Tải bản đầy đủ (.pdf) (191 trang)

LÂM NGHIỆP CỘNG ĐỒNG Ở MIỀN TRUNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 191 trang )

DƯƠNG VIẾT TÌNH - TRẦN HỮU NGHỊ

LÂM NGHIỆP CỘNG ĐỒNG
Ở MIỀN TRUNG VIỆT NAM

NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
Hà Nội - 2012

1

2


LỜI MỞ ĐẦU
Diện tích rừng ở nước ta ngày càng bị thu hẹp bởi nhiều
nguyên nhân: Sự gia tăng dân số, đời sống người dân còn khó
khăn, trình độ dân trí thấp, các chính sách quản lý rừng còn
nhiều bất cập, công tác khuyến lâm chưa được quan tâm, đặc
biệt sự phối hợp của các bên có liên quan trong quản lý, bảo vệ
và phát triển rừng còn rất hạn chế.
Hơn nữa ở vùng nông thôn miền núi, đời sống của các cộng
đồng còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu
số. Từ đó dẫn đến vòng luẩn quẩn trong cộng đồng là nghèo đói
buộc họ phải khai thác bất hợp lí tài nguyên rừng, tài nguyên
rừng bị suy thoái dẫn đến môi trường sinh thái mất cân bằng như
hạn hán, bão lụt, nguồn tài nguyên đa dạng sinh học suy giảm
nghiêm trọng do vậy nền kinh tế-xã hội của cộng đồng bất ổn,
nghèo đói lại tái diễn.
Trước những khó khăn và thách thức đó, Đảng và Nhà nước
ta đã đề ra nhiều chủ trương nhằm xã hội hoá nghề rừng như quá
trình chuyển từ quản lý lâm nghiệp tập trung sang quản lý lâm


nghiệp phi tập trung, tăng cường sự tham gia của cộng đồng và
làm rõ trách nhiệm các bên có liên quan trong quản lý nguồn tài
nguyên rừng và đất rừng.
Trong quá trình thay đổi cách tiếp cận về quản lý tài nguyên
rừng từ quản lý tập trung sang quản lý phi tập trung theo phương
thức lâm nghiệp xã hội, trong đó đặc biệt chú trọng đến vai trò
của các cộng đồng trong việc tham gia quản lý nguồn tài nguyên
rừng, một nguồn tài nguyên mà họ thường tiếp cận và khai thác
cho nhu cầu sống.
3

Thuật ngữ Lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) ra đời và hoạt
động lâm nghiệp cộng đồng có một vai trò rất quan trọng trong
quản lý nguồn tài nguyên rừng nói riêng và nguồn tài nguyên
thiên nhiên nói chung. Nói cách khác quản lý nguồn tài nguyên
rừng và đất rừng dựa vào cộng đồng là một phương thức tiếp
cận mới trong quản lý nguồn tài nguyên.
Khái niệm Lâm nghiệp cộng đồng đang được nhìn dưới
nhiều góc độ khác nhau của các nhà khoa học lâm nghiệp và xã
hội học ở các nước khác nhau, nó phụ thuộc vào thể chế quản lý,
quyền sở hữu nguồn tài nguyên cũng như nhận thức của các bên
có liên quan đến quản lý nguồn tài nguyên rừng và đất rừng.
Nhiều chương trình nghiên cứu về Lâm nghiệp xã hội và
lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam đã đưa ra khái niệm Lâm
nghiệp cộng là phương thức quản lý nguồn tài nguyên rừng và
đất rừng của cộng đồng dưới sự hỗ trợ của các ban ngành có bên
liên quan từ Trung ương đến địa phương nhằm quản lý bền vững
nguồn tài nguyên rừng giao cho cộng đồng quản lý.
Hoạt động Lâm nghiệp cộng đồng là một quá trình từ quy
hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp đến sử dụng và quản

lý nguồn tài nguyên rừng, đất rừng có hiệu quả trên sự tham gia
tích cực của các cộng đồng. Tuy nhiên thực tế cho thấy năng lực
của cộng đồng và sự hỗ trợ của các bên có liên quan trong quản
lý rừng cộng đồng còn rất hạn chế. Vì vậy, tăng cường năng lực
cho cộng đồng và các bên liên quan về kiến thức Lâm nghiệp
cộng đồng là một hoạt động rất cần thiết để họ cùng quản lý tốt
nguồn tài nguyên rừng và đất rừng.
Thực tế hiện nay các tài liệu liên quan đến lâm nghiệp cộng
đồng còn rất tản mạn và hạn chế. Các tài liệu bằng tiếng nước
4


ngoài, các tài liệu dưới dạng hội thảo, người ta đề cập đến
LNCĐ dưới nhiều khía cạnh khác nhau như Kinh nghiệm quản
lý các loại rừng theo họ tộc, rừng thiêng, rừng ma....đã có từ lâu;
Giao đất giao rừng cho các cộng đồng quản lý từ các thập kỷ 70
-80 của Thế kỷ XX; Trong những năm gần đây Quy hoạch sử
dụng đất và giao đất lâm nghiệp cấp xã có sự tham gia; Quản lý
rừng cộng đồng/quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CFM), Quản
lý rừng bền vững (SFM) nhằm huy động các cộng đồng tham
gia quản lý rừng bền vững.
Để hệ thống hoá các nguồn tài liệu thành một tư liệu có hệ
thống về lâm nghiệp cộng đồng, một “Thuật ngữ” rất gần với
người dân trong các cộng đồng sống gần rừng. Xuất phát từ thực
tế đó chúng tôi đã biên soạn cuốn sách “Lâm nghiệp cộng đồng
ở miền Trung Việt Nam” nhằm làm tài liệu phục vụ cho công
tác khuyến nông khuyến lâm, tài liệu giảng dạy và học tập cho
sinh viên các ngành lâm nghiệp và các ngành có liên quan (quản
lý đất đai, phát triển nông thôn, quản lý môi trường….) và tài
liệu tham khảo cho một số ngành khác trong quá trình thực hiện

hoạt động tập huấn.

tài nguyên rừng và đất rừng được giao. Cấu trúc cơ bản của
cuốn sách gồm các chương cơ bản như sau:
Chương 1: Các khái niệm cơ bản về lâm nghiệp cộng đồng
Chương 2: Giao đất giao rừng cho cộng đồng phát triển
trồng rừng
Chương 3: Cộng đồng tham gia bảo vệ rừng sau giao đất
giao rừng
Chương 4: Phân tích xung đột và chia sẻ lợi ích trong quản
lý rừng cộng đồng
Chương 5: Đánh giá sự thay đổi tài nguyên rừng giao cho
cộng đồng
Trong quá trình viết cuốn sách này không thể tránh được
thiếu sót rất mong được sự đóng góp của các đồng nghiệp và
bạn đọc, chúng tôi xin chân thành cảm ơn.
Tác giả

Mục tiêu của cuốn sách này nhằm:
(1). Hỗ trợ cho người đọc, sinh viên hiểu biết về các khái
niệm và nội dung cơ bản về lâm nghiệp cộng đồng hay quản lý
rừng dựa vào cộng đồng
(2) Tạo cơ hội để người đọc và sinh viên phân tích các hoạt
động liên quan đến quản lý nguồn tài nguyên rừng dựa vào lâm
nghiệp cộng đồng
(3) Áp dụng các kiến thức, kỹ năng đã học được để có thái
độ tích cực trong quá trình hỗ trợ cộng đồng quản lý tốt nguồn
5

6



1.1.2. Các khái niệm về lâm nghiệp Cộng đồng

Chương 1
CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
VỀ LÂM NGHIỆP CỘNG ĐỒNG
1.1. Khái niệm về lâm nghiệp cộng đồng
1.1.1. Các khái niệm về Cộng đồng
Cộng đồng trong khái niệm quản lý rừng cộng đồng
(QLRCĐ), được giới hạn là tập hợp của các cá nhân trong
một thôn bản gần rừng gắn bó chặt chẽ với nhau qua hoạt
động sản xuất, sinh hoạt và đời sống văn hoá xã hội (Nguồn
FAO, 2000).
“Cộng đồng bao gồm toàn thể những người sống trong một
xã hội có những đặc điểm giống nhau và có mối quan hệ gắn bó
chặt chẽ với nhau” (N.H. Quân, 2000)
Các loại hình cộng đồng:
-

-

-

Cộng đồng các dân tộc: nước ta có 54 dân tộc, mỗi cộng
đồng dân tộc đều có những đặc điểm riêng về mặt văn
hoá, tổ chức xã hội, tiếng nói tập quán truyền thống và
hệ thống sản xuất.
Cộng đồng làng bản: Hiện nay cả nước có khoảng
50.000 làng, bản tập hợp lại trong khoảng gần 9.000 xã

được phân bố trên nhiều vùng sinh thái khác nhau.
Các cộng đồng xã hội: Như các hội đoàn, cộng đồng
Tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam sống ở nước
ngoài....
7

Lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) là những hoạt động không
chỉ giới hạn trong việc trồng cây rừng ở trang trại, khu nhà ở
hay ven đường, mà còn đề cập đến cả tập quán du canh, việc sử
dụng và quản lý rừng tự nhiên, việc cung cấp các sản phẩm lâm
sản từ rừng tự nhiên, từ rừng trồng hay nông lâm kết hợp. Lâm
nghiệp cộng đồng cũng đề cập đến sự xác định nhu cầu của địa
phương, tăng cường quản lý sử dụng các sản phẩm lâm nghiệp
để cải thiện mức sống của người dân theo một phương thức bền
vững, đặc biệt là cải thiện điều kiện sống cho người nghèo
(FAO, 2000).
Theo Arnold (1992) Lâm nghiệp cộng đồng là một thuật
ngữ bao trùm hàng loạt các hoạt động gắn kết người dân nông
thôn với trồng rừng cũng như quản lý bảo vệ các sản phẩm và
lợi ích thu được từ rừng trồng và rừng tự nhiên.
Một số người quan niệm Lâm nghiệp cộng đồng có thể được
gọi là một bộ phận của lâm nghiệp xã hội (LNXH).
Lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) là một quá trình Nhà nước
giao rừng và đất rừng cho cộng đồng quản lý, bảo vệ và phát
triển rừng, đất rừng theo hướng bền vững và góp phần cải thiện
điều kiện sinh kế của cộng đồng ngày một tốt hơn.
Ở Việt Nam, khái niệm “cộng đồng” được dùng trong lĩnh
vực quản lý tài nguyên rừng có thể khái quát thành 2 loại quan
điểm chính sau đây:
Thứ nhất, “cộng đồng” là một tập hợp những người sống

gắn bó với nhau thành một xã hội nhỏ có những điểm tương
đồng về mặt văn hoá, kinh tế, xã hội truyền thống, phong tục
tập quán, có các quan hệ trong sản xuất và đời sống gắn bó với
8


nhau và thường có ranh giới không gian trong một thôn bản.
Theo quan niệm này, “cộng đồng” chính là “cộng đồng dân
cư thôn bản” (sau đây “thôn bản” được gọi chung là “thôn” cho
phù hợp với Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004).

nhận. Tuy nhiên, qua các cuộc hội thảo dường như mọi
người đều thống nhất ở Việt Nam có hai hình thức quản lý rừng
cộng đồng phù hợp với định nghĩa của FAO như sau:

Thứ hai, "cộng đồng" được dùng trong quản lý rừng chính
là nói đến các nhóm người có mối quan hệ gắn bó với nhau
trong sản xuất và đời sống. Như vậy, theo quan niệm này,
“cộng đồng” không phải chỉ là cộng đồng dân cư toàn thôn
mà còn bao gồm cả cộng đồng sắc tộc trong thôn; cộng đồng
các dòng họ hoặc các nhóm hộ trong thôn.

Đây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng
tham gia quản lý và ăn chia sản phẩm hoặc hưởng lợi từ
những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của cộng
đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng.

Mặc dù có những quan niệm khác nhau về cộng đồng,
nhưng phần lớn các ý kiến đều cho rằng “cộng đồng” được
dùng trong quản lý rừng chính là nói đến cộng đồng dân cư

thôn. Tại Điều 3 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 đã
định nghĩa “Cộng đồng dân cư thôn là toàn bộ các hộ gia
đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn,
phum, sóc hoặc đơn vị tương đương”. Như vậy, “cộng đồng”
được dùng trong tài liệu này là khái niệm cộng đồng được quy
định tại Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 (gọi tắt là
cộng đồng thôn).
1.1.3. Khái niệm về cộng đồng tham gia quản lý rừng
Cộng đồng tham gia quản lý rừng cũng có thể thay thế bằng
một từ chung nhất là lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ).
Theo FAO, LNCĐ là thuật ngữ bao trùm diễn tả hàng loạt
các hoạt động gắn người dân với rừng, cây, các sản phẩm của
rừng và việc phân chia lợi ích các sản phẩm này.
Hiện nay, ở Việt Nam có những quan điểm khác nhau về
LNCĐ và chưa có một định nghĩa chính thức nào được công
9

- Thứ nhất là quản lý rừng cộng đồng.

Rừng của cộng đồng là rừng của thôn đã được quản lý
theo truyền thống trước đây (quản lý theo các luật tục truyền
thống), rừng trồng của các hợp tác xã, rừng tự nhiên đã được
giao cho các hợp tác xã trước đây mà sau khi chuyển đổi hoặc
giải thể, hợp tác xã đã giao lại cho các xã hoặc các thôn quản
lý. Những diện tích rừng này có thể Nhà nước chưa cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã công nhận quyền sử
dụng đất của cộng đồng, song trên thực tế, mặc nhiên cộng
đồng đang tự tổ chức quản lý sử dụng và hưởng lợi từ những
khu rừng đó.
Như vậy, thực chất “quản lý rừng cộng đồng” là cộng đồng

dân cư thôn quản lý rừng thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền
sử dụng chung của cộng đồng, được hình thành chủ yếu thông
qua chính sách giao đất, giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn.
Tóm lại hình thức quản lý này bao gồm các đối tượng
chính sau: Cộng đồng trực tiếp quản lý những diện tích rừng
hoặc những đám cây gỗ của họ từ lâu đời. Cộng đồng trực tiếp
quản lý những khu rừng được Nhà nước giao. Các hoạt động
mang tính chất lâm nghiệp khác do cộng đồng tổ chức phục
vụ lợi ích trực tiếp cho cộng đồng.
10


Cũng cần nói thêm rằng theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
năm 2004, có quy định nếu cộng đồng được giao rừng tự nhiên
thì cộng đồng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở
hữu khu rừng đó và được thực hiện thông qua chính sách
hưởng lợi từ rừng, đương nhiên nếu cộng đồng quản lý rừng
trồng được hình thành bằng nguồn vốn tự có của mình thì
cộng đồng có quyền sở hữu khu rừng đó.
- Thứ hai là quản lý rừng dựa vào cộng đồng
Đây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng
không thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu chung của họ mà
thuộc quyền quản lý, sử dụng sở hữu của các tổ chức nhà
nước hoặc các thành phần kinh tế khác nhưng có quan hệ trực
tiếp đến đời sống, đến việc làm, thu hoạch sản phẩm, thu nhập
hay các lợi ích khác của cộng đồng.
Hình thức này có thể chia thành hai đối tượng:
- Rừng của hộ gia đình, cá nhân là thành viên trong cộng
đồng. Cộng đồng tham gia quản lý với tính chất hợp tác, hỗ trợ
lẫn nhau, chia sẻ lợi ích cùng nhau trên cơ sở tự nguyện nhằm

tạo thêm sức mạnh để bảo vệ rừng, hỗ trợ hoặc đổi công cho
nhau trong các hoạt động lâm nghiệp.
- Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ
chức nhà nước (các ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng, các
lâm trường, công ty lâm nghiệp nhà nước, các trạm trại…) và
các tổ chức tư nhân khác. Cộng đồng tham gia các hoạt động
lâm nghiệp như bảo vệ, khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh, phục hồi
rừng, trồng rừng với tư cách là người tham gia (làm thuê)
thông qua các hợp đồng khoán và hưởng lợi (chia sẽ lợi ích)
theo các cam kết trong hợp đồng.
11

Tại Hội thảo quốc gia “Những kinh nghiệm và tiềm năng của
quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam” tổ chức tại Hà Nội vào
tháng 6/2000, phần lớn các đại biểu đã thống nhất hai hình thức
quản lý trên đều thuộc hoạt động LNCĐ hay cộng đồng tham gia
quản lý tài nguyên rừng.
Từ sự phân tích trên cho thấy, LNCĐ và quản lý rừng cộng
đồng là hai khái niệm khác nhau về quy mô. Thuật ngữ quản
lý rừng cộng đồng được sử dụng với nghĩa hẹp hơn thuật
ngữ lâm nghiệp cộng đồng, thuật ngữ này được sử dụng khi
đề cập đến việc quản lý những khu rừng của một cộng đồng
dân cư, còn nói đến LNCĐ là diễn tả hàng loạt các hoạt động
quản lý gắn người dân trong cộng đồng v ớ i n gu ồ n t ài
nguyên rừng (gỗ, LSNG, khoáng sản, nguồn nước…) và việc
phân chia lợi ích từ tài nguyên rừng. Hay nói cách khác,
LNCĐ là một hình thức quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát
triển rừng do cộng đồng dân cư thôn thực hiện bao gồm cả
rừng của cộng đồng và rừng của các thành phần kinh tế khác.
Với cách hiểu như vậy nên chấp nhận LNCĐ bao gồm cả

quản lý rừng cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của cộng
đồng) và quản lý rừng dựa vào cộng đồng (cộng đồng tham
gia quản lý rừng của các chủ rừng khác). Khái niệm này vừa
phù hợp với định nghĩa của FAO vừa phát huy được nhiều
hơn sự đóng góp của cộng đồng vào quản lý, bảo vệ, xây
dựng và phát triển rừng.
1.1.4. Đặc điểm chủ yếu của LNCĐ
1) Đặc điểm liên quan đến vai trò của cộng đồng trong quá
trình quản lý tài nguyên rừng:
- Cộng đồng ra các quyết định và tổ chức thực hiện các
quyết định quản lý rừng. Sự tham gia của cộng đồng địa phương
12


vào công tác quản lý rừng là cần thiết ngay từ những bước ban
đầu của quá trình lập kế hoạch và ra quyết định cho tới khi
thực thi.
- Cộng đồng tự chịu trách nhiệm về các chi phí, sự may
rủi và hưởng lợi ích từ rừng theo quy định của pháp luật và
theo quy ước/hương ước của họ.
2) Đặc điểm liên quan đến mục đích quản lý rừng: Rừng
cộng đồng không phải sản xuất hàng hoá lâm sản để bán trên
thị trường mà chủ yếu là sản xuất những lâm sản gia dụng, tư
liệu tiêu dùng trong đời sống gia đình và cộng đồng đồng
thời bảo vệ môi trường của thôn, đặc biệt là bảo vệ, duy trì
nguồn nước cho cộng đồng, góp phần vào việc đáp ứng những
yêu cầu về xã hội như tín ngưỡng, truyền thống văn hoá...
3) Đặc điểm về sử dụng lao động và nguồn lực để quản lý
rừng: Sử dụng nguồn vốn và lao động hiện có của cộng đồng là
chủ yếu kết hợp với sự giúp đỡ tài chính của Nhà nước và các

tổ chức phi chính phủ trong nước và ngoài nước.
4) Đặc điểm về hoạt động quản lý rừng: Hoạt động quản
lý rừng tương đối linh hoạt, chủ yếu tập trung vào việc bảo
vệ, khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh tự nhiên rừng. Các hoạt
động thực tiễn của LNCĐ chủ yếu trong phạm vi cá nhân, hộ
gia đình và cộng đồng thôn. Nó được thể hiện thông qua hệ
thống trang trại nông lâm nghiệp hộ gia đình, rừng cộng đồng,
chế biến sản phẩm, dịch vụ trong phạm vi thôn và hộ gia
đình. Ngoài ra còn bao gồm các hoạt động phục vụ cho phát
triển cộng đồng như: phát triển cơ sở hạ tầng trong phạm vi
thôn, chuyển giao kỹ thuật, phổ cập lâm nghiệp...
5) Đặc điểm vai trò của người dân trong LNCĐ: Người dân
giữ vai trò trung tâm, họ vừa là nhân tố hành động vừa là người
13

hưởng lợi, các nhà chuyên môn chỉ đóng vai trò tư vấn, không
có vai trò thực hiện và chịu trách nhiệm.
1.1.5. Tiêu chí nhận biết LNCĐ
Tiêu chí về LNCĐ được xây dựng dựa trên cơ cơ sở khái
niệm LNCĐ, do có những quan niệm khác nhau về LNCĐ
nên có những ý kiến khác nhau về tiêu chí nhận biết LNCĐ,
tuy nhiên có thể khái quát một số tiêu chí chính sau đây:
a) Quyền sử dụng đất và quyền sử dụng rừng thuộc về
cộng đồng
Đây là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để xác
lập rừng cộng đồng. Rừng và đất rừng có mối quan hệ mật
thiết với nhau, trong đó rừng với tư cách là tài sản gắn liền
với đất. Quyền sử dụng đất và quyền sử dụng rừng thuộc về
cộng đồng, điều đó có nghĩa “cộng đồng” là chủ rừng, được
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng

rừng ổn định, lâu dài. Cộng đồng được khai thác lâm sản và
các lợi ích khác của rừng phục vụ cho mục đích công cộng và
cung cấp gỗ gia dụng cho các thành viên trong cộng đồng, cộng
đồng được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên diện
tích đất, diện tích rừng được giao.
b) Rừng cộng đồng chủ yếu đáp ứng các yêu cầu của
cộng đồng về sản phẩm, môi trường sinh thái và xã hội
Tiêu chí này có thể hiểu như sau:
- Nhu cầu gỗ gia dụng của cộng đồng dân cư thôn, đặc
biệt là những thôn, bản ở vùng sâu, vùng xa, nơi kinh tế chưa
phát triển. Đó là nhu cầu thiết yếu như gỗ và lâm sản để làm
nhà mới, sửa chữa lớn nhà cửa, củi, măng, chăn thả gia súc.
14


Cộng đồng dân cư thôn có nhu cầu sử dụng một số khu rừng
vì lợi ích chung của cộng đồng như rừng bảo vệ nguồn nước,
rừng gỗ quý, rừng thiêng, rừng ma gắn liền với phong tục tập
quán, tín ngưỡng của các đồng bào dân tộc.

chính sách hỗ trợ để tăng cường sự tham gia của người dân
vào quản lý rừng như tư vấn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ
thông qua khuyến nông, khuyến lâm, cho vay vốn với lãi suất
ưu đãi để phát triển rừng, xây dựng cở sở hạ tầng nông thôn.

- Tuỳ theo vị trí, đặc điểm và khả năng kinh doanh của
cộng đồng, rừng cộng đồng sẽ dần có khả năng sản xuất hàng
hoá. Cộng đồng sẽ hình thành các tổ chức kinh tế để kinh
doanh hàng hoá dựa trên cơ sở tài nguyên do cộng đồng
quản lý theo đúng các quy ước của cộng đồng và luật pháp

của Nhà nước. Do khả năng sản xuất hàng hoá còn thấp nên
những lợi ích mà các thành viên cộng đồng được hưởng lợi
thường là những sản phẩm được khai thác từ rừng cộng đồng.

d) Quản lý rừng cộng đồng bằng những quy ước được xây
dựng với sự tham gia của toàn thể cộng đồng và được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận

c) Quản lý rừng cộng đồng được thực hiện chủ yếu thông
qua sử dụng các nguồn lực sẵn có của cộng đồng kết hợp với
sự hỗ trợ của Nhà nước
Đây là tiêu chí quan trọng để phân biệt rừng cộng đồng với
rừng của các tổ chức kinh tế khác. Phần lớn các cộng đồng sử
dụng nguồn lao động của chính cộng đồng để bảo vệ và phát
triển rừng. Một vấn đề mang tính đặc thù là rừng cộng đồng
chủ yếu đáp ứng nhu cầu về lâm sản gia dụng, bảo vệ môi
trường sản xuất và sinh sống ở cộng đồng nên nhìn chung,
cộng đồng không có doanh thu và lợi nhuận đáng kể từ rừng.
Cộng đồng không có sẵn nguồn tài chính thu từ rừng để trả
công lao động. Tuy nhiên, cộng đồng dân cư thôn có nguồn
lao động dồi dào, có những kiến thức bản địa tốt về lâm sinh,
nông lâm kết hợp và quản lý rừng. Mặc dù dân còn nghèo,
nhưng nếu biết huy động tốt các nguồn lực lao động và kiến
thức bản địa cũng sẽ tạo nên một nguồn lực rất quan trọng để
phát triển rừng cộng đồng. Mặt khác, Chính phủ có nhiều
15

Cộng đồng dân cư thôn sống gần rừng luôn luôn có tác
động vào rừng. Vì vậy, mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật về quản lý rừng nhưng quy ước/hương

ước của thôn cũng có tác dụng không kém phần quan trọng.
Cộng đồng muốn quản lý được rừng của mình phải dựa
vào v ă n b ả n pháp luật của Nhà nước, nhu cầu của cộng
đồng, trình độ dân trí để soạn thảo và ban hành quy ước/hương
ước quản lý và bảo vệ rừng cộng đồng
Nội dung quy ước/hương ước quy định quyền lợi và nghĩa
vụ của mọi thành viên cộng đồng trong việc bảo vệ và phát
triển rừng, khai thác, mua bán vận chuyển gỗ và lâm sản,
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên của cộng đồng
trong quá trình bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng. Có thể
nói, quy ước/hương ước quản lý và bảo vệ rừng cộng đồng là
một trong những tiêu chí quan trọng để nhận biết địa phương
đó đã có rừng cộng đồng hay chưa.
e) Các hình thức tổ chức quản lý rừng cộng đồng tương
đối linh hoạt, mềm dẻo để thu hút sự tham gia của các thành
viên trong cộng đồng
Tổ chức sự tham gia của các thành viên trong cộng
đồng trên tinh thần tự nguyện, hưởng lợi lâu dài đòi hỏi phải
có những hình thức tổ chức và quản lý đa dạng, linh hoạt và
16


mềm dẻo. Có thể áp dụng các hình thức tổ chức quản lý rừng
để thu hút mọi nguồn lực sẵn có ở cộng đồng như: thành lập tổ
quản lý bảo vệ rừng thôn, hình thành nhóm hộ gia đình, các
câu lạc bộ trong cộng đồng để luân phiên tuần tra rừng hoặc
huy động các tổ chức đoàn thể cấp cộng đồng tham gia bảo vệ
rừng. Các hình thức tổ chức cứng nhắc như kiểu làm công,
thuê khoán thì đó không phải là quản lý rừng cộng đồng.
1.1.6. Khái niệm về lâm nghiệp xã hội

Theo tổ chức FAO (1978), Lâm nghiệp xã hội (LNXH) là
hoạt động có liên quan chặt chẽ đến việc huy động nhân dân địa
phương vào quản lý bảo vệ và phát triển nghề rừng một cách
bền vững. Nói cách khác LNXH là tập hợp các hoạt động quản
lý bảo vệ và phát triển rừng, mà có liên quan chặt chẽ với nhau
do người dân sống ở cộng đồng thực hiện nhằm nâng cao đời
sống cho chính họ.
Lâm nghiệp xã hội có thể được xem xét như là một chiến
lược phát triển hoặc can thiệp của các Nhà lâm nghiệp và các tổ
chức phát triển khác với mục đích khuyến khích sự tham gia tích
cực của người dân địa phương vào các hoạt động quản lý bảo vệ
và phát triển rừng ở mức độ khác nhau, nó cũng là một biện
pháp nâng cao điều kiện sống của người dân địa phương,
(Wietsum, 1994).
Lâm nghiệp xã hội là một chiến lược mà nó tập trung vào
giải quyết các vấn đề của người dân địa phương và duy trì môi
trường của khu vực. Vì vậy sản phẩm chính của lâm nghiệp
không chỉ là gỗ đơn thuần mà lâm nghiệp có thể trực tiếp sản
xuất nhiều loại hàng hóa phụ thuộc vào nhu cầu của người dân

17

trong khu vực bao gồm: Chất đốt, lương thực, thực phẩm, thức
ăn gia súc, nước, cảnh quan du lịch, (Simon 1994).
Theo các Nhà khoa học lâm nghiệp Trung quốc (1993).
LNXH là một hệ thống liên kết hữu cơ giữa con người - rừng Xã hội để cùng tồn tại và phát triển, tức là làm cho rừng phát
huy đầy đủ các chức năng cơ bản của nó vì lợi ích của con người
như cung cấp gỗ và các sản phẩm phi gỗ (LSNG), bảo vệ sinh
thái môi trường, phát triển du lịch sinh thái - văn hoá và xã hội.
Nói cách khác, Lâm nghiệp xã hội là những hành vi của con

người tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý, lợi
dụng, bảo vệ rừng để đạt được mục đích tồn tại và phát triển.
Xuất phát từ các khái niệm nêu trên, nhiều người cho rằng
LNCĐ là một phương thức tiếp cận trong LNXH, nói cách khác
LNXH cũng như LNCĐ trong tiếp cận đều dựa trên hai quan
điểm chính:
Quan điểm thứ nhất: LNXH hay LNCĐ là một phương thức
tiếp cận có sự tham gia trong quản lý rừng, sử dụng tài nguyên
rừng và đất rừng. Quan điểm này nhấn mạnh đến sự tham gia
của người dân địa phương với vai trò chủ đạo và xuyên suốt cả
quá trình hoạt động Lâm nghiệp. Nói cách khác sự tham gia của
người dân trong cộng đồng phải được thể hiện từ nhận biết vấn
đề, lựa chọn chiến lược phát triển, lập kế hoạch, tổ chức thực
hiện cũng như giám sát và đánh giá.
Quan điểm thứ hai: LNXH cũng như LNCĐ là một lĩnh vực
hoạt động trong quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên với sự
tham gia của các bên liên quan nhằm hướng đến quản lý bền
vững tài nguyên rừng và đất rừng mà thực tế hiện con người
đang đối mặt với các vấn đề:
18


Nạn phá rừng ngày càng gia tăng, đặc biệt ở các nước kém
phát triển.
Tài nguyên rừng đang suy thoái nhanh gây ảnh hưởng đến
biến đổi khí hậu.
Đời sống của người dân vùng cao, đặc biệt các cộng đồng
sống phụ thuộc vào rừng không những không được cải thiện mà
ngày càng giảm sút.
Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng cao trong các cộng đồng

do hiện tượng tích tụ đất đai của quá trình giao đất giao rừng và
sự phân chia lợi ích không công bằng trong sử dụng nguồn tài
nguyên rừng và đất rừng.
Chưa tích cực huy động được các lực lượng trong xã hội
tham gia vào quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là lực
lượng người dân ở các cộng đồng nông thôn, miền núi.
1.1.7. Các hình thức quản lý và sử dụng tài nguyên rừng trong
LNCĐ
Theo Simon (1999) hình thức sử dụng và quản lý tài nguyên
rừng (TNR) trong các nước hiện nay có 4 hình thức như sau:
(1) Khai thác gỗ: Khai thác gỗ là hình thức lợi dụng rừng
đầu tiên của con người, đặc biệt là khai thác gỗ từ rừng tự nhiên.
Hình thức sử dụng rừng này ít chú ý đến trồng hoặc phục hồi lại
rừng, nên nguồn TNR bị suy thoái nghiêm trọng. Hình thức này
thường bị “Lâm tặc” hay người ngoài cộng đồng lợi dụng đến
khai thác phi pháp nguồn tài nguyên rừng của các chủ rừng.
Hiện nay nhà nước hạn chế hoặc cấm hình thức này.
(2) Quản lý rừng gỗ: Hình thức quản lý gỗ rừng là một quá
trình vừa khai thác có quy hoạch và thiết kế khai thác hợp lý để
19

đảm bảo tính ổn định lâu dài cho kinh doanh gỗ vừa trồng lại
rừng sau khai thác. Hình thức quản lý rừng gỗ thường áp dụng
phương thức khai thác trắng, sau đó tái sinh nhân tạo để tạo nên
rừng thuần loài. Nhược điểm của hình thức này:
Phá vỡ tính đa dạng sinh học, tài nguyên rừng dễ bị tổn
thương và dễ bị sâu bệnh.
- Giảm thiểu chức năng bảo vệ môi trường của rừng.
- Giảm sút chức năng sản xuất của đất đai, không tối đa
hóa việc lợi dụng tài nguyên rừng.

Hai hình thức quản lý trên có thể áp dụng cho quản lý rừng
sản xuất, rừng kinh tế.
-

(3) Quản lý nguồn tài nguyên rừng: là hệ thống quản lý
dựa trên tiềm năng và sự khác biệt về đặc điểm tự nhiên của
nguồn tài nguyên rừng và điều kiện kinh tế xã hội của địa
phương. Hình thức quản lý này có đặc điểm như sau:
Không chỉ lợi dụng gỗ mà còn các sản phẩm ngoài gỗ.
Chuyển một phần lợi ích kinh tế của cơ quan quản lý nhà
nước sang lợi ích và nhu cầu của người dân trong quá trình tham
gia bảo vệ và phát triển rừng.
Quản lý trên quy mô linh hoạt tùy theo điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội ở từng vùng và nguồn tài nguyên rừng khác nhau.
Hình thức quản lý này có thể áp dụng trong quản lý rừng
Phòng hộ hay các khu bảo tồn.
(4) Quản lý theo hệ sinh thái rừng: là hình thức quản lý tài
nguyên rừng dựa trên điều kiện sinh thái và nhân văn. Nó không
chỉ tính đến vai trò của cây gỗ, cây bụi, thảm tươi, khu hệ động
vật, vi sinh vật của hệ sinh thái rừng mà còn cả nhu cầu sống
của các cộng đồng liên quan trong hệ sinh thái.
20


Hình thức quản lý này đặc biệt nhấn mạnh đến lợi ích về
bảo vệ môi trường sinh thái và nguồn tài nguyên (đất, nước..),
còn lợi ích kinh tế được xem như là tận dụng các sản phẩm phụ
trong kinh doanh rừng như LSNG, du lịch sinh thái, du lịch cộng
đồng…Hình thức quản lý rừng này thường áp dụng cho rừng
Đặc dụng và rừng Phòng hộ nghiêm ngặt.

Hiện nay phương thức quản lý tài nguyên rừng trong lâm
nghiệp cộng đồng thường áp dụng tiếp cận có sự tham gia, đặc
biệt là sự tham gia của cộng đồng.
1.1.8. Sự tham gia trong lâm nghiệp cộng đồng
1). Khái niệm về sự tham gia:
Trong quá trình nghiên cứu LNXH và LNCĐ nhiều tác giả
đã đưa ra những khái niệm khác nhau về sự tham gia và sự tham
gia của cộng đồng trong quản lý tài nguyên rừng:
- Ngân hàng Thế giới (WB): “Sự tham gia là một quá trình,
thông qua đó các chủ thể cùng tác động và chia sẻ những sáng
kiến phát triển và cùng quyết định”.
- Hoskin (1994) cho rằng: “Sự tham gia là sự thực hiện
trồng và quản lý rừng của Nam và Nữ trong cộng đồng với sự
hỗ trợ bên ngoài cộng đồng”.
- FAO (1982): “Sự tham gia của người dân như là một quá
trình mà qua đó người nghèo nông thôn có khả năng tự tổ chức
và như các tổ chức của chính họ, có khả năng nhận hết nhu cầu
của chính mình và tham gia trong thiết kế thực hiện và đánh giá
các phương án tại địa phương”.
- Hội nghị FAO (1983) lại đưa ra khái niệm: “Sự tham gia
của người dân như là sự hợp tác chặt chẽ của họ tới mức người
21

dân cảm thấy phải chịu trách nhiệm về thành công hay thất bại
của dự án phát triển lâm nghiệp”.
Hiểu một cách đơn giản và tổng quát về sự tham gia là: “Sự
tham gia là quá trình cùng chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi
trong các hoạt động LNXH thông qua các chương trình phát
triển lâm nghiệp, trong đó trách nhiệm quyết định là cao nhất”.
Các chương trình và dự án phát triển hướng về người dân,

được xây dựng dựa trên cơ sở khái niệm về sự tham gia. Tính
triết lý của các khái niệm về sự tham gia dựa vào 2 giả định:
- Giả định mang tính triết học: Đó là giá trị công bằng và
dân chủ trong xã hội, mọi thành viên trong xã hội đều được
quyền tham gia vào những vấn đề có liên quan đến họ và họ đều
có quyền nói lên nguyện vọng, nhu cầu, đề xuất các ý kiến của
mình trong các hoạt động.
- Giả định mang tính thực tiễn: Nhà nước chúng ta là một
Nhà nước do dân, vì dân, cho nên lịch sử phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước không thể thiếu sự tham gia của mọi tầng lớp
trong xã hội. Các Chương trình phát triển nông thôn với đối
tượng tác động là người dân nông thôn, họ vừa là đối tượng, vừa
là chủ thể trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn, vì vậy nếu
người dân trong cộng đồng không tham gia thì mọi chương
trình, dự án phát triển nông thôn sẽ khó thành công tốt. Hồ chí
Minh đã nói “Dễ trăm lần không dân cũng chịu; Khó vạn lần
dân liệu cũng xong” hoặc quy chế dân chủ của Đảng đã chỉ ra
“Dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”.
2). Tầm quan trọng của sự tham gia.
Hội nghị Thế giới về cải cách ruộng đất và phát triển nông
thôn (Roma, 1979) đã nêu lên tính ưu việt của sự tham gia:

22


- Sẽ có thông tin nhiều hơn về nhu cầu/vấn đề/khả
năng/kinh nghiệm của địa phương. Điều này có lợi cho việc lập
kế hoạch và thực hiện các hoạt động có hiệu quả.
- Thông qua việc thực hiện kế hoạch có sự tham gia sẽ có
thêm kinh nghiệm lựa chọn: Điều gì cần làm? Điều gì không

nên làm? Làm như thế nào cho tốt hơn?
- Động viên được nguồn lực đóng góp nhiều hơn trong phát
triển nông thôn, đồng thời làm cho họ càng có trách nhiệm hơn
đối với những quyết định và giải pháp mà chính họ đề ra.
- Có sự tham gia của người dân thì việc thực hiện các Chương
trình, Dự án sẽ nhanh hơn, hiệu quả và tiết kiệm hơn.
- Có sự tham gia sẽ phát huy được năng lực quản lý và
quản trị trong khu vực nông thôn và nếu những năng lực này
được phát huy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển nông thôn
mạnh hơn, bổ sung thêm nguồn lực cho khu vực Nhà nước.
- Có sự tham gia của người dân thì những công trình xây
dựng cơ sở hạ tầng nông thôn được bền vững hơn, vì ý thức
trách nhiệm sẽ phát huy, tính chủ động và sáng tạo trong công
việc được phát huy tối đa.
- Khi người dân được tham gia, nghĩa là dân chủ được mở
rộng thì sự ủng hộ về chính trị cũng sẽ lớn hơn, lòng tin đối với
Nhà nước cũng cao hơn.
- Có sự tham gia của người dân thì việc đánh giá các
Chương trình, Dự án phát triển nông thôn sẽ sâu sát hơn, khách
quan hơn, vì chính họ là người kiểm chứng kết quả hoạt động.
3). Các hình thức tham gia của cộng đồng.
Các hình thức tham gia của cộng đồng được thể hiện qua
đóng góp lao động; chia sẻ chi phí; chia sẻ trách nhiệm; chia sẻ
23

quyền quyết định trong các chương trình hoạt động tại cộng
đồng. Tất cả các hình thức tham gia này có thể thấy rằng đó là
một quá trình chia sẻ vai trò trách nhiệm của các bên liên quan
trong quản lý nguồn tài nguyên mà họ đang sử dụng.
Tuy nhiên các cộng đồng sống gần rừng đa số là nghèo, vì

vậy sự tham gia là một quá trình vừa học hỏi để nâng cao nhận
thức vừa nhận biết được tầm quan trọng của họ trong sự tham
gia nhằm tránh sự tham gia hình thức hoặc bị động hoàn toàn.
4). Các nguồn lực cộng đồng cần huy động tham gia.
Các cộng đồng phần lớn là dân nghèo ở vùng nông thôn, đặc
biệt là nông thôn vùng núi, vì vậy họ cần đóng góp gì trong quá
trình tham gia để phát triển cộng đồng là một điều cần cân nhắc
để họ nhiệt tình và tự nguyện tham gia, sau đây là 3 nguồn lực:
- Nguồn lực vật chất: Đóng góp đất đai là nguồn lực quan
trọng nhất và người dân ai cũng có. Ngoài ra, các vật tư, phương
tiện mà người dân làm được cũng là nguồn vật chất cần góp.
- Nguồn lực kiến thức: Người dân có hai nguồn lực kiến
thức là kiến thức bản địa và kiến thức do học được thông qua
đào tạo, tập huấn, họ cần chia sẽ trong các hoạt động.
- Nguồn lực lao động của cộng đồng rất dồi dào, nó bao
gồm nguồn lao động chín, lao động phụ, lao động nhàn rỗi.
Ba loại nguồn lực vật chất, kiến thức và lao động của cộng
đồng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau và sẽ hỗ trợ cho
nhau, thúc đẩy lẫn nhau trong quá trinh tham gia. Ba nguồn lực
đều quan trọng như nha trong quá trình tham gia của cộng đồng.
5). Động lực thúc đẩy sự tham gia của người dân
- Động lực thị trường: Thị trường là đầu ra của quá trình sản
xuất, nó kích thích và định hướng cho sản xuất và tăng thu nhập
24


cho cộng đồng. Sản xuất theo định hướng thị trường là một cách
tiếp cận trong Lâm nghiệp cộng đồng nhằm liên kết cộng
đồng/người sản xuất, các nhà chính sách/thị trường, nhà khuyến
nông và các doanh nghiệp để nâng cao thu nhập cho người sản

xuất trong cộng đồng.
- Động lực phi thị trường: Động lực này phụ thuộc rất nhiều
vào văn hóa (nhân văn của từng cộng đồng). Động lực phi thị
trường có thể biểu hiện qua tôn giáo, tín ngưỡng; ý thức, trách
nhiệm; lòng tin vào tương lai và sự đam mê trong hoạt động của
các cộng đồng. Động lực phi thi trường người ta chú trọng khai
thác các tri thức bản địa trong cộng đồng nhằm quản lý nguồn
tài nguyên một cách bền vững.
6). Tiếp cận có sự tham gia trong lâm nghiệp cộng đồng
Trong tiếp cận lâm nghiệp cộng đồng rất chú trọng sử dụng
phương pháp “có sự tham gia của cộng đồng”, nhưng làm thế
nào để huy động được sự tham gia để mang lại kết quả mong
muốn, điều này phụ thuộc vào cách tiếp cận.
Thực tế cho thấy các nghiên cứu về phát triển nông thôn tập
trung vào hai lĩnh vực chính: (1) Những vấn đề thuộc về phát triển
kinh tế, xã hội nông thôn (chính sách và thể chế) và (2) Những vấn
đề thuộc về kỹ thuật sinh học (thực chất là vấn đề sử dụng đất, cây
trồng, kỹ thuật canh tác,...) ở cộng đồng nông thôn. Cho dù thuộc
lĩnh vực nào, thì nghiên cứu sự tham gia trong Lâm nghiệp cộng
đồng cũng tập trung giải quyết hai vấn đề chủ yếu:
Thứ nhất: Nghiên cứu các mối quan hệ xã hội và hàng rào thể
chế cũng như hệ thống tổ chức cho việc phát triển cộng đồng như:
Quan hệ giữa những người sống trong cộng đồng với nhau; Quan
hệ giữa những người sống trong cộng đồng với tổ chức khuyến
25

nông lâm; Nghiên cứu những tiềm năng và xung đột nào đang tồn
tại trong cộng đồng; Xác định các xung đột nào liên quan đến sử
dụng tài nguyên mà cộng đồng đang quản lý; Các chính sách liên
quan đến quản lý tài nguyên rừng mà cộng đồng cần phải hiểu.

Thứ hai: Nghiên cứu sự ràng buộc về hệ thống của các
thành phần trong hệ sinh thái tự nhiên (mối quan hệ giữa các
tiểu vùng/vùng cao với vùng thấp, mối quan hệ của các hợp
phần đất, nước, rừng… trong hệ sinh thái rừng) để có thể vận
dụng vào phát triển kinh tế cho cộng đồng phù hợp với thế mạnh
từng vùng và phù hợp theo định hướng thị trường. Nghiên cứu
hệ thống canh tác phù hợp (trồng rừng, Nông lâm kết hợp) cho
từng tiểu vùng sinh thái; Các kỹ thuật canh tác phù hợp với văn
hóa của cộng đồng. Nghiên cứu các mô hình sản xuất ra các sản
phẩm mang tính đặc thù trong Nông lâm nghiệp và gắn liền với
định hướng thị trường.
7). Phát triển công nghệ có sự tham gia
Phát triển kỹ thuật có sự tham gia (Participatory Technology
Development - PTD) là một phương thức tiếp cận trong lâm
nghiệp cộng đồng. Hoạt động này nhằm chuyển giao các tiến bộ
kỹ thuật/các công nghệ cho người dân của cộng đồng dựa trên
sự phối hợp của các nhà khuyến nông, nhà nghiên cứu, nhà
chính sách (các bên liên quan) và người nông dân.
Phát triển kỹ thuật có sự tham gia là cách tiếp cận mới trong
chuyển giao công nghệ (chuyển giao kỹ thuật) cho cộng đồng
được thực hiện theo 5 bước sau:
(1) Các bên liên quan tạo lập mối quan hệ và đánh giá khả
năng phát triển kỹ thuật/công nghệ có sự tham gia của người dân
trong cộng đồng;
26


(2) Phát triển kỹ thuật/công nghệ bằng hình thức cộng đồng
tự tìm ra “cái mới” theo nhu cầu của họ và sẽ được các bên liên
quan tư vấn các vấn đề cần thử nghiệm và phát triển;


Vì thế nghiên cứu LNCĐ phải dựa trên quan điểm phát triển
bền vững và xem xét mối quan hệ hữu cơ giữa sinh thái rừng và
sinh thái nhân văn.

(3) Thực hiện các thử nghiệm bởi người nông dân trong
cộng đồng với sự hỗ trợ của các bên liên quan (nhà khuyến
nông, nhà nghiên cứu, nhà chính sách và các doanh nghiệp);

1.2.1. Phát triển bền vững trong Lâm nghiệp cộng đồng

(4) Chia sẻ kết quả thử nghiệm trong các cộng đồng dưới sự
thúc đẩy của các bên liên quan (nhà nghiên cứu và khuyến
nông….);
(5) Duy trì, hỗ trợ và nhân rộng kết quả PTD cho các cộng
đồng khác.

Phát triển bền vững là thuật ngữ hàm ý về “giá trị”, không
có một loại tài nguyên nào có giá trị đa dạng như tài nguyên
rừng, thậm chí là có những giá trị mà con người không bao giờ
tạo ra được. Rừng có 2 loại giá trị lớn là giá trị vật chất và giá trị
phi vật chất, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng giá trị phi vật chất của
rừng còn lớn hơn rất nhiều giá trị vật chất.

Cần chú ý: Trong PTD vai trò của người dân là vai trò quyết
định. Cán bộ chuyên môn, nhà nghiên cứu có trách nhiệm hỗ
trợ, thúc đẩy, khuyến nghị để quá trình diễn ra tốt hơn, tránh
hiện tượng làm thay cộng đồng.

Khi phân tích các nhân tố trong phát triển bền vững, 3 nhóm

nhân tố luôn phải được đề cập đó là (1) Tăng trưởng kinh tế; (2)
Công bằng và tiến bộ xã hội; và (3) Bảo tồn môi trường thích
hợp. Sự giao thoa của 3 nhân tố này là sự phát triển bền vững.

1.2. Phát triển bền vững và sinh thái nhân văn trong lâm
nghiệp cộng đồng

Phân tích bản chất của mô hình phát triển không bền vững là
phát triển không quan tâm đến môi trường, kích thích tiêu thụ
quá mức và khai thác tài nguyên quá mức. Cốt lõi của mô hình
phát triển không bền vững là trục sản xuất- tiêu thụ. Sản xuất
thật nhiều, tiêu thụ thật nhiều để có tăng trưởng kinh tế thật
nhanh. Sự không quan tâm của cả nhà sản xuất lẫn người tiêu
dùng đến môi trường đã làm tăng cường suy thoái, ô nhiễm môi
trường và cạn kiệt tài nguyên. Từ đó sẽ dẫn đến các xung đột
môi trường giữa các nhóm quyền lợi. Điều tất yếu sẽ xảy ra là
sự xói mòn các giá trị văn hóa và xã hội do các xung đột này
gây ra.

Trong thực tế muốn quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên
bền vững thì không thể chỉ dựa trên những điều kiện tự nhiên
(đặc điểm của hệ sinh thái) mà còn phải căn cứ vào phong thục
tập quán của các cộng đồng, con người đang sử dụng nguồn tài
nguyên đó. Nói cách khác mọi hoạt động của cộng đồng ở bất
kỳ vùng sinh thái nào, muốn sử dụng được nguồn tài nguyên lâu
dài cũng cần phải dựa vào sự tồn tại và phát triển của các hệ
sinh thái tự nhiên, nếu cộng đồng khai thác quá mức làm cho hệ
sinh thái tự nhiên bị phá vỡ thì hậu quả khôn lường sẽ mang lại
cho cộng đồng mà người ta hay nói “Thiên tai là do nhân tai”.
27


1). Khái niệm về phát triển bền vững

Xói mòn văn hóa - xã hội làm mất đi các rào chắn về mặt
văn hóa đạo đức đối với sự tích luỹ vốn, tiến bộ khoa học -công
28


nghệ và cơ cấu quyền lực, từ đó lại thúc đẩy một bước mới của
gia tăng sản xuất để tăng cường thu nhập và tăng trưởng nhằm
thỏa mãn nhiều hơn cái “muốn” của người giàu hơn là cái “cần”
của người nghèo. Bước thúc đẩy này tạo ra một vòng xoáy luẩn
quẩn ngày càng gia tăng tốc độ (sơ đồ 1.1).

Cần phải tính lợi ích của từng cộng đồng không được hưởng
lợi hoặc hưởng lợi quá ít từ sự tăng trưởng, đến lợi ích của thế
hệ mai sau, đến chi phí cần phải sử dụng để đền bù thiệt hại về
môi trường hoặc để cải thiện môi trường. Việc tính toán chi phí
môi trường gộp vào chi phí phát triển đã dẫn đến một khái niệm
mới, đó là phát triển bền vững (PTBV).
Khái niệm phát triển bền vững được Uỷ ban Môi trường và
Phát triển thế giới thông qua năm 1987 là: “Những thế hệ hiện
tại cần đáp ứng nhu cầu của mình, sao cho không làm hại đến
các thế hệ tương lai đáp ứng nhu cầu của họ”.

Sơ đồ 1.1. Vòng luẩn quẩn - mô hình phát triển không bền vững
Thực tiễn hiện nay, con người đang bị cuốn hút vào một
vòng luẩn quẩn do tăng trưởng nóng, trong đó suy thoái môi
trường tiếp tay cho xói mòn văn hóa- xã hội. Sự vận hành vòng
xoáy sẽ nhanh chóng đưa quá trình phát triển đạt đến ngưỡng

chịu tải của hệ sinh thái, tiếp đến là thảm hoạ sinh thái sẽ xảy ra
(lũ lụt, hạn hán, suy thoái rừng, đất…), dẫn đến đại khủng hoảng
của xã hội với những đặc trưng cơ bản là: cạn kiệt tài nguyên,
nạn đói, dịch bệnh, ô nhiễm và sự cố môi trường, chiến tranh và
xung đột môi trường. Yêu cầu của phát triển bền vững, do môi
trường ngày càng bị suy thoái nghiêm trọng, gây tổn thương cho
con người đang sống ở hiện tại và các thế hệ tương lai, điều này
buộc chúng ta phải xem xét lại thước đo của sự phát triển.
29

PTBV không chỉ là phát triển có tính đến chi phí môi trường
mà thực ra là một lối sống mới. Ngoài ra, chiến lược cho cuộc
sống bền vững - Hãy cứu lấy Trái Đất” của IUCN - UNEP WWF, 1991 đã chỉ ra rằng: sự bền vững trong cuộc sống của
một dân tộc phụ thuộc vào việc hòa hợp với các dân tộc khác và
với giới tự nhiên. Do đó, nhân loại không thể bòn rút được gì
hơn ngoài khả năng thiên nhiên có thể cung cấp và cần phải áp
dụng một kiểu sống mới trong giới hạn thiên nhiên cho phép.
Với một định nghĩa mạch lạc và ngắn gọn như trên, chiến
lược PTBV có thể dễ dàng được chấp nhận, tuy nhiên, chỉ khi
triển khai chiến lược này trong phát triển kinh tế xã hội mới thấy
cực kỳ khó khăn. Viện Quốc Tế về Môi trường và Phát triển
(International Institute for Environmental & Development - IIED)
cho rằng, PTBV gồm 3 hệ thống phụ thuộc lẫn nhau (sơ đồ 1.2).
Phát triển bền vững là các hoạt động nhằm nâng cao chất
lượng cuộc sống con người như nâng cao các tiêu chuẩn sống,
cải thiện nền giáo dục, sức khỏe và sự bình đẳng cho mọi người,
mọi thế hệ và đồng thời gìn giữ môi trường tự nhiên, môi trường
xã hội, môi trường lao động, môi trường sinh sống ổn định.

30



Muốn phát triển bền vững phải xác định và hình thành các
chính sách, kế hoạch hành động, xây dựng các thể chế đảm bảo
việc duy trì tính bền vững trong quản lý và sử dụng tài nguyên
bằng cách gắn kết nó vào quá trình phát triển kinh tế xã hội ở
tầm quốc gia cũng như địa phương.
Các mục tiêu cụ thể:

Sơ đồ 1.2. Phát triển bền vững là một quá trình dàn xếp thỏa
hiệp giữa các hệ thống kinh tế, tự nhiên và xã hội (IIED, 1995)
Phát triển bền vững là sự quản lý và bảo vệ nguồn lực tự
nhiên và định hướng của các thay đổi kỹ thuật, thể chế bằng
cách nào đó đạt được sự thõa mãn nhu cầu của con người cho
thế hệ này và các thế hệ mai sau (FAO, 1988).
2). Mục đích và mục tiêu của phát triển bền vững
Mục đích của phát triển là nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày
càng cao của con người về vật chất, tinh thần, văn hóa, nhưng
muốn phát triển thì cần phải xem xét mối tương quan nhiều
chiều, nhất là với phát triển bền vững lại càng có nhiều mối
tương quan hơn cả về hiện tại và tương lai, người ta cho rằng
các nhân tố đó là:
-

Gia tăng thu nhập thực tế bình quân đầu người.
Cải thiện các điều kiện về dinh dưỡng và y tế.
Cải thiện nền giáo dục.
Cải thiện việc tiếp cận các tài nguyên.
Tạo ra sự công bằng trong phân phối và cơ hội.
Tăng cường các quyền tự do và quyết định...


Duy trì các quá trình sinh thái quan trọng, các hệ sinh thái
để làm cơ sở cho hoạt động sống của con người; bảo tồn tính đa
dạng sinh học vì lợi ích trước mắt và lâu dài.
Đảm bảo việc sử dụng tài nguyên lâu bền bằng cách thiết
lập hệ thống quản lý và phương thức quản lý phù hợp, xác định
quy mô cho từng đối tượng, từng vùng để quy định cường độ
khai thác và phương thức khai thác hợp lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên.
Thực hiện kế hoạch hóa về tăng trưởng và phân bổ dân số
cho cân bằng với một năng suất sản xuất bền vững và đảm bảo
được môi trường sinh thái.
Những mục tiêu trên nhằm giải quyết hai mặt của tính bền
vững là bền vững về sinh thái và bền vững về kinh tế - xã hội
trong phát triển nông thôn vùng núi.
3). Nguyên tắc của phát triển bền vững
Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển đã đề xuất các
nguyên tắc cho sự phát triển bền vững như sau:
- Hạn chế tối đa tác động của con người vào sinh quyển
(phạm vi cho phép, tức là phạm vi chịu tải của nó) nhằm duy trì
kho tài nguyên sinh học với tính đa dạng của nó.

31

32


- Sử dụng các loại tài nguyên tái tạo được hoặc tái tạo lại để
giảm cường độ khai thác và sử dụng tài nguyên không tái tạo
được bằng cách thay thế.


Thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương nhằm ổn
định đời sống thông qua công tác giao đất giao rừng cho cộng
đồng quản lý.

Thực hiện phân bổ công bằng về lợi ích, chi phí sử dụng tài
nguyên và quản lý môi trường. Khuyến khích các công nghệ
nhằm tăng hiệu quả sử dụng từ một khối lượng tài nguyên nhất
định.

Tăng cường hoạt động khuyến nông khuyến lâm nhằm nâng
cao dân trí cho cộng đồng trong sự tham gia quản lý bảo vệ rừng
và đào tạo nguồn nhân lực nòng cốt cho các thôn bản nhằm xây
dựng lực lượng tại chỗ cho phát triển lâm nghiệp cộng đồng.

Sử dụng các chính sách kinh tế trong quản lý và bảo vệ tài
nguyên.
Chấp nhận sự tiếp cận tham gia liên ngành, xuyên ngành
trong quá trình quyết định, xây dựng kế hoạch hành động.
Khuyến khích và hỗ trợ sự phát triển các giá trị văn hóa phù
hợp với tư tưởng phát triển bền vững.
Hoạt động Lâm nghiệp cộng đồng được xem như là một
phương thức quản lý tài nguyên rừng bền vững, thể hiện ở
những khía cạnh sau:
Sử dụng đất rừng bền vững, trong số những nguồn lực vật
chất thì đất đai có vai trò quan trọng nhất vì nó là nguồn tài sản
gắn bó lâu đời với người nông dân. Hệ thống sử dụng đất hay hệ
thống canh tác đất đai mang lại nguồn thu nhập trực tiếp cho các hộ
gia đình, tuy nhiên sử dụng đất cho mục đích kinh tế cũng phải chú
trọng đến tính bền vững của đất đai.

Phương thức quản lý và sử dụng tài nguyên rừng bền vững,
trong đó bảo tồn đa dạng sinh học rất quan trọng nhất. Đa dạng
sinh học là sự cân bằng giữa khai thác sử dụng và tái tạo lại tài
nguyên rừng, điều này được vai trò tham gia của cộng đồng rất
quan trọng, vì họ là người trực tiếp khác thác tài nguyên.

33

Hình 1.1. Hệ thống quản lý đất bền vững ở CĐ
4) Phát triển bền vững trong Lâm nghiệp cộng đồng
Trong chiến lược quản lý tài nguyên rừng, để đạt được mục
tiêu bền vững của nguồn tài nguyên rừng, hiện nay người ta đã
sử dụng một số phương pháp tiếp cận nhằm huy động sự tham
gia của các bên liên quan như sau:
Quản lý tài nguyên đất/thiên nhiên dựa vào cộng đồng
(Community based natural resources management): Quản lý tài
nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng là chiến lược toàn diện
34


nhằm xác định những vấn đề mang tính nhiều mặt ảnh hưởng đến
tài nguyên thiên nhiên và môi trường thông qua sự tham gia tích
cực và có ý nghĩa của những cộng đồng địa phương.

xuất của các vùng sinh thái nhằm phát huy tối đa điều kiện tự
nhiên và tri thức bản địa của cộng đồng, không tác động nhiều
làm phá vỡ hệ sinh thái tự nhiên và tri thức bản địa của cộng
đồng.
Phát triển bền vững về mặt sinh thái (Ecologically
sustainable development): Phát triển bền vững về mặt sinh thái

(ESD = Ecologically sustainable development) là hình thức sử
dụng, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên của các
cộng đồng cho phù hợp với các vùng sinh thái khác nhằm làm sao
cho hệ sinh thái tự nhiên được duy trì bền vững, nhưng chất lượng cuộc sống tổng thể của các cộng đồng được nâng cao trong
hiện tại và tương lai.
Phát triển bền vững về mặt sinh thái có nghĩa là thích ứng
giữa sự tăng trưởng kinh tế của cộng đồng với điều kiện tự
nhiên, vì nền kinh tế cộng đồng bền vững chỉ có thể thực hiện
được trên nền tảng hệ sinh thái ổn định.

Hình 1.2. Mô hình Rừng trồng bền vững
Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên (Co-management of
Natural Resources): Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên là một
cách tiếp cận đa nguyên để quản lý tài nguyên thiên nhiên bằng
cách kết hợp nhiều đối tác với nhiều vai trò, với mục đích cuối
cùng là bảo vệ môi trường, quản lý bền vững tài nguyên thiên
nhiên và phân chia đồng đều những quyền lợi và trách nhiệm
liên quan đến tài nguyên cho các bên liên quan.
Quản lý mang tính thích nghi (Adaptation management):
Quản lý mang tính thích nghi là một cách quản lý tài nguyên
thiên nhiên áp dụng cho việc hoạch định chính sách, tổ chức sản
xuất cho cộng đồng phải phù hợp với phong tục tập quán sản
35

Như vậy để phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng và
đất rừng, thì việc xác định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ các bên có
liên quan rất quan trọng, trong đó thay đổi nhận thức của các
cộng đồng sống gần rừng trong bảo vệ nguồn tài nguyên là vô
cùng quan trọng.
1.2.2. Sinh thái nhân văn trong Lâm nghiệp cộng đồng

Hệ sinh thái nhân văn là khoa học nghiên cứu về mối quan
hệ tương hỗ giữa con người và môi trường xung quanh với mục
đích là tìm hiểu và nhận biết các đặc điểm, các mối quan hệ qua
lại giữa các nhân tố trong hai hệ (hệ xã hội và hệ sinh thái tự
nhiên) và sự hình thành những hình thái đặc trưng trong hai hệ
đó (Rambo 1983).
36


Nội dung nghiên cứu của Sinh thái nhân văn tập trung vào 3
vấn đề chủ yếu:
- Các dòng năng lượng, vật chất, thông tin trao đổi giữa hệ
xã hội và hệ sinh thái.
- Hệ xã hội thích nghi và phản ứng như thế nào trước những
thay đổi của hệ sinh thái.
- Những hoạt động của con người đã gây nên những ảnh
hưởng gì đối với hệ sinh thái.
Những điều cần quan tâm đến nghiên cứu Sinh thái nhân
văn trong lâm nghiệp cộng đồng là phải xem hệ sinh thái nhân
văn là một phạm trù đặc biệt của hệ sinh thái nói chung hoặc là
một dạng riêng của hệ thống hệ sinh thái, cho nên mọi tác động
vào nó cũng tuân theo quy luật của lý thuyết hệ thống. Vì vậy,
muốn quản lý rừng bền vững thì phải dựa vào tri thức bản địa
của cộng đồng (phong thục tập quán về quản lý rừng) đang sống
dựa vào các hệ sinh thái (vùng núi cao, vùng núi thấp, vùng gò
đồi hay vùng ven biển).
Quan niệm hiện đại về sinh thái học là dựa trên cơ sở lý
thuyết về chu trình năng lượng và nguồn năng lượng được sử
dụng đầu tiên, quan trọng nhất là năng lượng mặt trời. Nguồn
năng lượng này thông qua cây xanh để tạo ra sản phẩm sơ cấp,

từ sản phẩm này tạo ra các sản phẩm thứ cấp để nuôi sống toàn
bộ sinh vật (chuỗi thức ăn và dòng năng lượng trong hệ sinh
thái), cho nên mối quan hệ giữa hệ xã hội và hệ sinh thái, trước
hết và quan trọng nhất là mối quan hệ giữa con người và nguồn
tài nguyên rừng, vì vậy trong hoạt động lâm nghiệp cộng đồng
cần chú ý đến hệ sinh thái nhân văn - dân tộc nào gắn với hệ
sinh thái đó.
37

Trong các thành phần của hệ sinh thái thì khí quyển, đất và
nước là những nguyên liệu sơ cấp, sinh vật là những tác nhân
chuyển hóa nguyên liệu đó thành sản phẩm thứ cấp (là những
sinh vật tự dưỡng, chủ yếu là thực vật).
Trong hệ sinh thái tự nhiên có 5 đặc trưng quan trọng và
những đặc trưng này cũng tồn tại trong hệ sinh thái nhân văn,
đó là:
- Tính hệ thống: Được mô tả như là sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nhân tố hợp thành trong hệ và ngoài hệ. Các đồng bào
dân tộc vùng cao luôn gắn bó mật thiết và có trách nhiệm với
đồng bào vùng xuôi trong quản lý nguồn tài nguyên rừng và
ngược lại.
- Tính đa dạng: Hệ sinh thái rừng có tính đa dạng nhất. Hệ
sinh thái nhân văn cũng rất đa dạng vì nền tảng văn hóa của các
đồng bào dân tộc phụ thuộc vào nguồn tài nguyên mà họ đang
khai thác để sinh sống.
- Tính cân bằng (khả năng tự điều chỉnh): Ở các hệ sinh thái
tự nhiên đều có khả năng tự điều chỉnh, tự điều tiết để đảm bảo
sự tồn tại và phát triển của hệ. Trong hoạt động của con người
cũng luôn tạo ra sự thích nghi với môi trường mới/hệ sinh thái
mới. Tuy nhiên, sự cân bằng chỉ cho phép trong một khuôn khổ

nào đó của hệ sinh thái tự nhiên, nếu con người can thiệp quá
lớn vào hệ sinh thái làm mất tính cân bằng thì cân bằng trong hệ
xã hội cũng khó tồn tại bền vững.
- Tính bền vững: Các hệ sinh thái tự nhiên nếu không có sự
can thiệp của con người thì nó trở nên rất bền vững. Hệ sinh thái
nhân văn cũng có tính bền vững tương đối bởi nó tạo nên từ văn
hóa, dân tộc, thói quen... trong sử dụng tài nguyên.
38


- Tính hiệu quả: Mọi thành phần hợp thành hệ sinh thái (tự
nhiên/ nhân văn) đều có lý do tồn tại và đều có vai trò riêng của
nó, không có gì thừa hoặc vô lý trong sự tồn tại của các nhân tố
tạo nên hệ.
Vì vậy, nếu con người khai thác quá mức hệ sinh thái cho sự
phát triển kinh tế, thì hậu quả môi trường sinh thái sẽ trả lại cho
xã hội/con người những hậu quả khôn lường như sự biến đổi khí
hậu dẫn đến đói nghèo, bất bình đẳng trong xã hội.
1.3. Thực tiễn Lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam
1.3.1. Khái quát về hiện trạng lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam
Lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) ở Việt Nam được hình
thành từ lâu đời và đang trở thành một phương thức quản lý
rừng có hiệu quả được Nhà nước quan tâm, khuyến khích phát
triển. LNCĐ đang là một thực tiễn sinh động mang lại hiệu quả
trong quản lý rừng và phát triển cộng đồng vùng cao.
Nghiên cứu của Nguyễn Bá Ngãi (2001) cho thấy đến tháng
6 năm 2001, các cộng đồng dân cư thuộc 1.203 xã, 146 huyện
của 24 tỉnh đang tham gia quản lý 2.348.288ha rừng và đất chưa
có rừng quy hoạch để trồng rừng, chiếm khoảng 15,5% diện tích
đất lâm nghiệp trong toàn quốc.

Xét về nguồn gốc hình thành rừng và đất rừng do cộng đồng
quản lý và sử dụng có thể từ nhiều nguồn khác nhau:
Thứ nhất, rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và
quản lý từ lâu đời, đó là các khu rừng thiêng, rừng ma, những
khu rừng cung cấp lâm sản truyền thống cho cộng đồng. Việt
Nam có diện tích khoảng 214.000ha, trong đó 86.704ha đất có
rừng, 127.296ha đất trống đồi núi trọc do cộng đồng tự quản lý
(Nguyễn Bá Ngãi, 2001).
39

Thứ hai, rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp
được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng quản lý, sử
dụng ổn định lâu dài. Thực tế ở Việt Nam có khoảng 1.197.961
ha, bao gồm đất có rừng 669.750ha, đất trống khoảng 528.211ha
(Nguyễn Bá Ngãi, 2001).
Thứ ba, rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp
của các tổ chức Nhà nước như Lâm trường, Ban quản lý rừng
đặc dụng và rừng phòng hộ, Ban quản lý các dự án 327, 661...
được giao cho các cộng đồng nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi
và trồng mới theo hợp đồng khoán rừng. Tính đến 2001 có
khoảng 936.327ha, bao gồm đất rừng phòng hộ 494.292ha, đất
rừng đặc dụng 39.289ha và đất rừng sản xuất 402.746ha.
Thứ tư, rừng và đất rừng của hộ gia đình và các nhóm là
thành viên rừng cộng đồng tự liên kết lại với nhau thành cụm
nhóm cộng đồng (nhóm hộ) cùng quản lý nhằm tạo nên sức
mạnh để bảo vệ, hỗ trợ, đổi công cho nhau trong các hoạt động
lâm nghiệp. Đây là hình thức quản lý linh hoạt, đa dạng và phong
phú, hiện chưa có thống kê đầy đủ về diện tích loại hình này.
Các loại rừng cộng đồng hình thành từ các nguồn gốc khác
nhau nhưng đều được 3 chủ thể chính quản lý là cộng đồng dân

cư thôn và dân tộc, nhóm hộ hoặc nhóm sở thích. Đối với rừng
do cộng đồng dân cư thôn và dân tộc quản lý thường ở các vùng
sâu, vùng xa vùng đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với tập
quán truyền thống, điều kiện sản xuất và thị trường kém phát
triển, trình độ quản lý cũng thấp. Đối với rừng do nhóm hộ hoặc
nhóm sở thích cùng nhau liên kết để quản lý thường ở các vùng
sản xuất và thị trường phát triển, đang dần tiếp cận đến sản xuất
hàng hóa, trình độ sản xuất của các hộ nông dân cao, khả năng
đầu tư lớn.
40


Chính từ cơ sở về nguồn gốc hình thành và cách quản lý như
nêu trên, người ta có thể phân chia LNCĐ ở Việt Nam theo 2 xu
hướng phù hợp với điều kiện cụ thể ở từng vùng, đó là: (1)
LNCĐ sử dụng tiếp cận về quản lý và phát triển nguồn tài nguyên
rừng nhằm đáp ứng nhu cầu sinh kế của cộng đồng và (2) LNCĐ
theo tiếp cận quản lý và phát triển nguồn tài nguyên rừng theo
hướng sản xuất hàng hóa theo định hướng thị trường.
Xét về khía cạnh sự tham gia của cộng đồng trong quản lý
nguồn tài nguyên rừng, LNCĐ ở Việt Nam có thể được hiểu trên
hai khía cạnh về sự tham gia của cộng đồng đó là:
(1) Quản lý rừng cộng đồng (CFM- Community Forest
Managemment). Quản lý rừng cộng đồng là cộng đồng quản lý
rừng thuộc sở hữu của cộng đồng hoặc quyền sử dụng chung
của cộng đồng, bao gồm những khu rừng cộng đồng thuộc
nguồn gốc hình thành loại thứ nhất, thứ hai và rừng của hộ gia
đình hoặc cả nhóm thuộc nguồn gốc hình thành thứ tư. Rừng
loại hình quản lý này, cộng đồng vừa là chủ sở hữu vừa là chủ
thể quản lý.

(2) Quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM- Community
Base Forest Management). Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là
khái niệm để chỉ cộng đồng tham gia quản lý rừng thuộc nguồn
gốc hình thành thứ ba (Các tổ chức lâm nghiệp/chủ rừng hợp
đồng với dân về khoán quản lý bảo vệ rừng). Trong trường hợp
này, cộng đồng là một trong những chủ thể quản lý trực tiếp tham
gia và được hưởng lợi trong quá trình nhận khoán (Theo Nghị
định 01/CP năm 1995 về giao khoán đất lâm nghiệp của Chính
phủ). Có thể nói với mức độ tham gia cao của cộng đồng và giám
chia sẻ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước/chủ rừng thi có gọi
đây là hình thức đồng quản lý nguồn tài nguyên rừng.
41

1.3.2. Khung pháp lý và chính sách liên quan đến lâm nghiệp
cộng đồng
Cộng đồng quản lý rừng là một thực tiễn với nhiều hình thái
và cách thức hoạt động khác nhau, nó đòi hỏi phải có khung
pháp lý và hệ thống chính sách phù hợp. Khuôn khổ luật pháp
và chính sách của Chính phủ dần được hình thành và tạo ra cơ
sở pháp lý quan trọng cho việc phát triển LNCĐ. Sự cải tiến của
chính sách lâm nghiệp trong quá trình phát triển về quản lý
nguồn tài nguyên rừng có tác động đến hoạt động LNCĐ được
mô tả trong bảng sau:
Bảng 1.1. Tiến trình phát triển chính sách LNCĐ ở Việt Nam
Giai
đoạn

Diễn giải về phát triển chính sách

Thừa nhận sự tồn tại của rừng cộng đồng. Lâm nghiệp thuộc địa,

Trước
phong kiến thừa nhận rừng cộng đồng truyền thống. Quản lý rừng
năm 1954
cộng đồng dựa trên các hương ước và luật tục truyền thống.

19541975

19761985

42

Không quan tâm đến rừng cộng đồng nhưng tôn trọng cộng đồng
đang quản lý những khu rừng theo truyền thống.
Tập trung thực hiện chính sách cải cách ruộng đất và hợp tác
hóa, tập trung phát triển lâm nghiệp quốc doanh (Lâm trường
quốc doanh) và lâm nghiệp tập thể (Hợp tác xã nông - lâm
nghiệp). Mặc dù không quan tâm lâm nghiệp hộ gia đình và
LNCĐ, nhưng về cơ bản, Nhà nước vẫn tôn trọng cộng đồng vùng
cao quản lý rừng theo phong tục truyền thống, lâm nghiệp hộ gia
đình được xác định là kinh tế phụ.
Quản lý tập Trung và kế hoạch hóa cao độ Lâm nghiệp quốc
doanh và tập thể, trong khi đó rừng do cộng đồng quản lý bị thu
hẹp.
Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Chính phủ chỉ
chú ý phát triển 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể (hợp
tác xã). Lâm nghiệp quốc doanh và lâm nghiệp tập thể phát triển
ở quy mô lớn theo cơ chế kế hoạch hóa, tập Trung cao độ.
LNCĐ và lâm nghiệp hộ gia đình không được khuyến khích phát
triển. Tuy nhiên, một số nơi ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc



vẫn duy trì các khu rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý,
nhưng mức độ tự quản dần bị mai một và lảng quên do thiếu sự
quan tâm của Nhà nước.
Quyết định 184 của Hội đồng Bộ trưởng năm 1982 và Chỉ thị 29
của Ban bí thư năm 1983 về giao đất giao rừng cho các thành
phần kinh tế quốc doanh và tập thể, và bắt đầu chú ý đến hợp
đồng khoán rừng cho hộ gia đình.

Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg về việc thực hiện trách nhiệm
của Nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp, Thông tư
56/TT năm 1999 của Bộ NN&PTNT về hướng dẫn xây dựng quy
ước bảo vệ phát triển rừng trong cộng đồng, Quyết định số
08/2001/QĐ-TTg năm 2001 về quy chế quản lý 3 loại rừng, Quyết
định số 178/2001/QĐ-TTg năm 2001 về quyền hưởng lợi và nghĩa
vụ khi tham gia quản lý rừng.

19861992

Lần đầu tiên Nhà nước đề cập làng bản là chủ rừng hợp pháp đối
với rừng truyền thống của làng bản.
Năm 1986, Chính phủ bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới bằng
việc thừa nhận 5 thành phần kinh tế.
Năm 1988 và năm 1991 lần đầu tiên ra đời Luật Đất đai và Luật
BV&PTR cho phép giao đất, giao rừng cho tổ chức, cá nhân và hộ
gia đình. Lâm nghiệp cộng đồng (làng bản, hộ gia đình) được
thừa nhận.
Ngày 17/1/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) ra Nghị định số 17/HTBT về việc thi hành Luật BV&
PTR xác nhận làng, bản có rừng trước ngày ban hành Luật BV&

PTR là chủ rừng hợp pháp.

Hình thành khung pháp lý cơ bản cho lâm nghiệp cộng đồng
Theo Luật Đất đai mới năm 2003, cộng đồng dân cư thôn được
Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất nông
nghiệp với tư cách là người sử dụng đất. Luật BV&PTR mới năm
2004 có một mục riêng quy định về giao rừng cho cộng đồng dân
Từ 2003 cư thôn; quyền và nghĩa vụ của cộng đồng dân cư thôn được giao
đến nay
rừng.
Luật Dân sự (sửa đổi) tháng 7 năm 2005 thừa nhận khái niệm sở
hữu chung của cộng đồng. Theo đó, cộng đồng dân cư thôn có
quyền sở hữu đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài
sản do các thành viên rừng cộng đồng đóng góp và cùng quản lý,
sử dụng theo thoả thuận vì lợi ích của cộng đồng.

Nguồn: Nguyễn Bá Ngãi, 2002.

19932002

Tăng cường quá trình phi tập Trung hóa trong quản lý rừng, quan
tâm đến xã hội hóa nghề rừng nhưng chính sách đối với LNCĐ
chưa rõ ràng. Ở các địa phương thực hiện nhiều mô hình quản lý
rừng cộng đồng nhưng ở mức độ tự phát hoặc mang tính chất thí
điểm.
Bộ NN&PTNT thành lập Tổ công tác Quốc gia về LNCĐ để triển
khai một số nghiên cứu và tổ chức nhiều hội thảo quốc gia về
LNCĐ.
Nhiều chương trình, dự án quốc tế đã quan tâm đến phát triển
LNCĐ, nhưng về cơ bản LNCĐ chưa được thể chế hóa rõ ràng.

Luật Đất đai (sửa đổi) năm 1993, Nghị định số 02/CP năm 1994
và Nghị định số 163/ CP năm 1999 về giao đất lâm nghiệp đều
không quy định rõ ràng cho đối tượng cộng đồng. Luật Dân sự
năm 1995 không quy định cộng đồng dân cư là một chủ thể kinh
tế có tư cách pháp nhân.
Tuy nhiên trong giai đoạn này nhiều địa phương đã vận dụng một
số văn bản của Nhà nước và của ngành cho phát triển LNCĐ như
Nghị định số 01/CP năm 1995 về giao khoán đất lâm nghiệp, Nghị
định số 29/CP năm 1998 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,

43

Như vậy, đến nay Việt Nam đó có khung pháp lý và chính
sách cơ bản cho phát triển LNCĐ, được thể hiện trong 2 bộ luật
lớn, đó là Luật Đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng (BV&PTR) năm 2004, Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg
năm 2001 và các văn bản chính sách khác... Khung pháp lý và
chính sách này thể hiện các điểm căn bản sau đây:
- Thứ nhất, cộng đồng dân cư là chủ rừng, người sử dụng
rừng có tư cách pháp nhân đầy đủ hoặc không đầy đủ tuỳ theo
từng điều kiện của mỗi cộng đồng và đối tượng rừng được giao
hay nhận khoán rừng.
- Thứ hai, cộng đồng được giao đất, giao rừng, nhận hợp
đồng khoán rừng lâu dài khi đáp ứng các quy định của pháp luật
và chính sách hiện hành như: Khu rừng cộng đồng dân cư thôn
44


đang quản lý sử dụng có hiệu quả; Khu rừng giữ nguồn nước
phục vụ trực tiếp cho lợi ích chung của cộng đồng; Khu rừng

giáp danh giữa các thôn, xã, huyện không thể giao cho tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân mà cần giao cho cộng đồng dân cư thôn để
phục vụ lợi ích của cộng đồng.
- Thứ ba, cộng đồng được hưởng các quyền khi tham gia
quản lý rừng theo quy định của pháp luật như: Được công nhận
quyền sử dụng rừng ổn định, lâu dài phù hợp với thời hạn giao
rừng; Được khai thác, sử dụng lâm sản và các lợi ích khác của
rừng vào mục đích công cộng và gia dụng cho thành viên trong
cộng đồng; Được sản xuất lâm nghiệp - nông nghiệp, ngư
nghiệp kết hợp; Được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư
trên diện tích rừng được giao; Được hướng dẫn về kỹ thuật, hỗ
trợ về vốn theo chính sách của Nhà nước để bảo vệ và phát triển
rừng và được hưởng lợi ích do các công trình công cộng bảo vệ,
cải tạo rừng mang lại; Được bồi thường thành quả lao động, kết
quả đầu tư để bảo vệ và phát triển rừng khi Nhà nước có quyết
định thu hồi rừng.
- Thứ tư, cộng đồng thực hiện nghĩa vụ khi tham gia quản lý
rừng theo quy định của pháp luật như: Xây dựng quy ước bao vệ
va phat triển rừng; Tổ chức bao vệ va phat triển rừng, định kỳ
báo cáo cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về diễn biến tài
nguyên và các hoạt động liên quan đến khu vực; Thực hiện
nghĩa vụ chính trị và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp
luật; Giao lai rừng khi Nha nước co quyết định thu hồi rừng
hoặc khi hết thời hạn giao rừng; Không được phân chia rừng cho
các thành viên rừng cộng đồng dân cư thôn; Không được chuyển
đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, bao lanh, gop vốn kinh
doanh bằng giá trị quyền sử dung rừng được giao.
45

1.3.3. Các hoạt động trong quản lý lâm nghiệp cộng đồng

1). Tiến trình giao đất giao rừng cho cộng đồng.
Hoạt động trong LNCĐ trong những năm gần đây được thể
hiện qua tiến trình giao đất giao rừng cho cộng đồng quản lý bảo
vệ và phát triển, hoạt động này đã được nhiều chương trình, dự
án nghiên cứu thử nghiệm và tổng kết bao gồm các hoạt động
như sau:
(1) Quy hoạch sử dụng đất dựa vào cộng đồng;
(2) Giao đất, giao rừng cho cộng đồng;
(3) Lập kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cộng đồng;
(4) Thiết lập hình thức quản lý rừng cộng đồng;
(5) Xây dựng quy ước bảo vệ rừng cộng đồng;
(6) Thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng;
(7) Thủ tục khai thác chính lâm sản từ rừng cộng đồng;
(8) Thủ tục khai thác gỗ làm nhà từ rừng cộng đồng;
(9) Phát triển nguồn nhân lực cho cộng đồng trong quản lý
rừng;
(10) Xây dựng quỹ bảo vệ và phát triển rừng của thôn;
(11) Giám sát và đánh giá quá trình quản lý rừng cộng đồng.
Hoạt động giao đất giao rừng cho cộng đồng quản lý, bảo vệ
và phát triển đang trong tiến trình thử nghiệm và đúc rút kinh
nghiệm của nhiều dự án khác nhau ở Việt nam, tuy nhiên nó đã
được sự đồng tình cao của các chính quyền địa phương, các cộng
đồng sống gần rừng và đã thực sự không chỉ mang lại hiệu quả
trong quản lý nguồn tài nguyên rừng bền vững mà còn góp phần
xóa đói giảm nghèo cho các cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng.
46


2). Vai trò của các bên có liên quan trong quản lý rừng
cộng đồng.

Quản lý rừng cộng đồng là một hoạt động quan trọng của
LNCĐ, để thực hiện các hoạt động một cách có hiệu quả và bền
vững đòi hỏi phải có sự phối hợp của các bên liên quan (CBLQ).
Trường hợp nghiên cứu quản lý rừng cộng đồng tại các xã vùng
đệm Vườn quốc gia Bạch Mã, huyện Nam Đông, tỉnh Thừa
Thiên Huế về vai trò CBLQ cùng phối hợp tham gia quản lý khu
rừng đặc dụng thể hiện ở sơ đồ 1.3:

Cộng đồng dân cư thôn: Ở Việt Nam, thôn bản không phải
là một đơn vị hành chính, nhưng lại được định nghĩa như một
đơn vị địa lý - nhân văn. Tổ chức cộng đồng thôn bản không
phải là tổ chức chính quyền, nhưng được Nhà nước công nhận
và mang tính tổ chức truyền thống rất cao, bao gồm: Lãnh đạo
thôn (Trưởng thôn); Già làng trưởng bản; Hộ gia đình và cá
nhân, Ban quản lý rừng của thôn bản; Các đoàn thể và tổ chức
quần chúng; Nhóm hộ, nhóm sở thích hay tổ quần chúng bảo vệ
rừng; Khuyến nông lâm viên thôn bản.
Vai trò và trách nhiệm của tổ chức cộng đồng là chủ động
và trực tiếp trong các hoạt động quản lý bảo vệ và phát triển
rừng được Nhà nước giao cho cộng đồng quản lý.
Tổ chức lâm nghiệp xã: Ban lâm nghiệp xã được thành lập ở
một số địa phương dưới sự điều hành chuyên môn của Hạt kiểm
lâm huyện, thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến quản lý rừng
cộng đồng như: Tuyên truyền pháp luật và chính sách, theo dõi
diễn biến tài nguyên rừng, hướng dẫn bảo vệ rừng và phòng chống
cháy rừng, tham mưu và hỗ trợ UBND xã về giao đất giao rừng,
quản lý rừng và ngăn chặn, xử lý vi phạm trong quản lý rừng.
Các cấp chính quyền tỉnh, huyện và xã: Chính quyền các
cấp có vai trò quản lý Nhà nước về lâm nghiệp theo Quyết định
số 245/1998/QĐ-TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tướng Chính

phủ về việc thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cấp
về rừng và đất lâm nghiệp, trong đó cấp xã rất gần với các hoạt
động của LNCĐ, Quyết định này nêu rõ 8 nội dung quản lý Nhà
nước về lâm nghiệp của xã, trong đó có LNCĐ.
Các cơ quan chuyên ngành quản lý lâm nghiệp cấp tỉnh và
huyện: Các cơ quan chuyên ngành cấp tỉnh gồm Sở NN&PTNT,
sở Tài nguyên môi trường, Chi Cục Kiểm lâm và chuyên ngành

Sơ đồ 1.3. Mối quan hệ CBLQ trong QLR cộng đồng
ở vùng đệm huyện Nam Đông.
47

48


cấp huyện gồm Phòng NN&PTNT và Hạt Kiểm lâm có vai trò
trực tiếp xây dựng các chính sách và hỗ trợ, hướng dẫn về
chuyên môn nhằm thúc đẩy cộng đồng quản lý rừng tốt hơn.
Các tổ chức lâm nghiệp Nhà nước: Lâm trường quốc doanh,
Ban quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng là các tổ chức ký
hợp đồng giao khoán rừng với cộng đồng, tư vấn và hỗ trợ kỹ
thuật, đầu tư vốn cho xây dựng và phát triển rừng. Các tổ chức
khuyến lâm và chuyển giao công nghệ như các Trung tâm
khuyến nông, các tổ chức nghiên cứu, đào tạo có nhiệm vụ cung
cấp các dịch vụ hỗ trợ về đào tạo, khuyến lâm và chuyển giao kỹ
thuật cho cộng đồng.
Các tổ chức lâm nghiệp ngoài Nhà nước: Các chương trình,
Dự án quốc tế, các hội, hiệp hội, các tổ chức tư vấn và dịch vụ
tư nhân rừng... đã góp phần tích cực vào việc cung cấp các dịch
vụ hỗ trợ, dịch vụ khuyến nông lâm và chuyển giao kỹ thuật,

đặc biệt đã góp phần thay đổi cách tiếp cận và nhận thức cho
cộng đồng trong quản lý tài nguyên rừng.
Về nguyên tắc, vai trò tác động của Nhà nước đối với quản
lý rừng cộng đồng ở Việt Nam hiện nay thể hiện ở 4 điểm sau:
Thứ nhất, Nhà nước chỉ tạo hành lang pháp lý, không can
thiệp sâu vào những quyết định cụ thể về bảo vệ, phát triển và
sử dụng rừng của cộng đồng. Điểm này thể hiện rõ nét nhất đối
với quản lý những khu rừng làng, rừng bản được cộng đồng
quản lý theo truyền thống, huyết thống trước đây.
Thứ hai, Nhà nước giao đất, giao rừng cho cộng đồng và hỗ
trợ cộng đồng về vốn, kỹ thuật… để quản lý bảo vệ, khoanh nuôi
tái sinh, trồng rừng, khai thác sử dụng rừng theo hướng bền vững.

49

Thứ ba, Nhà nước thông qua các tổ chức của Nhà nước quản
lý về lâm nghiệp, khoán cho các cộng đồng bảo vệ, khoanh nuôi
tái sinh và trồng rừng. Cộng đồng chỉ là người phối hợp, được
hưởng tiền công khoán và một phần sản phẩm trên đất rừng
nhận khoán tuỳ theo thời gian và công sức mà người đó bỏ ra.
Thứ tư, Nhà nước có vai trò điều phối và tạo điều kiện cho
các tổ chức khác cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, ký hợp đồng về
đào tạo, khuyến lâm và chuyển giao kỹ thuật cho cộng đồng
quản lý rừng.
Bên cạnh các tổ chức quản lý lâm nghiệp cộng đồng mang
tính Nhà nước và chính thức như được nêu ở trên mỗi cộng
đồng đều có những thể chế quản lý theo truyền thống ở mức độ
khác nhau. Già làng theo truyền thống, được cộng đồng tự suy
tôn có vai trò lớn trong xử lý các mối quan hệ xã hội trong cộng
đồng, kể cả trong quản lý các hoạt động lâm nghiệp. Nhóm cộng

đồng theo dân tộc cũng có ý nghĩa trong hình thành các rừng
cộng đồng của dân tộc. Hương ước, luật tục và kiến thức bản địa
của cộng đồng có nhiều điểm tích cực cho quản lý rừng. Những
thể chế và tổ chức truyền thống tích cực đó và đang được Nhà
nước Việt Nam thừa nhận và khuyến khích bảo tồn, phát triển
phục vụ cho mục tiêu quản lý cộng đồng nói chung, quản lý
rừng cộng đồng nói riêng.
1.3.4. Những hoạt động thực tiễn của lâm nghiệp cộng đồng ở
Việt Nam
1) Quy hoạch sử dụng đất
Phương pháp quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp có sự tham
gia của người dân, được giới thiệu ở Việt Nam trong nhiều năm
trước đây. Các công cụ đánh giá nông thôn có sự tham gia của
50


×