ĐỀ TÀI
THẨM MỸ CÔNG NGHIỆP ĐỀ CẬP TỚI NHỮNG ĐẶC
TRƯNG CƠ BẢN DESIGN .
MỤC LỤC :
Mở đầu :
1. Lý do chọn đề tài …………………………………………………….
2. Mục đích nghiên cứu ………………………………………………...
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ………………………………………………..
4. Đối tượng và khách thể ………………………………………………
5. Phạm vi nghiên cứu ………………………………………………….
6. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………….
7. Đóng góp đề tài ………………………………………………………
Nội dung :
8. Bố cục :
Chương 1 : Một số khái niệm liên quan đến đề tài …………………….
1.1 Khái niệm về thẩm mỹ ……………………………………………..
1.2 Khái niệm về thẩm mỹ công nghiệp ………………………………
1.2.1 Vai trò của thẩm mỹ công nghiệp
1.3.Khái niệm design ………………………………..
Chương 2 Những đặc trưng cơ bản của design được thẩm mỹ công
nghiệp đề cập .
2.1 Tinh thần thẩm mỹ…………………………………………….
2.2 Tính ứng dụng .
2.3.Tính khoa học và phổ biến .
2.4. Tính thời đại và tính dân tộc
Chương 3 : Để làm một design giỏi cần :
Kết luận ……………………………………………………………..
9. Tài liệu tham khảo …………………………………………………...
10. Phụ lục ………………………………………………………………
MỞ ĐẦU :
1. Lý do chọn đề tài .
Trong thời đại nào văn hoá cũng là nền tảng cho sự phát triển và là yếu
tố phản ánh tŕnh độ phát triển của xă hội. Các giá trị văn hoá được tạo ra
trên cơ sở những hoạt động sáng tạo của con người tác động làm cải biến
và thích ứng với môi trường sống.
Văn hoá Việt Nam được tạo ra bởi con người Việt Nam, là kết tinh của
quá tŕnh lịch sử dựng nước và giữ nước của cả dân tộc. Cong nghệ khoa
hocjngayf cầng phát triển , những sản phẩm mang tính công nghệ cao
được ra đời rất nhiều và đa dạng phong phú mag tính thâm mỹ công
nghiệp cao .Thẩm mỹ công nghiệp được đánh giá như một thước đo
chuẩn mực về cái đẹp trong cuộc sống hiện nay , nó cò đề cập đến những
đặc trưng cơ bản của design . Vì thế em đã chọn đề tài này để nghiên cứu
.2. Mục đích nghiên cứu .
Tìm hiểu những đặc trưng cơ bản của design trong thẩm mỹ công
nghiệp .
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thực trạng : Công nghiệp khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ như vũ
bảo trên toàn cầu , các sản phẩm công nghiệp ngày càng phong phú và đa
dạng . Thẩm mỹ công nghiệp của con người càng đòi hỏi cao hơn .
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .
- Đối tượng : Thẩm mỹ công nghiệp .
- Khách thể : Đặc trưng cơ bản của design .
5. Phạm vi nghiên cứu :
Trong phạm vi nghiên cứu thẩm mỹ công nghiệp .
6. Phương nghiên cứu .
- Nhóm phương pháp lý luận :
+ Phương pháp phân tích – đánh giá .
- Nhóm phương pháp thực tiễn .
+ Phương pháp điều tra – quan sát .
7. Đóng góp của đề tài :
Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành thiết kế .
8. Bố cục :
Chương 3 : Để làm một design giỏi cần :
Kết luận
NỘI DUNG :
Chương 1 : Một số khái niệm liên quan đến đề tài .
1.1 Khái niệm về thẩm mỹ .
Thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ
với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo Cái Đẹp. Trong các hình thức hoạt
động thưởng thức và sáng tạo Cái Đẹp thì nghệ thuật là hình thức biểu
hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ.
Nghệ thuật ra đời từ rất sớm ngay từ khi xã hội chưa phân chia thành giai
cấp. Quá trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động của con người,
với thực tiễn xã hội. Những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật đều thuộc về
thời kỳ con người đã biết sản xuất ra những công cụ bằng đá, bằng
xương, bằng sừng, v.v..
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật bắt nguồn từ tồn
tại xã hội. Khác với khoa học và triết học, phản ánh thế giới hiện thực
bằng khái niệm, phạm trù, quy luật, nghệ thuật phản ánh thế giới một
cách sinh động, cụ thể bằng hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ
thuật tuy cũng phản ánh cái bản chất của đời sống hiện thực nhưng phản
ánh thông qua cái cá biệt, cụ thể - cảm tính, sinh động. Hình tượng nghệ
thuật cũng nhận thức cái chung trong cái riêng, nhận thức cái bản chất
trong cái hiện tượng, nhận thức cái phổ biến trong cái cá biệt, song cái cá
biệt trong nghệ thuật phải là cái cá biệt có tính điển hình và nếu nhà nghệ
thuật tạo ra cái điển hình thì phải là cái điển hình đã được cá biệt hóa.
Sự phát triển của nghệ thuật, cả nội dung và hình thức, không thể tách
khỏi sự phát triển của tồn tại xã hội. Nhưng nghệ thuật có tính độc lập
tương đối rất rõ nét trong sự phát triển của mình. Nó không phải bao giờ
cũng phản ánh tồn tại xã hội một cách trực tiếp, dễ thấy.
C.Mác viết: "Đối với nghệ thuật, người ta biết rằng những thời kỳ hưng
thịnh nhất của nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát triển chung của
xã hội, do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất
của xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã
hội"1.
Nghệ thuật chân chính gắn bó với đời sống hiện thực của nhân dân; là
nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội thông qua việc đáp ứng những
nhu cầu thẩm mỹ của con người. Khi phản ánh thế giới hiện thực trong
các hình tượng nghệ thuật chân thực và có giá trị thẩm mỹ cao, nghệ thuật
đã tác động đến lý trí và tình cảm của con người, kích thích tính tích cực
của con người, xây dựng ở con người những hành vi đạo đức tốt đẹp.
Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của nghệ thuật biểu hiện trước hết ở chỗ nó không thể
không chịu sự tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của
một giai cấp, không thể đứng ngoài chính trị và các quan hệ kinh tế.
Trong xã hội chia thành các giai cấp mà phủ nhận mối liên hệ của nghệ
thuật với chính trị thì hoàn toàn sai lầm.
Khi nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật trong xã hội có giai cấp, quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin không phủ nhận tính nhân loại chung
của nó. Không ít tác phẩm nghệ thuật mà giá trị của chúng được lưu
truyền khắp thế giới qua các thời đại, mặc dù tác giả là đại biểu của một
giai cấp nhất định. Có những nền nghệ thuật của một dân tộc nhất định
nhưng đã trở thành những giá trị văn hóa tiêu biểu của cả nhân loại. Tính
giai cấp của nghệ thuật cách mạng và tiến bộ không những không mâu
thuẫn với tính nhân loại, mà ngược lại còn làm sâu sắc những giá trị toàn
nhân loại.
1.2 Khái niệm về thẩm mỹ công nghiệp.
Thẩm mỹ công nghiệp là hoạt động sáng tạo nhằm mục đích thiết lập một
môi trường đồ vật hài hoà thoả mãn đầy đủ nhất về các nhu cầu về vật
chất và tinh thần của con người. Mục đích đó đạt đựơc bằng cách xác lập
các chất lượng hình thúc của đồ vật đựơc tạo bởi nền sản xuất công
nghiệp.
Thẩm mỹ công nghiệp là vạch phổ giao thoa giữa cái đẹp của lĩnh vực
văn hoá vật thể và cái đẹp của kỹ thuật ứng dụng.
1.2.1 Vai trò của thẩm mỹ công nghiệp .
Thẩm mỹ công nghiệp là một môn khoa học nghiên cứu về cái đẹp của
sản phẩm thuộc lĩnh vực vật dụng và phương tiện phục vụ đời sống, nhất
là các sản phẩm đựơc sản xuất bằng dây chuyền công nghiệp và công
nghiẹp hiện đại.
Nắm vững đựơc thẩm mỹ công nghiệp giúp chúng ta tạo dựng được thế
giới vật thể thứ hai hài hoà trong tính chất nhân văn và tính chất thực
dụng của các phương tiện sống. Với bản chất đó cũng như các bộ môn
thuộc lĩnh vực thẩm mỹ khác, môn thẩm mỹ công nghiệp truớc hết đề cập
đến việc nghiên cứu về cấp độ của cái đẹp đáp ứng nhu cầu về văn hoá
tinh thần trong đời sống con ngừơi của các sản phẩm. Mặt nữa, nó cũng
xem xét đến các góc độ có liên quan tới một số lĩnh vực khoa học xã hội
khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật khác của các sản phẩm ấy.
Thẩm mỹ công nghiệp có giá trị giáo dục cải tạo xã hội một cách thẩm
thấu và thẩm mỹ công nghiệp là một trong những chỉ tiêu để đánh giá
chất lượng của sản phẩm.
Cac-Mac đã nói : " Con ngươì luôn nhào nặn vật chất theo qui luật của
cái đẹp ". Những vật dụng đầu tiên đuợc con người làm ra do nhu cầu về
chức năng sử dụng hoặc do kỹ thuật trong quá trình chế tác cũng đã có
những vẻ đẹp nhất định. Trong quá trình phát triển tiếp theo của việc sản
xuất, nhu cầu về cái đẹp trở thành không thể thiếu từ đó tạo nên nền tảng
của của lĩnh vực thẩm mỹ ứng dụng là tiền đề phát triển của lĩnh vực
thẩm mỹ công nghiệp khi xã hội hình thành nền sản xuất công nghiệp.
Trong lĩnh vực thẩm mỹ công nghiệp cái đẹp trong quá trình sáng tạo
không phụ thuộc hoàn toàn vào chủ thể sáng tạo như trong lĩnh vực nghệ
thuật tạo hình. Một số nguyên lý thẩm mỹ cũng không được mở rộng như
ở một số lĩnh vực nghệ thuật khác. Tuy nhiên, không vì thế mà ảnh huởng
lớn đến cá tính, phong cách, thể loại cũng như các trào lưu khuynh hướng
tìm tòi tạo dáng của các nhà design.
1.3.Khái niệm design.
Design chính là quá trình thai nghén để có được một sản phẩm tốt và tồn
tại lâu dài trong lòng công chúng.
Nhiều người cho rằng design là một cái gì đó cao cấp, sang trọng. Nhưng
thực tế không phải vậy. Đây là một từ tiếng Anh được dùng vào thế kỷ 17
để chỉ bố cục của một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng nguồn gốc thật sự của
design là từ tiếng La tinh: designare, vừa có nghĩa là vẽ, vừa có nghĩa là
có một ý định. Theo thời gian, chữ design được sử dụng song hành với
trào lưu của cuộc cách mạng công nghiệp.
Chữ design tự thân nó đã mang một ý nghĩa quốc nội, thể hiện quốc hồn
quốc tuý của một quốc gia. Nếu như người Anh có những cabin điện
thoại công cộng sơn màu đỏ, người Đức có các sản phẩm điện gia dụng
Braun, thì người Pháp có chiếc nồi Le Creuset. Mỗi một sản phẩm này
đều được xem là hình ảnh của đất nước và được cả thế giới biết đến. Vì
thế, ở ngữ nghĩa chung nhất, từ design không bao giờ đại diện cho một
cái gì gọi là cao sang mà bao gồm tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống hàng
ngày, từ việc sử dụng chất liệu cho đến các công đoạn tạo dáng sản phẩm.
Đây là một công việc phức tạp và đòi hỏi tính sáng tạo cao. Khi xuất bản
bộ sách về design, giám đốc Emilia Terragni giải thích: Chúng ta ngày
càng đòi hỏi cao hơn khi lựa chọn các sản phẩm trên thị trường, và đôi
khi chọn sản phẩm chỉ vì yêu thích thương hiệu đó mà thôi. Từ đó có thể
nghiệm ra rằng đằng sau một chiếc ghế, một chiếc đèn bàn, một chiếc
đồng hồ đều ẩn chứa ý nghĩa chuyển tải rất súc tích và dấu ấn của cả một
thời đại, một xã hội và một tâm hồn.
Như vậy, chuyên viên design gánh vác một trách nhiệm nặng nề. Họ có
nhiệm vụ phải luôn tự vấn mình về ý nghĩa hữu dụng và giá trị tinh thần
của một sản phẩm, sao cho sản phẩm đó phải có chất lượng tốt và thoả
mãn được các tiêu chuẩn cơ bản nhất của thời đại mà nó được tạo ra. Nói
tóm lại, Design chính là quá trình thai nghén để có được một sản phẩm
tốt và tồn tại lâu dài trong lòng công chúng.
Chương 2 Những đặc trưng cơ bản của design được thẩm mỹ công
nghiệp đề cập .
2.1 Tính thẩm mỹ.
Đồ hoạ góp phần nâng cao thẩm mỹ trong cuộc sống: Yếu tố thẩm mỹ
và ứng dụng thực tế là thuộc tính hàng đầu của đồ họa ứng dụng. Mỗi ấn
phẩm đồ hoạ có mặt trong cuộc sống đều để lại dấu ấn thẩm mỹ và tư duy
sáng tạo của hoạ sĩ đồ hoạ (designer). Nó góp phần cho đời sống xã hội
nâng cao từng ngày, Vì vậy về mặt thẩm mỹ đồ hoạ luôn được chú trọng
một cách tương xứng cùng với yếu tố kỹ thuật, hiệu quả kinh tế và chi phí
in ấn quảng cáo quá trình thiết kế một dự án đồ họa. Đó là chi phí dành
cho thiết kế, dành cho quảng cáo, in ấn… cần phải được xem xét đúng
mức.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về thị hiếu thẩm mỹ của con người dù
ở góc độ cá nhân hay xã hội. Có quan điểm tuyệt đối hoá vai trò của thị
hiếu cá nhân, năng lực bẩm sinh của cá nhân, hoặc tuyệt đối hoá thị hiếu
xã hội của các cộng đồng người như giai cấp, dân tộc, thời đại. Chẳng
hạn, Môngteskiơ cho rằng thị hiếu thẩm mỹ là “cái thu hút chúng ta chú ý
tới đối tượng bằng tình cảm”. Ngược lại Rútxô coi: “Thị hiếu thẩm mỹ là
năng lực nhận xét về cái mà đông đảo mọi người thích hay không thích”.
Còn Cantơ nhận thấy tính phức tạp và tính cá nhân của thị hiếu thẩm mỹ,
nên cho rằng “về thị hiếu không nên bàn cãi”.
Thực ra, tính thẩm mỹ vừa mang tính cá nhân và tính xã hội, là mối quan
hệ giữa cái riêng và cái chung và nó phụ thuộc vào những điều kiện lịch
sử xã hội nhất định. Tính thẩm mỹ mang dấu ấn cá nhân, là sở thích của
cá nhân, nhưng đồng thời nó mang tính xã hội sâu sắc và phụ thuộc vào
thị hiếu chung của xã hội theo những chuẩn mục của hoạt động đánh giá
thẩm mỹ của xã hội. Chẳng hạn, thời nguyên thủy khi tồn tại chế độ mẫu
hệ, lúc đó thị hiếu thẩm mỹ của toàn bộ bộ tộc hướng đến cái đẹp của
hình tượng người đàn bà theo chủ nghĩa phồn thực.Trong nền văn hoá Hy
Lạp – La mã cổ đại thì đó là hình tượng người anh hùng, nhà triết học,
nhà quán quân thể thao. Thời kỳ trung cổ là cái đẹp và quyền năng tối
thượng của Chúa. Thời kỳ phục hưng là sự ngưỡng mộ cái đẹp trong con
người đầy đặn, phúc hậu, những vẻ đẹp thuần khiết, thanh tao mang tính
bản thiện, trong sáng nhưng khổng lồ. Và trong thời đại văn minh của thế
kỷ XXI, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và vai trò của
nền kinh tế tri thức, tính chất toàn cầu hóa cũng làm xuất hiện những thị
hiếu thẩm mỹ mới có tính chất đa dạng và phong phú hơn, nhất là đề cao
yếu tố tri thức của con người.
Thực chất, tính thẩm mỹ không phải là năng lực bẩm sinh hoặc thần bí và
bất biến. Tính thẩm mỹ là thái độ tình cảm khiến người ta phải đánh giá
trực tiếp, tức thời trước cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống và
nghệ thuật. Vì vậy, thị hiếu thẩm mỹ biểu hiện thế giới quan, nhân sinh
quan, trình độ tâm lý - xã hội của chủ thể khi thẩm định những giá trị
thẩm mỹ. Tính thẩm mỹ không chỉ được quyết định bởi những đặc điểm
của khách thể được cảm thụ còn bởi tính chất của chủ thể thụ cảm, đánh
giá, sáng tạo. Trong thị hiếu thẩm mỹ bao giờ cũng bao hàm sự thống
nhất giữa yếu tố khách thể và chủ thể…
Xuất phát từ quan điểm thực tiễn của mỹ học hiện đại, chúng ta thấy có
hai loại thị hiếu thẩm mỹ bắt nguồn từ hai quan hệ cơ bản của đời sống.
Một loại thị hiếu thẩm mỹ bắt nguồn từ đời sống thực tế, từ trong lao
động sản xuất và đấu tranh xã hội thường đánh giá đúng hơn các chân lý
sinh động của cuộc sống. Ngược lại, loại thị hiếu không bắt nguồn từ
cuộc sống, xa rời nghệ thuật lành mạnh là loại thị hiếu phiến diện, không
có khả năng đánh giá đúng giá trị và hướng phát triển của thị hiếu thẩm
mỹ. Hay nói một cách khác tiêu chuẩn để phân biệt thị hiếu tốt với thị
hiếu tồi là ở chỗ, sự đánh giá thị hiếu có phù hợp với những giá trị thẩm
mỹ khách quan hay không.
Một thị hiếu tốt là năng lực có được khoái cảm do cái đẹp chân chính đưa
lại, là nhu cầu thụ cảm và sáng tạo cái đẹp trong lao động, trong sinh hoạt
hàng ngày, trong hành vi, cư xử của con người ở trong cuộc sống và trong
nghệ thuật. Cơ sở hình thành của một thị hiếu thẩm mỹ tốt là cảm xúc
thẩm mỹ phát triển cao, là cảm xúc về tính mực thước, là khả năng biết
thụ cảm sự hài hoà giữa hình thức và nội dung, biết nhận ra giá trị thẩm
mỹ của các hiện tượng xã hội, của các tác phẩm nghệ thuật dưới ánh sáng
của lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến.
thẩm mỹ là sự đánh giá trực tiếp, tức thời hoặc là sự phản ứng mau lẹ
Đặc điểm nổi bật của thị hiếu thẩm mỹ nó thể hiện trong hình thức đánh
giá trực tiếp, tức thời hoặc là sự phản ứng mau lẹ đối với các hiện tượng
thẩm mỹ của cuộc sống và nghệ thuật. Đối với những hiện tượng thẩm
mỹ của cuộc sống, con người có khả năng đánh giá trực tiếp về cái đẹp,
cái xấu, cái bi, cái hài cái cao cả; vì rằng chúng liên quan trực mật thiết
với đời sống con người, là một giá trị xã hội rộng rãi và lại thể hiện trong
các sự vật, hiện tượng cá biệt, có hình tượng cụ thể cảm tính.
Nghệ thuật với những hình tượng cụ thể cảm tính – sinh động, có tính
khái quát và điển hình hoá luôn mang lại cho người đọc, người nghe,
người xem có thể biểu lộ sự đánh giá trực tiếp, tức thời bằng sự phản ứng
mau lẹ gần như bản năng của chủ thể thẩm mỹ.
Thị hiếu thẩm mỹ là sự đánh giá trực tiếp, tức thời bao hàm sự tổng hợp
các yếu tố tình cảm – lý trí – kinh nghiệm phán đoán, đánh giá các hiện
tượng thẩm mỹ. Cần phải xác định tính chất trực tiếp của phán đoán thị
hiếu thẩm mỹ cũng chỉ có tính chất tương đối. Phán đoán thị hiếu là kết
quả của sự tác động qua lại giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính,
nhưng nó không bó hẹp trong cảm xúc thuần túy hoặc tư tưởng thuần túy.
Mặc dầu sự biểu lộ sự đánh giá thị hiếu thẩm mỹ mang tính trực tiếp, cụ
thể – cảm tính, nhưng trong sự đánh giá này luôn là những cảm xúc, cảm
nghĩ trong sự thống nhất của tình cảm – lý trí – kinh nghiệm sống của chủ
thể đánh giá thị hiếu thẩm mỹ.
Qua sự đánh giá “thích” hoặc “không thích” có biểu lộ những cảm xúc,
tình cảm thẩm mỹ nhất định về những đối tượng thẩm mỹ không chỉ đơn
thuần chỉ do ý thích, tình cảm riêng tư của cá nhân, mà chủ yếu là do ý
thức chính trị, nhân sinh quan, quan điểm đạo đức, lý tưởng thẩm mỹ và
trình độ văn hoá chung của mỗi cá nhân. Thật khó giải thích được tại sao
tôi thích cái này, anh thích cái kia, nhưng trong nghệ thuật thì không thể
chỉ do sở thích cá nhân mà do thị hiếu thẩm mỹ của mỗi cá nhân và tại
sao chỉ là những thị hiếu thẩm mỹ đó mà không phải là một cái gì khác?
Điều này chỉ có thể giải thích là thị hiếu cá nhân có tính xã hội.
Sẽ không đúng nếu nghĩ rằng sự phản ứng mau lẹ trong phán đoán thị
hiếu lần đầu chúng ta hoàn toàn dựa vào tình cảm trực tiếp gần như bản
năng, còn phán đoán lần sau hoặc tiếp theo chúng ta mới dựa vào lý trí.
Thực ra qua thời gian, do kinh nghiệm và quá trình tích lũy những kinh
nghiệm, những giá trị thẩm mỹ đã tạo thành tính ổn định trong thị hiếu.
Chính tính ổn định này đã giúp cho chủ thể thẩm mỹ phản ứng mau lẹ,
đúng đắn trước các hiện tượng thẩm mỹ xảy trong cuộc sống và trong
nghệ thuật.
Những phán đoán và đánh giá thị hiếu thẩm mỹ bao giờ cũng mang tính
chất cá nhân – tình cảm không lặp lại. Chính điều này đã tạo nên sự đa
dạng, phong phú của thị hiếu thẩm mỹ trong xã hội. Trong thị hiếu thẩm
mỹ, ở mỗi người đều mang sự thích thú cá nhân và phản ứng trực tiếp,
tức thời, mau lẹ trước các đối tượng thẩm mỹ. Người thích sân khấu, kẻ
yêu ca nhạc, người mê thơ, văn chương, hội họa; lại có người thích chơi
hoa, chim cảnh. Thậm chí trước các hiện tượng thẩm mỹ cụ thể, mỗi cá
nhân lại rung động có những cảm xúc, cảm nghĩ khác nhau, vì nó thường
phụ thuộc vào trạng thái tâm lý tình cảm cá nhân lúc cảm thụ, đánh giá.
Mặc dù thị hiếu thẩm mỹ mang tính cá nhân, song những phán đoán,
đánh giá thị hiếu thẩm mỹ lại bị chi phối bởi những quan điểm thẩm mỹ,
quan điểm chính trị, đạo đức, triết học và suy cho cùng chính tính xã hội
của thị hiếu thẩm mỹ lại có ý nghĩa định hướng những giá trị của mỗi cá
nhân thành giá trị chung của toàn bộ xã hội. Do đó, xây dựng một thị hiếu
thẩm mỹ tốt thì giáo dục thẩm mỹ luôn phải gắn bó trực tiếp, chặt chẽ với
giáo dục kiến thức, chính trị, đạo đức, triết học, khoa học, tôn giáo.
Tính xã hội của thị hiếu thẩm mỹ là tính giai cấp, dân tộc. Trong xã hội
có giai cấp thì thị hiếu thẩm mỹ mang tính giai cấp. Vì nó phản ánh tình
cảm, thị hiếu, quan điểm và lý tưởng thẩm mỹ của giai cấp khác nhau.
Mỗi giai cấp đều có mục đích riêng, tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ
mang đậm tính mục đích và lợi ích của giai cấp. Sẽ không đúng nếu
chúng ta cho rằng thị hiếu không liên quan trực tiếp đến đấu tranh xã hội;
mà ngược lại, những xung đột chính trị, thực chất đó chính là những biểu
hiện tập trung của tập đoàn xã hội này, hay tập đoàn xã hội khác trước
những hiện tượng thẩm mỹ nổi bật trong cuộc sống cũng như trong nghệ
thuật. Lợi ích của các giai cấp khác nhau không chỉ được củng cố bằng
các thiết chế chính trị, lập pháp, hệ tư tưởng thống trị, mà còn có sự tham
gia khẳng định những tiêu chí thẩm mỹ.
Tính giai cấp của thị hiếu thẩm mỹ không có nghĩa là sự thẩm định thẩm
mỹ bao giờ cũng đối kháng nhau, có cái đẹp phổ biến thì cũng có thị hiếu
phổ biến, còn yếu tố khác nhau là ở sự lựa chọn giá trị thẩm mỹ, là do lợi
ích giai cấp qui định.
Do điều kiện tự nhiên và sinh hoạt xã hội mà mỗi dân tộc hình thành
những phong tục tập quán riêng biệt. Các tình cảm – xúc cảm, cách nghĩ
của mỗi dân tộc đều in đậm dấu ấn của nền kinh tế, lãnh thổ, ngôn ngữ,
văn hoá và lịch sử hình thành nên thị hiếu thẩm mỹ của các dân tộc.
Đất nước ta luôn đương đầu với hiểm họa thiên nhiên và ngoại xâm, từ đó
người Việt Nam hình thành nên tình cảm thiết tha yêu quê hương đất
nước, yêu con người và thiên nhiên, trân trọng những đức tính cần cù,
giản dị, kiên cường, bất khuất. Thị hiếu thẩm mỹ Việt Nam hình thành
lâu đời trong môi trường thiên nhiên – xã hội – văn hoá.
Do ảnh hưởng của nền nghệ thuật truyền thống, trữ tình và anh hùng ca,
người Việt Nam có tâm hồn tế nhị, nhạy cảm, nhuần nhụy. Khi nói đến
con người Việt Nam dũng cảm trong chiến đấu, thông minh trong lao
động; có tâm hồn phong phú, yêu đời, lạc quan, trào lộng; nhạy cảm về
thị hiếu thẩm mỹ, phê phán cái xấu, khuyến khích cổ vũ cái đẹp.
Thị hiếu thẩm mỹ truyền thống của con người Việt Nam là một thị hiếu
tinh tế hướng tới cái thanh tao, trang nhã gắn với thiên nhiên, hoà vào
thiên nhiên, hướng tới một cái đẹp bình dị, hồn nhiên yêu đời như bản
thân cuộc sống vốn rất vất vả, nhưng yêu lao động, yêu thiên nhiên và
yêu con người. Thị hiếu về mầu sắc: thích mầu sắc dịu dàng, nhẹ nhàng,
sáng sủa, thanh nhã, hài hoà, ưa thích những mầu sắc của thiên nhiên có
nguồn gốc từ thiên nhiên.
Chính vì vậy, nghệ thuât chơi hoa cũng tương ứng với mằu sắc nhẹ nhàng
có gam mầu nhạt và thanh vốn có của thiên nhiên. Thị hiếu về âm thanh,
nhịp điệu: thích giai điệu êm ả, dịu dàng, mượt mà nhưng lắng đọng có
âm sắc từ thiên nhiên, rút ra từ chất liệu thiên nhiên để tạo ra nhưng
nhạc cụ truyền thống như: đàn nhị, đàn tranh, đàn nguyệt cầm, đàn bầu,
sáo trúc mà âm huởng của nó khi vang lên có âm hưởng của gió, của
mưa, của tiếng sóng vỗ, tiếng chim hót như lan toả, như vang vọng đâu
đó hơi thở của cuộc sống.
Kinh tế thị trường, cố nhiên, cũng đòi hỏi một hệ giá trị và những chuẩn
mực mới thích ứng với nó. Bởi vậy, nghệ thuật tham gia việc mở rộng hệ
giá trị tinh thần của dân tộc bao gồm cả sự du nhập những tinh hoa của
nhân loại, những giá trị phổ biến của thời đại là tất yếu. Nhưng cũng cần
phải thấy rằng sự tiếp thu những giá trị tinh thần qua kết qủa của giao lưu
văn hóa, nghệ thuật với nước ngoài, thực sự có ý nghĩa trong chừng mực
chúng hòa nhập vào bảng giá trị tinh thần dân tộc như những thành tố hữu
cơ. Nói cách khác, chỉ có thể tiếp nhận những giá trị, những chuẩn mực
giá trị bên ngoài nào mà sự hiện diện của chúng không phá vỡ sự ổn định
và tính hiện đại của những giá trị truyền thống. Đồng thời, cần phát huy
và nâng cao, đổi mới những giá trị truyền thống, khắc phục những cái đã
lỗi thời, những phản giá trị ngoại nhập.
Phát huy những giá trị thẩm mỹ truyền thống, một mặt phải xét đến thành
quả được kết tinh trong truyền thống dựng nước và giữ nước cũng như
trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. Nhân dân ta luôn đưa cả trí
tuệ, tài năng và tâm hồn vào qúa trình lao động và sáng tạo để tạo ra
những sản phẩm vật chất mỗi ngày một tốt hơn, tiện lợi hơn và đẹp hơn.
Qúa trình đó luôn in đậm dấu ấn của đức tính cần cù, thông minh, khéo
léo với óc thẩm mỹ tinh tế rất đặc thù của con người Việt Nam. Nhưng ở
qúa trình đó cũng phải thấy được những mặt hạn chế của những khuôn
mẫu đã định sẵn trong các dấu ấn của những kinh nghiệm, những thói
quen tâm lý, phong tục tập quán của truyền thống.
Giá trị thẩm mỹ là một giá trị tinh thần, nó đáp ứng nhưng nhu cầu tinh
thần của con người. Con người chỉ trở thành chủ thể thẩm mỹ khi đã
thoát khỏi trạng thái động vật, khi đã có khả năng nhận thức, đánh giá và
cải tạo hiện thực khách quan theo những qui luật của cái đẹp.
Quan hệ thẩm mỹ xét cho cùng là việc thỏa mãn những nhu cầu tinh thần
mang lại khoái cảm thẩm mỹ là khoái cảm tinh thần mặc dầu nó gắn liền
trực tiếp hoặc gián với cái có ích mang tính thực dụng.
Trong quá trình phát triển của lịch sử, mối quan hệ giữa cái thẩm mỹ và
cái có ích càng ẩn kínhơn song nguyên tắc của nó không mất đi. Do tính
yêu cầu của tính hữu ích, thực dụng mà sự hoàn thiện các công cụ, đồ vật
về mặt hình thức, kết cấu mầu sắc trở thành yếu cầu bắt buộc trong quá
trình sáng tạo và đánh giá sản phẩm lao động. Nhưng chính sự hoàn thiện
(hợp lý) của hình thức, kết cấu, mầu sắc trên sản phẩm của lao động lại
tạo ra xúc cảm thẩm mỹ, tạo ra một cách tự nhiên những thuộc tính thẩm
mỹ của đối tượng; đồng thời tạo ra những nhu cầu thẩm mỹ hơn nữa,
nghĩa là hoàn thiện hơn nữa về mặt thẩm mỹ của các sản phẩm lao động
hoặc kể cả trong qúa trình chiếm hữu thẩm mỹ đối với hiện thực.
Như vậy, sự thưởng ngoại thẩm mỹ, đánh giá thẩm mỹ đối với các hiện
tượng thẩm mỹ nói chung và tác phẩm nghệ thuật nói riêng có quan hệ
với cái thực dụng – cái hữu ích; nhưng không gắn liền trực tiếp với với
lợi ích thực dụng, song mục đích cuối cùng là thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ,
một nhu cầu tinh thần cao qúi chỉ có ở con người.
2.2 Tính ứng dụng .
Đồ họa ứng dụng luôn gắn liền với cuộc sống: Mọi hoạt động sinh hoạt
trong cuộc sống diễn ra chung quanh ta từ các lãnh vực kinh tế, xã hội,
văn hoá, chính trị, y tế, giải trí… luôn có sự góp mặt của đồ hoạ ứng
dụng. Chúng ta dễ dàng nhận ra qua những ấn phẩm rất gần gũi và thân
thiện như thiệp mời, danh thiếp, hay những tờ gấp quảng cáo, trên vỏ
đựng sản phẩm (bao bì), logo…hoặc trên những ấn phẩm mang giá trị
tinh thần như bìa sách, truyện tranh… hay góp phần thông tin quảng bá
thương hiệu, sản phẩm… đến người tiêu dùng qua các kênh truyền thông
khác: poster, truyền hình, internet…
2.3.Tính khoa học và phổ biến .
Ngoài các kỹ năng chung bao gồm kỹ năng quản lý, thực hiện đánh giá
trong lĩnh vực Mỹ thuật công nghiệp; xây dựng chí tiêu quản lý lĩnh vực
Mỹ thuật công nghiệp; xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch lĩnh vực
Mỹ thuật công nghiệp trong doanh nghiệp; dự toán kinh phí, kỹ thuật,
thiết bị và nhân lực, thời gian, kỹ năng điều hành, phân công, giám sát và
phối hợp với các bộ phận, tổ chức tập huấn và huấn luyện, kỹ năng cập
nhật và thống kê thông tin về pháp luật, kỹ thuật và công nghệ mới;
phương pháp quản lý; kinh nghiệm trong và ngoài nước liên quan đến Mỹ
thuật công nghiệpthực hiện phân tích, đánh giá và điều chỉnh phù hợp,
các cử nhân tốt nghiệp còn được trang bị các kỹ năng chuyên ngành:
- Kỹ năng chuyên ngành Đồ họa: vẽ người, đồ vật, động vật, phong
cảnh… bằng tay. Sử dụng và thiết kế chữ chuẩn xác. Kỹ năng in ấn. Khả
năng tìm ý tưởng, nhanh nhạy sáng tạo thiết kế đối với sản phẩm. Sử
dụng thành thạo các phần mềm Corel, Photoshop, Illustrator…, chụp ảnh
Chuyên ngành Đồ họa: vẽ người, đồ vật, động vật, phong cảnh… bằng
tay. Sử dụng và thiết kế chữ chuẩn xác. Kỹ năng in ấn. Khả năng tìm ý
tưởng, nhanh nhạy sáng tạo thiết kế đối với sản phẩm. Sử dụng thành
thạo các phần mềm Corel, Photoshop, Illustrator…, chụp ảnh.
- Chuyên ngành Nội thất: nhạy bén và có vốn sống trong việc cảm nhận
không gian nội thất trong kiến trúc. Các kỹ thuật cơ bản về kết cấu kiến
trúc, đồ gỗ, sắt thép và các vật liệu xây dựng khác. Đọc hiểu các bản vẽ
kiến trúc và xây dựng. Vẽ tay, thiết kế nhanh vả xử lý tình huống phát
sinh trong quá trình thiết kế và chế tạo sản phẩm. Chịu được áp lực và
cường độ cao trong công việc. Sử dụng thành thạo các phần mềm vi tính
3DSMax, Autocad …
- Chuyên ngành Tạo dáng: thiết kế bằng tay tạo ý tưởng và sáng tạo
nhanh nhạy. Nắm vững quy trình thiết kế cơ bản, phương pháp gia công
các loại vật liệu, quy trình sản xuất sản phẩm tự tạo mẫu, khuôn đúc, kết
cấu thành phẩm. Chịu được áp lực và cường độ cao trong công việc. Sử
dụng thành thạo các phần mềm vi tính 3DSMax, Autocad …
- Chuyên ngành Thiết kế nhạy bén trong thiết kế nhanh tạo ý tưởng sáng
tạo trang phục.Có khả năng dựng mẫu, rập cắt may đo và tự may sản
phẩm. Nắm vững các kỹ thuật cơ bản về kết cấu các thể loại trang phục
phù hợp với các vật liệu vải và các chất liệu được sử dụng cho các ngành
thời trang cũng như các phụ kiện tóc, trang điểm, giày dép, túi xách …Có
kỹ năng vẽ tay, thiết kế trên máy vi tính bằng các phần mềm phù hợp
Nếu sức ỳ tâm lý của bạn vẫn còn lớn, e rằng đến bây giờ bạn lại "mặc
định" rằng vậy ra "nghĩ sáng tạo", nói vòng vo mãi, cuối cùng cũng chỉ
để... giải các câu đố!!!
Bạn hãy nghe câu chuyện này. Có 2 người làm bánh quế, với chất lượng
và giá cả như nhau. Khi mọi người chán ăn bánh quế và không mua nữa,
một người bán chẳng biết làm sao và bỏ nghề. Trong khi đó, người còn
lại đã "thiết kế" bánh quế kiểu mới bằng cách cuộn tròn nó lại theo hình
nón và tạo ra một sản phẩm mới hoàn toàn: ốc quế cho kem.
Như vậy, người bán hàng thứ nhất đã không thể đi tiếp được, còn người
thứ hai đã chuyển dịch ra ngoài giới hạn và những mặc định thông
thường.
Nếu không có sự "nghĩ sáng tạo" của người thứ hai, hẳn bây giờ chúng ta
vẫn chỉ biết ăn kem que hoặc dùng thìa múc từ cốc (hoặc nếu không có ai
nghĩ sáng tạo từ ban đầu thì có thể chúng ta thậm chí còn chẳng có kem
mà ăn!).
Khả năng nghĩ sáng tạo càng trở nên cực kỳ quan trọng trong thế giới
kinh doanh thay đổi nhanh chóng như hiện nay.
- Tính phổ biến : Mỗi một sản phẩm những thuận lợi , phải bền đẹp .
Thuận lợi trong sử dụng
2.4. Tính thời đại và tính dân tộc
Ở các dân tộc khác nhau, mối quan hệ thẩm mỹ cũng không thể không
mang tính dân tộc. Cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài cái cao cả có một số
nét chung của nhân loại nhưng nó vẫn mang tính độc đáo của từng dân
tộc, làm cho bản sắc văn hoá của các dân tộc cũng khác nhau. Do trình độ
phát triển xã hội khác nhau và các phong tục tập quán khác nhau đã tạo
nên các quan hệ thẩm mỹ, nhu cầu, tình cảm, thị hiếu và lý tưởng thẩm
mỹ khác nhau. Sự khác nhau về các quan hệ thẩm mỹ của các dân tộc
không chỉ khác nhau về trình độ, mà còn khác nhau về hệ giá trị.
Không thể nói các quan hệ thẩm mỹ của dân tộc này thấp hơn các
quan hệ thẩm mỹ của dân tộc kia, mà phải nói giá trị thẩm mỹ của dân tộc
này khác với giá trị thẩm mỹ của dân tộc kia. Chẳng hạn, việc coi trọng
tính thực dụng trong sự đánh giá thẩm mỹ là một đặc tính ổn định và phổ
biến, như một nét truyền thống thẩm mỹ của dân tộc Việt Nam.
Lấy cái thực dụng, hoàn hảo làm cơ sở và làm tiêu chí để đánh giá cái đẹp
là yếu tố lành mạnh của tình cảm, của thị hiếu thẩm mỹ dân tộc. Nó giúp
cho đời sống thẩm mỹ gắn bó mật thiết với thực tiễn lao động sản xuất và
có ảnh hưởng nhất định đến quá trình thực tiễn ấy. Trong hệ giá trị thẩm
mỹ truyền thống của dân tộc Việt Nam còn thể hiện tập trung trong tư
tưởng của chủ nghĩa nhân văn, thấm nhuần tính nhân đạo, coi cái thiện dù
thể hiện dưới hình thức nào cuối cùng cũng chiến thắng cái ác.
Chính sự nhạy cảm trước các giá trị đạo đức, mà hoạt động thẩm mỹ có
khả năng định hướng cho việc xây dựng tình cảm, thị hiếu, lý tưởng thẩm
mỹ và đồng thời xây dựng những chuẩn mực của hoạt động đánh giá
thẩm mỹ trên cơ sở những giá trị đạo đức mới, sẽ tạo ra những điều kiện
để củng cố, hoàn thiện những giá trị thẩm mỹ mới góp vào thẩm mỹ
truyền thống của dân tộc.
Trên nền tảng những giá trị đạo đức, chân lý của cái đẹp được thể hiện ra
bao đời nay của con người Việt Nam đã thấm nhuần các tư tưởng: “cái
nết đánh chết cái đẹp”, hoặc “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “ xấu người đẹp
nết còn hơn đẹp người”, “ăn chắc mặc bền”. Giá trị thẩm mỹ truyền
thống còn thể hiện ở lòng yêu thiên nhiên, sự gắn bó với thiên nhiên trong
đời sống thẩm mỹ của dân tộc được thể hiện thông qua sáng tạo nghệ
thuật; mà sự ẩn giấu trong thiên nhiên là hình ảnh con người Việt Nam,
anh hùng, về đất nước Việt Nam anh hùng và xinh đẹp.
Chương 3 : Để trở thành design giỏi cần .
Nhiều người vẫn hình dung thiết kế đồ họa là nghề thời thượng có mức
thu nhập cao, công việc sáng tạo.
Đây được coi là một nghề thời thượng với mức thu nhập mơ ước vì nhu
cầu của thị trường vẫn rất "khát".
Cái "Tôi" quá lớn
Cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa chính xác và đầy đủ về nghề TK đồ
họa - công việc được dân trong ngành gọi vui là nghề của “Picasso” trong
lĩnh vực số. Có thể tạm hiểu TK đồ họa là việc sử dụng máy tính để TK
những sản phẩm (SP) liên quan đến đồ họa, hình ảnh, mỹ thuật, phim
ảnh…
Ngành TK đồ họa có ứng dụng rất rộng rãi. Do đó, nhà TK rất dễ dàng
tìm công cụ, phần mềm khác nhau để hoàn thành công việc của mình.
Những người sử dụng các công cụ số hóa để viết, TK SP trên máy tính
được gọi là chuyên gia TK đồ họa (designer). Designer hoạt động khá đa
dạng: TK logo, quảng cáo, tạo mẫu bìa tạp chí, web, làm kỹ xảo điện ảnh,
phục hồi ảnh cũ… Họ sử dụng rất phong phú chất liệu, từ tranh ảnh, hoạt
hình, video, âm nhạc, các hiệu ứng âm thanh, hình ảnh… Các SP do đó
cũng rất đa dạng: clip, website, mẫu bìa tạp chí, áp phích, đoạn trailer
(video clip quảng cáo)…
“Tôi có thời gian và kinh nghiệm làm việc với nhiều chuyên viên TK đồ
họa. Nhiều bạn rất khá nhưng cái tôi lại quá lớn. Điều mà các doanh
nghiệp như chúng tôi cần là những SP phù hợp với yêu cầu, văn hóa của
công ty, cũng thu hút thị hiếu của khách hàng. Nhiều bạn lại để cái tôi
hay cái gu thẩm mỹ của mình vào SP mà không để ý đến việc mình đang
TK cho ai, cho đối tượng nào. Để thành công trong môi trường doanh
nghiệp, tôi cho rằng các bạn nên biết dung hòa giữa tác phẩm nghệ thuật
và yêu cầu thực tế của khách hàng”, bà Nguyễn Trà My - phụ trách
truyền thông và thương hiệu của website loveme.vn nói.
Chưa có phong cách riêng
Nhiều người vẫn hình dung TK đồ họa là nghề thời thượng có mức thu
nhập cao, công việc sáng tạo. Quả thật, cũng có nhiều designer tài năng
được săn đón và trọng dụng. Tuy nhiên trên thực tế, không phải lúc nào
và bất cứ họa sĩ số hóa nào cũng thành công. Nhu cầu nhân lực của ngành
đồ họa trong nước rất lớn nhưng tính chuyên nghiệp thì vẫn là một câu
chuyện dài.
Ông Trần Trọng Hưng, chuyên viên TK đồ họa của Viettel Telecom nhận
xét “TK đồ họa ở Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn phát triển và chưa
thực sự tạo nên những dấu ấn hay phong cách riêng. So với Trung Quốc,
Nhật Bản hay một số quốc gia khác thì bản sắc trong những tác phẩm của
họ được thể hiện rất rõ ràng và tiêu biểu chứ không mang tính lắp ghép
hay áp dụng công nghệ “copy – paste” (sao chép) như Việt Nam”.
Theo ông Hưng, ngành đồ họa Việt Nam mới thực sự phát triển từ năm
2000. Đến nay, ngành đồ họa trong nước vẫn còn non trẻ và đang trong
hành trình đi tìm phong cách riêng.
Đồng tình với ông Hưng, ông Nguyễn Quang Nam, trưởng nhóm TK
trailer của Bluesea Media JSC bổ sung: “Những SP được quảng bá truyền
thông hay hình ảnh ở Việt Nam còn non yếu, thiếu sáng tạo. Theo tôi, chỉ
30% mẫu được xây dựng ý tưởng và sản xuất ở Việt Nam, còn 70% là từ
nước ngoài”.
Theo kinh nghiệm của ông Hưng, phần lớn tư liệu phục vụ TK đồ họa tại
Việt Nam là từ nước ngoài. Điều đó gây khó khăn nhưng cũng là thuận
lợi để người làm tự do sáng tạo, xây dựng phong cách riêng. Những năm
gần đây, khách hàng (KH) và người tiêu dùng ngày càng khó tính hơn,
yêu cầu SP có chất lượng cao hơn. Điều này bắt buộc designer phải liên
tục làm mới mình, tăng sức sáng tạo và tìm tòi những ý tưởng mới.
Tâm lý chung người ngành TK đều muốn mình sẽ tạo được SP độc đáo,
tính thẩm mỹ cao... Tuy nhiên trên thực tế, khi đi làm lại bị gò bó bởi ý
tưởng và yêu cầu của KH nên dần cảm thấy chán, chai lỳ sức sáng tạo.
Đây là vấn đề và cũng là mâu thuẫn mà nhiều chuyên gia TK gặp phải.
Không phải lúc nào trong đầu cũng đầy ắp ý tưởng sáng tạo. Hoặc khi có
ý tưởng sáng tạo thì KH lại không hiểu hoặc không hài lòng. Nhiều khi
khái niệm “đẹp, sáng tạo” giữa KH và chuyên gia TK “vênh” nhau và
thường KH là người quyết định.
Tuy nhiên, ông Quang Nam vẫn tin vào sự phát triển của ngành đồ họa
trong nước. Khi nhu cầu ngành quảng cáo, truyền thông bằng hình ảnh
ngày càng cao, năng lực cảm nhận của KH, của công chúng cũng ngày
càng cải thiện.
Có kiến thức thương hiệu và bộ nhận diện thương hiệu
Các doanh nghiệp rất quan tâm đến phát triển thương hiệu. Các công ty
có xu hướng sử dụng các bộ nhận diện thương hiệu riêng. Người góp
phần không nhỏ vào việc xây dựng nên cái riêng để công chúng nhận
diện thương hiệu của một công ty chẳng ai khác chính là các chuyên viên
TK. Kiến thức về thương hiệu, TK bộ nhận diện thương hiệu là một lợi
thế để designer trở thành đối tượng được “săn đón” của nhà tuyển dụng.
Năng khiếu, sáng tạo và không ngừng học hỏi
Đây là điều không thể thiếu của designer chuyên nghiệp. Phần mềm có
thể học nhưng khả năng hội họa thì khó học và vận dụng. Năng khiếu
đóng vai trò quan trọng. Đó chính là sự nhạy cảm với màu sắc, đường
nét, hình khối, tư duy biểu tượng, giàu cảm xúc, có vốn hiểu biết về văn
hóa… Bạn còn phải là người luôn sáng tạo, luôn đi tìm sự mới mẻ, không
ngừng học hỏi, cập nhật kiến thức/xu hướng mới/phong cách mới… Có
vậy, tác phẩm của bạn làm ra mới hấp dẫn được nhiều người.
Năng lực làm việc độc lập và theo nhóm
Designer thường làm việc độc lập. Công ty nhỏ có thể chỉ cần một
designer. Các công ty lớn hoặc trong nhiều dự án có thể có nhóm TK và
bạn sẽ phải làm việc với nhiều người khác cũng như các bộ phận có liên
quan như người viết ý tưởng (copywriter), bộ phận quảng cáo, bộ phận
marketing, nhà in…
Trong các lĩnh vực khác nhau, Thiết kế có thể có những mô tả khác nhau,
nhưng nguyên tắc cơ bản thì tương tự. Cho dù bạn tạo ra một tác phẩm in
ấn, website, thiết kế sản phẩm mới, hoặc thậm chí là một kế hoặch cho
toà nhà 100 tầng, điều quan trọng là quá trình sáng tạo là tất cả.
Thiết kế là một thuộc tính có sẵn và nó không phải là kỹ năng có từ khi
sinh ra. Nó là một đặc điểm có được từ sự cống hiến liên tục từ những gì
bạn làm và từ những việc cực kỳ khó khăn đặt trong sự hiểu biết và học
tập những nguyên tắc cơ bản của thiết kế và sử dụng nó hiệu quả.
Không phải nhà thiết kế nào cũng thành công khi anh ấy/ cô ấy tốt nghiệp
đại học chuyên ngành hoặc bẩm sinh.
Nhà thiết kế là
Một nhà thiết kế là ngươì có thể sử dụng kỹ năng thiết kế để áp dụng vào
công việc của mình. Công việc của anh ta là, không chỉ chịu trách nhiệm
về sản phẩm cuối cùng sẽ nhìn ra sao, mà còn tạo ra một cái nhìn rõ ràng
dựa trên cách nó sử dụng và cách nó tạo ra.
Người thiết kế trong các lĩnh vực khác nhau, có các kỹ năng khác nhau,
nhưng nền tảng cơ bản thì tương tự.
Thiết kế thường xuyên đòi hỏi Người thiết kế cân nhắc thẩm mỹ, tính
năng, và rất nhiều khía cạnh của một đối tượng hoặc một quá trình, nó
thường xuyên đòi hỏi sự nghiên cưú, suy nghĩ, mô phỏng, tương tác và
thiết kế lại.
Với định nghĩa rộng lớn như vậy, không có ngôn ngữ phổ quát nào, hoặc
một khái niệm thống nhất cho các thiết kế của tất cả các lĩnh vực. Điều
này cho phép nhiều triết lý khác nhau và phương pháp tiếp cận tới chủ đề.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu thiết kế nghiêm túc đòi hỏi tập trung vào quá
trình thiết kế.
Thiết kế tồi có thể tới từ nhiều lỗi như, không áp dụng nguyên tắc thiết kế
cơ bản, lên kế hoạch kém, kỹ thuật kém, bỏ qua những quy định bắt buộc
của mỗi ngành, truyền thông kém…
Vậy làm thế nào để trở thành một nhà thiết kế tốt hơn? Tôi vẫn đang cố
gắng theo đuổi những điều dưới đây và sẵn sàng chia sẻ với bạn.
Những điều dưới đây dựa trên quan điểm của tôi và có thể nó khác với
những gì bạn biết. Tôi chân thành đề nghị bạn chia sẻ những kinh nghiệm
để trở thành một nhà thiết kế tốt của bạn, và những ý kiến mà bạn cho
rằng có ích cho cộng đồng thiết kế.
Những điểm dưới đây được sắp xếp ngẫu nhiên. Mỗi điều đều quan trọng
như nhau và đều phải nâng cao hàng ngày.
Thiết kế, thiết kế, thiết kế
Tôi nghĩ không có lời khuyên nào tốt hơn điều này. Để thành một nhà
thiết kế thành công, tất cả các bạn phải luôn làm việc, luôn thiết kế đến
khi …chết.
Sự kiên trì là chìa khóa trong bất cứ việc gì bạn làm; Liên tục cống
hiến và làm việc chăm chỉ sẽ đem lại kết quả tốt và nó là sự thật chung.
Với lợi thế của thời đại kỹ thuật số, những người thiết kế có nhiều cách
hơn để học hỏi và cả kiếm tiền.
2. Chuyển hóa ý tưởng của bạn vào phác thảo
Đôi khi, tất cả chúng ta quên rằng một quá trình thiết kế thực sự sẽ bắt
đầu từ trong bộ não và sau đó chúng ta chuyển hóa chúng lên giấy. Tất cả
chúng ta đang bị chìm trong vô số công cụ kỹ thuật số, nó khiến chúng ta
quên việc vẽ bằng tay của mình.
Nếu bạn hỏi bất cứ người thiết kế giỏi nào, người đấy đều xác nhận rằng
phác thảo là cách tốt nhất để thành nhà thiết kế giỏi. Khi bạn đã có phác
thảo trong tay, bạn có thể dùng Photoshop hoặc bất kỳ công cụ nào để
làm nó tốt hơn và đem nó tới đời sống.
Vì vậy luôn giữ một cuốn sổ ghi chép (có thể vẽ lên) ở bên người. Đơn
giản là lấy bút ra và vẽ lúc bạn ăn sáng, uống cà phê, hay ngồi trong công
viên… Chúng sẽ giúp bạn nhắc bản thân về điều bạn cần làm.
3. Thể hiện tình yêu, cảm xúc và trân trọng những gì bạn làm.
Đây là một trong những bước quan trọng, không những với các nhà thiết
kế để trở thành một con người tuyệt vời. Nó áp dụng cho tất cả lĩnh vực
khoa học, máy móc và cuộc sống. Bạn phải yêu những gì bạn làm và nó
sẽ giúp bạn nhiều vô cùng khi tạo ra một sản phẩm tuyệt hảo.
Có cảm xúc để trở thành một nhà thiết kế giỏi và tạo những sản phẩm
nghệ thuật ấn tượng là thực sự hữu ích, nó giữ bạn có động cơ và thúc
đẩy bạn làm việc chăm chỉ hơn, tốt hơn và tạo ra những sảm phẩm để đời.
Trân trọng sự thật rằng bạn rất may mắn khi làm việc trong lĩnh vực thiết
kế đồ họa, lĩnh vực có nhiều điều để học và để sáng tạo những điều mới
và cố gắng thâm nhập sâu vào một số lĩnh vực bạn thấy yêu thích nhất.
Bạn sẽ có rất nhiều bạn và cộng đồng thiết kế thường có sự chia sẻ để
giúp bạn nâng cao bản thân với những nền tảng thú vị.
4. Mạo hiểm và học từ những sai lầm của mình
Muốn thành công thì không thể thiếu sự mạo hiểm. Những sai lầm là một
phần của quá trình đạt được những kết quả vĩ đại. Người thiết kế tốt sẽ rút
kinh nghiệm từ những sai lầm của mình.
Biến sai lầm thành những kinh nghiệm quý giá của bạn thân. Điều quan
trọng là nhìn các lỗi lầm một cách thận trọng và rút ra những điều thực sự
bổ ích để tiếp tục đi lên.
5. Học điều gì đó mới mỗi ngày
Một nhà thiết kế tuyệt vời có thể khác với số còn lại khi họ thường xuyên
học những điều mới. Có rất nhiều thông tin, kỹ thuật mới, xu hướng mới
đang đợi bạn khám phá và nghiên cứu để có thể áp dụng.
Cảm hứng tới từ khắp nới, kiến trúc, công nghiệp, thiết kế, nghệ thuật,
điêu khắc và rất nhiều trong nền công nghiệp sáng tạo này. Thậm chí
chúng ta có thể lấy cảm hứng từ khoa học, hóa học, chuỗi Fibonacci và
rất nhiều thứ khác.
Sự thật rằng thiết kế của bạn sẽ ngày càng tốt hơn khi bạn mở rộng
kho tàng kiến thức của mình
6. Trải nghiệm
Tôi tin rằng một trong những cách để trở thành nhà thiết kế giỏi là luôn
cố gắng thử những kỹ thuật mới, ý tưởng mới trong quá trình sáng tạo của
bạn. Đừng sợ một kết quả xấu sẽ tới, hay bạn không thấy có gì liên quan
giữa sản phẩm này với điều đó. Sức mạnh của bộ não là bị hấp dẫn bởi
những ý tưởng mà nó không lường trước được.
Trải nghiệm cho phép bạn thấy những ý tưởng và khái niệm khác lạ, bộ
não của bạn sẽ không ngừng hình dung. Nó cho phép bạn chuyển những
suy nghĩ thực tế và những công việc tuyệt vời.
Nên nhớ rằng, phần lớn các phát minh vĩ đại đều là kết quả của trải
nghiệm. Tôi cũng tin rằng thiết kế kinh điển là kết quả của một lỗi ngẫu
nhiên và kết quả được giữ lại.
7. Đánh giá và kiểm tra công việc của bạn
Đừng bao giờ quên đánh giá lại sản phẩm của mình. Khi bạn trong quá
trình thiết kế điều gì đó, dành chút thời gian nhìn vào sản phẩm của mình
và hỏi chính mình những câu hỏi sau:
Tôi sẽ trả lời thế nào nếu ai đó hỏi tôi về quan điểm thực sự của
thiết kế này
Tôi sẽ đề nghị gì để làm nó tốt hơn?
Có thể sử dụng những yếu tố khác với cách sử dụng hiệu quả hơn
không?
Tôi có thể làm nó đơn giản hơn không? LESS IS MORE.
Khi bạn đã có thể xác định các câu hỏi trên, bạn đang đi đúng hướng để
trở thành 1 nhà thiết kế tốt hơn.
Và khi dự án hoàn thành, bạn không nên bỏ nó vào quên lãng, hãy nhìn
chúng lần nữa và xem liệu bạn có thể làm tốt hơn không. Bỏ qua những
thói quen thiết kế hàng ngày và nghĩ khác và hỏi bản thân "Điều gì xảy ra
nếu tôi bỏ thói quen với thiết kế này".
Cố gắng, cố gắng bỏ qua cách giải quyết vấn đề mà bạn hay dùng và thúc
đẩy bản thân để thiết kế theo một cách khác thường.
8. Hiểu rõ các nguyên tắc và yếu tố của thiết kế.
Thiết kế có thể được coi là sắp xếp có tổ chức một hay nhiều yếu tố với
các nguyên tắc có mục đích. Mục đích ở đây là chắc chắn khiến người
dùng nhận được thông điệp mạnh mẽ của điều mà nhà thiết kế đang cố
gắng diễn giải.
Một điều cần hiểu là không có gì ngẫu nhiên trên thế giới này. Mọi thứ
đều được xác định và có một lý do đằng sau sự tồn tại và sử dụng chúng.
Thậm chí cả vũ trụ, dù ai đó cho rằng nó hoàn toàn ngẫu nhiên, thì đối
với tôi không có gì tồn tại mà không có lý do.
Khái niệm đó tương tự với thiết kế, khi chúng ta thiết kế, chúng ta có một
mục đích và đó là đưa ra thông điệp cho người xem. Cho dù nó là một
quảng cáo, một bức tranh, nó được làm để quảng bá sản phẩm hoặc để
truyền tải cảm xúc của người nghệ sĩ.
Các yếu tố của thiết kế xuất hiện trong mọi thứ bạn tạo ra, dù muốn hay
không. Nó như những lực vô hình ở phía trên thẩm mỹ thị giác của người
xem. Có nhiều điều khiến cuộc sống thành những tấm hình. Một trong số
đó là những yếu tố như Đường Nét, Hình dạng, Chất liệu, Hình khối,
Không Gian và Hướng.
Các nguyên tắc của thiết kế cũng đa dạng. Chúng khác nhau giữa các
trường phái tư tưởng có ảnh hưởng tới thiết kế và giữa sự thực hành các
nhân các nhà thiết kế.
Nhận thức về các yếu tố và các nguyên tắc trong thiết kế là bước đầu
tiên trong việc tạo dựng một tác phẩm thị giác thành công.
Một số trong số đó là: Hài hòa, Tương Phản, Nhịp điệu, Nhấn mạnh, Lặp
lại, Cân bằng, Phân cấp. Các nguyên tắc sẽ chẳng là gì nếu như nhà thiết
kế không biết cách kết hợp các yếu tố với nhau.
9. Dõi theo một nhà thiết kế mà bạn hâm mộ
Bạn chắc hẳng có một người nghệ sĩ, nhà thiết kế nào đó, người mà gây
cảm hứng về nghề nghiệp cho bạn. Nếu không có, bạn nên dành thời gian
để nghiên cứu về một người có ảnh hưởng trong nghề này. Sau đó hãy
nghiên cứu các tác phẩm của họ, dành thời gian xem các thiết kế chuyên
nghiệp của họ.
Hãy đặt các câu hỏi như "Điều gì thật sự cuốn hút bạn?, Điều gì khiến
bạn phải WOW"? Cố gắng xác định các yếu tố khiến tác phẩm trở nên
kiệt xuất.
Ghé thăm các Portfolio của các nhà thiết kế yêu thích và hỏi họ những
câu hỏi mà bạn đang tìm kiếm; Làm sao để làm vậy? Anh/chị đã học thế
nào? Tại sao anh chị lại làm vậy?… Những nhà thiết kế giỏi thường
không ngần ngại chia sẻ những kinh nghiệm của mình.
Làm việc thông minh hơn (smarter, not harder)
Bạn thử lướt vài vòng trên Behance, DevianArt, bạn sẽ phát hiện ra vô số
những nhà thiết kế giỏi đang cập nhật sản phẩm của họ. Một trong những
cách trở thành nhà thiết kế giỏi là làm việc thông minh.
Đừng đơn giản chỉ là Thiết kế, bạn cần trưng bày những tắc phẩm có
chọn lọc để chỉ ra tài năng của mình. Ngày nay, tạo một online porfolio
và upload chúng trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.
Là một nhà thiết kế, bạn nên biết cách để sử dụng kỹ năng thuần thục và
đúng chỗ. Hãy học Typography và sử dụng trong tác phẩm của mình.
Nhiều nhà thiết kế đưa ra các thông điệp mạnh mẽ chỉ bằng vài dòng chữ
và đôi khi nó rất hiệu quả.
Tổ chức và lên lịch công việc của bạn
Đây là một trong những điều quan trọng nhất để theo đuổi nếu bạn muốn
trở thành nhà thiết kế tốt hơn. Có gắng tổ chức thông tin tự do để bạn có
thể xem một cách dễ dàng. Nếu bạn đang bị tấn công dồn dập vởi công
việc, hãy lên lịch cho chúng và bạn
Đừng bao giờ trì hoãn công việc của bạn. Thường xuyên tìm cách kết
thúc nó trong thời gian định trước. Loại bỏ sự phân tâm và những thứ gây
ảnh hưởng tới công việc.
Thỏa hiệp là một thói quen cực xấu và kết quả là bạn có 1 dự án dang dở.
Vì vậy có gắng duy trì thói quen làm việc chuyện nghiệp, nghiêm chỉnh.
Vâng, đó là những suy nghĩ của tôi về việc trở thành một nhà thiết kế tốt
hơn, bạn có thể thêm vài điều bạn biết và bạn cho rằng nó rất hiệu quả.
Tất cả chúng ta sẵn sàng đón nhận những ý kiến, những kiến thức mới.
Vậy nên thoải mái để lại bình luận của bạn.
Kết luận .
Thẩm mỹ công nghiệp đề cập đến những đặc trưng cơ bản của design :
Tính thẫm mỹ , tính ứng dụng , tính khoa học , tính phổ biến , tính thời
đại và tính dân tộc . Thẩm mỹ công nghiệp là cái thước đo đánh giá về cái
đẹp của của công nghiệp , của những sản phẩm công nghiệp ngày nay ,
mang những đặc tinh trên .
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông, Nhà xuất bản Giáo Dục 2003
1- Đỗ Văn Khang – Đỗ Huy: Mỹ học Mác – Lênin, Nxb ĐH & THCN,
Hà Nội, 1985.
2- Hoài Lam: Tìm hiểu Mỹ học Mác – Lênin, Nxb Văn hóa, Hà Nội,
1979.
3- Iu. Lukin, V. Xcacherơsicôp: Nguyên lý Mỹ học Mác – Lênin, Nxb
Sách giáo khoa Mác – Lênin, Hà Nội, 1984.
4- Lê Ngọc Trà (Chủ biên), Mỹ học đại cương, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội, 1994.