xây dựng một nền hành chính hiệu quả và minh
bạch, phân định và làm rõ các quy chế pháp lý khác nhau đối với các
loại cơ quan, phân rõ quyền hạn và trách nhiệm của sở, ban, ngành, phối

hợp với các bộ liên quan, tránh tình trạng quản lý chồng chéo, đùn đẩy
công việc và trách nhiệm, “tranh công - đổ lỗi” giữa các đơn vị, cá nhân
CBCNVC; giảm bớt quyền của cơ quan và công chức nhà nước từ trung
ương đến địa phương, nhất là quyền “thẩm định”, “phê duyệt”, “chấp
thuận”, quyền cho phép và cấp phép kinh doanh để chuyển mạnh sang
hướng dẫn, kiểm tra, xử lý việc thực thi pháp luật, dánh giá và hoàn
thiện chính sách. Nâng cao năng lực đi đôi với phải làm rõ được trách
nhiệm của công chức trong thi hành công vụ. Đối với công chức và cơ
quan nhà nước, pháp luật phải quy định không chỉ họ được “làm gì”,
“làm ở đâu”, mà cả làm “như thế nào”; đồng thời, có thể chế thường
xuyên giám sát và đánh giá công việc của họ.
Bên cạnh đó, cần khắc phục tính bình đẳng hình thức và thiếu căn
cứ kinh tế trong tổ chức HTX; cần hài hòa lợi ích giữa các thành viên,
cũng như giữa kinh tế với an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ
cộng đồng; thực hiện đồng bộ giải pháp, phát huy sự năng động của mỗi
đơn vị, thành viên, gắn quá trình phát triển HTX với quá trình CNH,
HĐH đất nước và quá trình xây dựng nông thôn mới, tránh thành lập
HTX chạy theo hình thức, phong trào, quản lý theo kiểu hành chính-bao
cấp hoặc để mặc HTX chìm nổi theo thị trường. Hỗ trợ các HTX, Liên
hiệp HTX trong hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu,
nhãn hiệu-xuất xứ hàng hóa, thành lập cổng thông tin điện tử, sàn giao
dịch thương mại điện tử và các trung tâm trưng bày, bán sản phẩm; tạo
điều kiện để HTX được tham gia các chương trình kinh tế - xã hội tại
địa phương, nhất là các dịch vụ mà thành viên đang có nhu cầu, nhưng
không biến HTX trở thành mô hình tự cung tự cấp; nâng cao kiến thức
về thị trường, thông tin, xây dựng thương hiệu, hội nhập kinh tế quốc
tế và kỹ năng quản lý HTX theo các tiêu chuẩn mới; triển khai chế độ
bảo hiểm xã hội đối với cán bộ HTX lâu năm; tổ chức, giới thiệu, phổ
biến các phong trào thi đua và các điển hình tiên tiến; đẩy mạnh chính
457



sách hỗ trợ, ưu đãi về tài chính-tín dụng, đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng, về giao đất, cho thuê đất, vốn, giống và sản xuất - chế biến hàng
xuất khẩu, ứng dụng công nghệ cao cho nông hộ, HTX và doanh nghiệp
nông nghiệp phát triển sản phẩm chủ lực đã được phê duyệt, tập trung
vào khâu tiêu thụ các sản phẩm như lúa, cà phê, cao su, tôm, cá, cây ăn
quả và các sản phẩm khác ở khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng
nông thôn khó khăn…
Đặt khu vực kinh tế nhà nước ngày càng bình đẳng với các khu vực
kinh tế ngoài Nhà nước về pháp luật và điều kiện tiếp cận, sử dụng các
yếu tố đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp trong sự cạnh tranh lành mạnh
theo pháp luật và nguyên tắc thị trường; xây dựng, triển khai các công
cụ quản lý và hỗ trợ mới đối với khu vực KTTN, chuyển từ mục đích
“quản chặt doanh nghiệp” sang “hỗ trợ doanh nghiệp” bằng định hướng
chính sách khuyến khích, thông tin và phát triển ổn định thị trường tiêu
thụ theo ngành, sản phẩm, địa bàn chứ không theo từng doanh nghiệp,
dự án cụ thể hoặc tính chất sở hữu.
Xây dựng hệ thống lý lịch tư pháp công dân, hệ thống thông tin
doanh nghiệp, hệ thống đăng ký thế chấp, cầm cố tài sản… được nối
mạng nhằm tạo thuận lợi cho sản xuất - kinh doanh, cũng như quản lý
nhà nước và phòng tránh, giảm thiểu các rủi ro tín dụng, kinh doanh, các
hành vi vi phạm sở hữu thương hiệu, sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp
và các vi phạm bản quyền, an ninh, trật tự an toàn văn minh thương mại
và thị trường khác. Tăng cường phân cấp quản lý kinh tế - xã hội cho các
cấp chính quyền địa phương theo phương châm việc nào mà cấp nào,
đơn vị nào làm nhanh, hiệu quả nhất thì giao cho cấp đó, đơn vị đó đảm
nhận. Thúc đẩy CCHC nhằm thống nhất, đơn giản hoá và hiện đại hoá
các quy trình, thủ tục, công nghệ và tiêu chuẩn quản lý doanh nghiệp
ngày càng tiếp cận với yêu cầu và trình độ quốc tế. Đổi mới căn bản công

tác cán bộ và quản lý DNNN theo hướng thi tuyển, thuê giám đốc và các
chức danh quản lý khác làm việc theo hợp đồng có điều kiện. Gắn chặt
và cụ thể hoá những yêu cầu về trách nhiệm, nghĩa vụ với quyền hạn và
quyền lợi của giám đốc và các chức danh quản lý DNNN.
458


Cải cách, tăng cường năng lực và hiệu lực của các định chế và
chế tài, kinh tế, hành chính, cũng như bộ máy tư pháp quốc gia và
địa phương nhằm bảo vệ có hiệu quả lợi ích Nhà nước, lợi ích doanh
nghiệp, doanh nhân và người lao động, phát triển hệ thống an sinh xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm cho doanh nghiệp, bảo hiểm cho
nông nghiệp, nông dân và hệ thống phòng ngừa rủi ro, cảnh báo sớm
các nguy cơ và giải quyết kịp thời các chấn động kinh tế - xã hội do quá
trình thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế gây
ra. Bảo vệ, khen thưởng kịp thời và tôn vinh thích đáng các đơn vị và cá
nhân có thành tích tiêu biểu trong quản lý và phát triển doanh nghiệp.
Đặc biệt, phát triển và tăng cường vai trò các hiệp hội ngành nghề
trong xây dựng, ban hành các quy định và hỗ trợ quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp. Phát triển hệ thống thông tin doanh nghiệp và hệ
thống tiêu thức, tổ chức dịch vụ đánh giá xếp hạng tín nhiệm doanh
nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế; tăng cường năng lực phản
ứng chính sách thích nghi nhanh chóng, hiệu quả với các biến động thị
trường và bối cảnh chung trong nước và quốc tế, lấy sự phát triển nhanh
và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế - xã
hội chung, sự cải thiện chất lượng sống mọi mặt của nhân dân và phát
triển bền vững một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng và văn minh” làm tiêu chuẩn đánh giá tính đúng đắn của
những đột phá thể chế được lựa chọn...


459


Tài liệu tham khảo
Loan, T.T.K, và Hùng, B.N. (2009). “Tác động của các yếu tố quản
lý đến năng suất doanh nghiệp,” Tạp chí Phát triển Khoa học và Công
nghệ, Tập 12, Số 15-2009.
Lý, P.T.M. (2011). “Phân tích tác động của các nhân tố ảnh hưởng
đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thừa
Thiên Huế,” Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Số 2(43).
Minh, N.K. (2005). “Phân tích so sánh về hiệu quả sản xuất của
các ngành tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh,” Diễn đàn Phát triển
Việt nam (VDF).
Ngu, V.Q (2003). “Technical Efficiency of Industrial State-Owned
Enterprises in Vietnam,” Asian Economic Journal, Vol. 17, No. 1.
Nghi, N.Q., và Nam, M.V. (2011). “Các nhân tố ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
thành phố Cần Thơ,” Tạp chí Khoa học 2011:19b 122-129.
Phuc, N., and Lin Crase (2011). “Vietnam’s state-owned enterprise
reform An empirical assessment in the international multimodal
transport sector from the Williamson’s TCE perspective,” Asia Pacific
Journal of Marketing and Logistics, Vol. 23, No. 3, pp. 411-422.

460



×