Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Hướng dẫn ôn tập môn luật hiến pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 135 trang )

Hướng dẫn ôn tập Môn Luật Hiến Pháp.
1. Nêu định nghĩa và phân tích đặc điểm của Hiến Pháp?
* Khái niệm HP: Khái niệm HP được chia làm 02 quan điểm
- Quan điểm tư sản về HP:
+) Trường phái thực định cho rằng HP là những quy định pháp lý có tầm cao
nhất, quy định cách thức tổ chức nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước và
công dân.
+) Trường phái chính trị học cho rằng HP là đạo luật cơ bản của nhà
nước, có các quy phạm để bảo vệ các quan hệ tương ứng, nó là đạo luật
mang tính chính trị bởi vì nó thể chế hoá quyền lực của giai cấp thống trị.
- Quan điểm của CN Mac-Lenin về HP: HP là đạo luật cơ bản của nhà
nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định những vẫn đề cơ bản và quan
trọng nhất của mỗi một nhà nước và xã hội. Liên quan đến việc xác định chế
độ chính trị, kinh tế, văn hoá giáo dục, khoa học công nghệ, an ninh quốc
phòng, chính sách đối ngoại, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước.
* Đặc điểm của HP:
- HP quy định những vấn đề cơ bản quan trọng của 1 quốc gia trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng an ninh, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Còn các đạo luật khác chỉ quy định 1 hoặc 1 số lĩnh vực nhất định.
- HP là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất:
+) Không gian: HP có hiệu lực pháp lý trong cả nước, mọi địa phương
vùng lãnh thổ.
+) Chủ thể: HP có hiệu lực pháp lý với mọi chủ thể, cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, công dân VN…
+) Thời gian: HP có tính ổn định và lâu dài.
Đối với văn bản pháp luật được xây dựng và ban hành trên cơ sở của HP
không được trái với HP, nếu trái sẽ bị đình chỉ, sửa đổi, bãi bỏ tuỳ mức độ.
Đối với điều ước quốc tế phải phù hợp với HP, nếu trái thì ta bảo lưu hoặc


không tham gia.
- HP có trình tự, thủ tục tiếp nhận và sửa đổi đặc biệt hơn so với thủ tục lập
pháp thông thường. Có 3 con đường hình thành HP:
+) Trưng cầu ý dân
+) Tiến hành tổng tuyên cử trong cả nước bầu quốc hội.
+) Quốc hội lập pháp được trao quyền lập hiến.
- HP thể hiện tập trung ý chí của nhà nước, bản chất giai cấp của nhà
nước.
1


- HP là đạo luật vừa mang tính hiện thực và mang tính cương lĩnh. Tính
hiệu lực của HP thể hiện ở chỗ HP là bảng tổng kết thành quả cách mạng
mà giai cấp thống trị đã giành được trong quá trình đấu tranh ở từng thời
kỳ lịch sử nhất định. Tính cương lĩnh của HP thể hiện HP vạch ra phương
hướng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc ở các giai đoạn tiếp theo.
2. So sánh tính chất, nhiệm vụ của bản HP 1946 và HP 1959?
- Điểm giống nhau về tính chất:
+ Thứ nhất: HP khẳng định chính thể của VN là một nước dân chủ cộng
hoà. Tính giai cấp nhà nước không thay đổi, nhưng nội dung thể hiện
chuyên chính vô sản là chính quyền đó phải thuộc về nhân dân, và chính
quyền đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản VN.
HP khẳng định mọi quyền lực nhà nuớc thuộc về nhân dân.
+ Thứ hai: HP phải thể chế hoá nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân
làm chủ đất nước. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Quyền và nghĩa vụ của công dân phải kết hợp hài hoà những yêu cầu của
cuộc sống với tự do chân chính của cá nhân, đảm bảo lợi ích của nhà nước
và của tập thể, của cá nhân và thực tế là có khả năng thực hiện được.
- Điểm khác nhau về tính chất:
* Tính chất HP 1946: HP 1946 là bản HP đầu tiên của nhà nước ta mang

tính chất dân chủ nhân dân.
+ HP đã đảm bảo quyền tự do dân chủ rộng rãi thông qua chế định, quyền
lợi nghĩa vụ của công dân.
+ Đặt nền móng cho việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới. Bộ máy
nhà nước đó là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân.
+ Quy định quyền tự do, dân chủ của nhân dân, trong đó bao gồm quyền
tự do dân chủ về chính trị.
+ Không ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Nghị viện do nhân dân cả nước bầu ra có nhiệm kỳ 3 năm. HP không
quy định cụ thể nhiệm vụ quyền hạn của Nghị viện mà chỉ quy định một
cách chung chung.
+ Tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương có sự phân biệt cấp chính
quyền hoàn chỉnh và không hoàn chỉnh. Phân biệt được địa bàn nông thôn
và đô thị.
+ Toà án nhân dân tổ chức theo cấp xét sử. HP 1946 không có Viện kiểm
sát, chỉ có viện công tố của toà án. Chế độ thẩm phán, Thẩm phán do bổ
nhiệm.
*Tính chất HP 1959 là bản HP xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thể hiện ở chỗ:
+ Lần đầu tiên HP xác lập quan hệ sản xuất mới: quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, thừa nhận chế độ sở hữu toàn dân.
+ HP đã vạch ra phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền bắc
2


thông qua 3 cuộc cách mạng: cách mạng chính trị tư tưởng; cách mạng
khoa học kỹ thuật; cách mạng quan hệ sản xuất.
+ Trong lĩnh vực chính trị điều 4 HP 1959 đã khẳng định tất cả các quyền
lực thuộc về nhân dân.
+ Về chế độ kinh tế, điều 9 HP 1959 tính xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực
kinh tế thể hiện bằng việc cải tạo và xây dựng nền kinh tế theo định

hướng xã hội chủ nghĩa.
+ HP1959 quy định 1 số quyền và nghĩa vụ mới của công dân, nhất là
những quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực kinh tế (ví dụ công dân có quyền
làm việc, quyền nghỉ ngơi, nghĩa vụ đóng thuế).
+ Về tổ chức bộ máy nhà nước: HP 1959 xác định nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
+ Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Hội đồng nhân dân
và quốc hội.
+ Quốc hội do toàn dân bầu ra. Nhiệm kỳ 4 năm, nhiệm vụ và quyền hạn
của quốc hội đựoc quy định cụ thể và chi tiết hơn HP 1946.
+ Chủ tịch nước không còn nằm trong chính phủ, được tách ra thành một
chế định riêng.
+ Tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương không phân biệt.
+ Toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân tổ chức theo cấp hành chính
lãnh thổ. HP 1959 lần đầu tiên lập ra Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát
chung và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thẩm phán bầu.
- Điểm giống nhau về nhiệm vụ: Cả hai bản HP 1946 và HP 1959 đều có
những nhiệm vụ chung sau đây:
+ Thứ nhất HP xác lập các nguyên tắc cơ bản của chế độ chính trị, chính
sách kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, quốc phòng,
an ninh quốc gia, đường lối đối nội, đối ngoại.
+ Thứ hai HP xác định cách thức tổ chức quyền lực nhà nước.
+ Thứ ba HP là văn bản xác lập và bảo vệ các quyền con người và quyền
công dân.
+ Thứ tư HP là bản “khế ước xã hội”, theo đó nhân dân chính thức trao
quyền cho nhà nước.
+ Thứ năm HP là đạo luật gốc, luật cơ sở vì vậy nó là “Luật mẹ”, từ các
quy định của nó hàng loạt các luật và các văn bản khác ra đời. Vì vậy có
thể coi HP là “Tinh tuý của pháp luật” của mỗi quốc gia.
+ Thứ sáu HP là văn bản giới hạn quyền lực của các cơ quan nhà nước, vì

vậy HP là công cụ chủ yếu để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, là
công cụ chủ yếu để thiết lập trật tự xã hội.
- Điểm khác nhau về nhiệm vụ:
*HP1946: HP 1946 có 2 nhiệm vụ là bảo vệ nền độc lập dân tộc và thực
3


hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong đó đặt nhiệm vụ
thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên hết. HP là công cụ
pháp lý phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng là độc lập dân tộc và người cày
có ruộng.
*HP 1959: HP 1959 có 2 nhiệm vụ là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền
bắc và thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền nam.
Là công cụ pháp lý phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
3. So sánh tính chất, nhiệm vụ của bản HP 1946 và HP 2013?
- Điểm giống nhau về tính chất:
+ Thứ nhất: HP khẳng định tính chất của nhà nước VN là nhà nước
chuyên chính vô sản. Tính giai cấp nhà nước không thay đổi, nhưng nội
dung thể hiện chuyên chính vô sản là chính quyền đó phải thuộc về nhân
dân, và chính quyền đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản VN.
HP khẳng định mọi quyền lực nhà nuớc thuộc về nhân dân.
+ Thứ hai: HP phải thể chế hoá nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân
làm chủ đất nước. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Quyền và nghĩa vụ của công dân phải kết hợp hài hoà những yêu cầu của
cuộc sống với tự do chân chính của cá nhân, đảm bảo lợi ích của nhà nước
và của tập thể, của cá nhân và thực tế là có khả năng thực hiện được.
- Điểm khác nhau về tính chất:
* Tính chất HP 1946: HP 1946 là bản HP đầu tiên của nhà nước ta mang
tính chất dân chủ nhân dân.

+ HP đã đảm bảo quyền tự do dân chủ rộng rãi thông qua chế định, quyền
lợi nghĩa vụ của công dân.
+ Xác định chính thể là cộng hoà dân chủ nhân dân thay cho chính thể
quân chủ chuyên chế.
+ Đặt nền móng cho việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới. Bộ máy
nhà nước đó là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân.
+ Quy định quyền tự do, dân chủ của nhân dân, trong đó bao gồm quyền
tự do dân chủ về chính trị.
+ Không ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Nghị viện do nhân dân cả nước bầu ra có nhiệm kỳ 3 năm. HP không
quy định cụ thể nhiệm vụ quyền hạn của Nghị viện mà chỉ quy định một
cách chung chung.
+ Tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương có sự phân biệt cấp chính
quyền hoàn chỉnh và không hoàn chỉnh. Phân biệt được địa bàn nông thôn
và đô thị.
+ Toà án nhân dân tổ chức theo cấp xét sử. HP 1946 không có Viện kiểm
sát, chỉ có viện công tố của toà án. Chế độ thẩm phán, Thẩm phán do bổ
4


nhiệm.
*Tính chất HP 2013:
HP 2013 bảo đảm cho Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước. Nâng cao chất lượng
của đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách; có cơ
chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri. Cải
tiến nâng cao chất lượng của Hội đồng dân tộc và uỷ ban quốc hội. Đổi
mới và nâng cao chất lượng các kì họp của quốc hội và chất lượng công
tác xây dựng pháp luật, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định và giám sát
các vấn đề quan trọng của đất nước.

HP 2013 đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ
công lí, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thành chính sách pháp
luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp. Đổi mới hệ thống tổ chức
toà án theo thẩm quyền xét xử; mở rộng thẩm quyền xét xử đối với các
khiếu kiện hành chính. Viện kiểm soát được tổ chức phù hợp với hệ thống
toà án, đảm bảo các điều kiện để thực hiện có hiệu quả chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm soát hoạt động tư pháp. Kiện toàn tổ chức và
nâng cao chất lượng của các cơ quan điều tra, các tổ chức bổ trợ tư pháp.
Tăng cường cơ chế giám sát, đảm bảo sự tham gia giám sát của nhân dân
đối với hoạt động tư pháp.
- Điểm giống nhau về nhiệm vụ: Cả hai bản HP 1946 và HP 2013 đều có
những nhiệm vụ chung sau đây:
+ Thứ nhất HP xác lập các nguyên tắc cơ bản của chế độ chính trị, chính
sách kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, quốc phòng,
an ninh quốc gia, đường lối đối nội, đối ngoại.
+ Thứ hai HP xác định cách thức tổ chức quyền lực nhà nước.
+ Thứ ba HP là văn bản xác lập và bảo vệ các quyền con người và quyền
công dân.
+ Thứ tư HP là bản “khế ước xã hội”, theo đó nhân dân chính thức trao
quyền cho nhà nước.
+ Thứ năm HP là đạo luật gốc, luật cơ sở vì vậy nó là “Luật mẹ”, từ các
quy định của nó hàng loạt các luật và các văn bản khác ra đời. Vì vậy có
thể coi HP là “Tinh tuý của pháp luật” của mỗi quốc gia.
+ Thứ sáu HP là văn bản giới hạn quyền lực của các cơ quan nhà nước, vì
vậy HP là công cụ chủ yếu để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, là
công cụ chủ yếu để thiết lập trật tự xã hội.
- Điểm khác nhau về nhiệm vụ:
*HP1946: HP 1946 có 2 nhiệm vụ là bảo vệ nền độc lập dân tộc và thực
hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong đó đặt nhiệm vụ

5


thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên hết. HP là công cụ
pháp lý phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng là độc lập dân tộc và người cày
có ruộng.
*HP 2013: HP 2013 thực hiện nhiệm vụ được đề ra trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội 2011-2020 của Đảng đề ra 5 điều quan trọng nhất là:
+ Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt
trong chiến lược.
+ Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng
nước VN XHCN, dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là
chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
+ Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ
ngày càng cao đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa.
+ Kiên trì xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều
kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
4. Phân tích nội dung của quyền dân tộc cơ bản được quy định tại Điều
1 HP 2013?
Quyền dân tộc cơ bản là những quyền cơ bản nhất, đồng thời cũng là cơ
sở tối thiểu để bảo đảm cho một dân tộc tồn tại và phát triển bình thường,
là cơ sở để dân tộc đó thực hiện các quyền khác của mình.
Quyền dân tộc cơ bản là quyền của 1 quốc gia dân tộc được độc lập, có
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, có quyền tự quyết định vận
mệnh của dân tộc mình mà không bị lệ thuộc bởi quốc gia dân tộc khác.
Quyền dân tộc cơ bản thông thường bao gồm 4 yếu tố: độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Điều 1 HP 2013: Nước
CHXHCNVN là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn

lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”.
+ Độc lập có nghĩa là quốc gia dân tộc đó không bị quốc gia dân tộc khác
xâm chiếm, no dịch, cai trị. Nước CHXHCNVN là một nước độc lập, VN
có quyền định đoạt vận mệnh dân tộc mình mà không bị lệ thuộc vào sự
can thiệp của nước ngoài, không có quân đội nước ngoài đóng trên lãnh
thổ VN. VN là một nước có chủ quyền, nhân dân, lãnh thổ riêng, hệ thống
pháp luật riêng.
+ Chủ quyền có nghĩa là quốc gia dân tộc đó có quyền quyết định tối cao
về chính sách đối nội và độc lập trong quan hệ đối ngoại. Có quyền nhan
danh quốc gia dân tộc mình để đàm phán, ký kết, phê chuẩn các điều ước
quốc tế mà không bị lệ thuộc bất cứ quốc gia dân tộc nào. Nhà nước VN
là một nước có chủ quyền, điều này được thể hiện qua quyền độc lập tự
6


quyết trong quan hệ đối nội, quyền quyết định tối cao trong quan hệ đối
ngoại, có quyền tự quyết riêng với vấn đề chiến tranh-hoà bình của quốc
gia mình. Với tư cách là đại diện chính thức của toàn xã hội, nhà nước là
tổ chức duy nhất được trao quyền và trách nhiệm về tuyên bố, thực hiện
và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
+ Thống nhất hiểu về thống nhất lãnh thổ, nhà nước, pháp luật, có nghĩa là
lãnh thổ quốc gia không bị chia cắt và chỉ có một nhà nước duy nhất với
một hệ thống pháp luật thống nhất. VN là một quốc gia thống nhất, nước
ta có lãnh thổ thống nhất, không bị chia cắt, tổ chức chính quyền thống
nhất từ trung ương xuống địa phương, thực hiện quản lý bằng pháp luật
trong đó pháp luật có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội.
+ Toàn vẹn lãnh thổ có nghĩa là không một bộ phận nào của lãnh thổ dù là
đất liền, hải đảo, vùng biển, vùng trời bị các quốc gia dân tộc khác xâm
chiếm, chiếm đóng. Nước CHXHCNVN là một nước toàn vẹn lãnh thổ
bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.

Quyền dân tộc cơ bản có ý nghĩa quan trọng với tất cả các quốc gia dân
tộc trên thế giới và được pháp luật quốc tế thừa nhận.
Có thể nói, quyền dân tộc cơ bản là nội dung quan trọng nhất của HP. Nó
là cơ sở cho việc ghi nhận các chính sách về chính trị kinh tế, quốc phòng,
an ninh…tất cả những hành động xâm phạm quyền dân tộc cơ bản đều là
vi phạm luật pháp quốc gia.
Rõ ràng, bốn yếu tố của quyền dân tộc cơ bản được quy định trong Điều 1
của HP2013 có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau vì
độc lập không có chủ quyền là độc lập giả hiệu, không có thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ thì không phải là độc lập trọn vẹn.
Chủ quyền dân tộc cơ bản này cũng là sự ghi nhận thành quả của cách
mạng VN trong việc giành lại và gìn giữ nền độc lập dân tộc VN.
5. Phân tích sự kế thừa và phát triển các quy định về quyền dân tộc cơ
bản trong lịch sử lập hiến VN?
Quyền dân tộc cơ bản bắt nguồn từ sang kiến của lãnh tụ NAQ, từ khái
niệm quyền cơ bản của con người NAQ đã phát triển thành khái niệm
quyền cơ bản của dân tộc. Lần đầu tiên khái niệm đó được nêu lên trong
bản yêu sách 8 điều gửi lên hội nghị Versailles (1919) đòi quyền dân tộc
tự quyết cho nhân dân VN và Đông dương.
Lịch sử lập hiến nước ta cho thấy, mỗi bản HP là một dấu son đánh dấu
bước ngoặt của cách mạng, của xã hội, của nhân dân ta: HP 1946 của
chặng đường vừa kháng chiến vừa kiến quốc; HP 1959 với công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở MB và đấu tranh giải phóng MN thống nhất nước
nhà; HP 1992 thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nươc theo định hướng xã
7


hội chủ nghĩa. HP 2013 ra đời trong hoàn cảnh lịch sử trong nước và quốc
tế có nhiều thay đổi, đất nước thoát khỏi nước nghèo, thực hiện chiến luợc
phát triển kinh tế xã hội 2011 đến 2020 của Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ 11 năm 2011.
HP 1946 ra đời, quyền dân tộc cơ bản đã được ghi nhận trong đạo luật cơ
bản của nhà nước và nó được nhấn mạnh yếu tố thống nhất tại điều 2:
“Đất nước VN là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân
chia”. Điều này khẳng định và coi trọng việc xây dựng và củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, xem đây là một trong những nhân tố quan trọng
nhất đảm bảo thắng lợi của cách mạng VN.
HP 1959 quyền dân tộc cơ bản tiếp tục được ghi nhận và nhấn mạnh yếu
tố thống nhất tại điều 1: “Đất nước VN là một khối Bắc Nam thống nhất
không thể chia cắt”. Sự nhất quán không thể chia rẽ, tách rờì của dân tộc
VN.
HP 1980 quyền dân tộc cơ bản được ghi nhận một cách cụ thể đầy đủ cả 4
yếu tố tại điều 1: “Nước CHXHCNVN là một nước độc lập, có chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và
các hải đảo”. Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối
với dân tộc VN. Lãnh thổ và biên giới quốc gia là hai yếu tố gắn bó chặt
chẽ, không thể tách rời. Pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế đều thừa
nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia.
Lãnh thổ quốc gia là phạm vi không gian được giới hạn bởi biên giới quốc
gia, thuộc chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ của một quốc gia. Lãnh thổ
quốc gia VN bao gồm: vùng đất quốc gia, vùng trời quốc gia, vùng biển
quốc gia… Vùng đất quốc gia (kể cả các hải đảo và quần đảo) là phần mặt
đất và long đất của đất liền, của đảo, quần đảo thuộc chủ quyền một quốc
gia. Đây là bộ phận quan trọng nhất cấu thành lên lãnh thổ quốc gia, làm
cơ sở để xác định vùng trời quốc gia, nội thuỷ, lãnh hải. Nội thuỷ là vùng
biển nằm ở phía trong của đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Ranh
giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển.
HP 1992 quyền dân tộc cơ bản được quy định một cách đầy đủ, cụ thể,
chặt chẽ và chính xác tại điều 1: “Nước CHXHCNVN là một nước độc
lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các

hải đảo, vùng biển và vùng trời”. Bản chất giai cấp công nhân gắn bó chặt
chẽ với tính dân tộc. Về mặt địa lý đã bao gồm đầy đủ, cụ thể và có sự sắp
xếp lại thứ tự cho phù hợp với thực tiễn so với Điều 1 trong HP 1980.
Lãnh thổ quốc gia VN bao gồm: vùng đất quốc gia, vùng biển quốc gia,
vùng trời quốc gia …Chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ một cách độc
lập, toàn vẹn, đầy đủ về mọi mặt của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ
của mình. Tất cả các nước đều có chủ quyền quốc gia. Tôn trọng chủ
8


quyền quốc gia là một nguyên tắc cơ bản của Luật pháp quốc tế. Không
một quốc gia nào được can thiệp hoặc xâm phạm chủ quyền của một quốc
gia khác. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là tuyệt đối, bất khả xâm phạm.
HP 2013 quyền dân tộc cơ bản giống với HP 1992: “Nước CHXHCNVN
là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao
gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”.
6. Phân tích các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã
hội?
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là tiền đề và điều kiện để Nhà
nước Việt Nam giữ tính chất xã hội chủ nghĩa của mình. Trong những
năm đổi mới, Đảng luôn củng cố, giữ vững vai trò lãnh đạo đối với Nhà
nước, nắm chắc vai trò cầm quyền của mình. Nội dung chủ yếu sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước là Đảng đề ra đường lối, chủ trương
để xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng
lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành
chính sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện chính sách,
pháp luật; tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà
nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh; tăng
cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan quản lý nhà
nước, các tổ chức sự nghiệp, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân,

doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội (Mặt trận Tổ
quốc, Công đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản, Hội Nông dân, Hội Liên
hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh) là tất yếu và quan trọng để các tổ chức
này hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, phát huy chức năng giám sát và
phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững
mạnh.
- Trong điều kiện Đảng cầm quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, hiệu quả lãnh đạo không chỉ phụ thuộc vào nội dung
lãnh đạo mà còn phụ thuộc vào phương thức lãnh đạo. Phương thức
lãnh đạo là hệ thống những hình thức, biện pháp, cách thức mà chủ
thể lãnh đạo là Đảng tác động vào đối tượng lãnh đạo (ở đây là Nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội) nhằm thực hiện mục đích của mình.
Phương thức lãnh đạo không phải là bất biến mà cũng vận động, biến đổi
tùy thuộc vào sự biến đổi của điều kiện khách quan, vào đặc điểm của
đối tượng lãnh đạo và năng lực của chủ thể lãnh đạo.
- Cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội có thể nêu ra những định hướng sau đây:
9


+ Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính
sách; lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách
của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, cụ thể hóa thành các kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và tổ chức nhân dân thực hiện có hiệu quả.
+ Đảng lãnh đạo bằng định hướng giải quyết các vấn đề trọng đại của
quốc kế dân sinh, hoặc các vấn đề cụ thể nhưng có ý nghĩa chính trị quan
trọng quan hệ tới các tầng lớp nhân dân đông đảo hoặc quan hệ đến lĩnh
vực đối ngoại.

+ Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức và cán bộ, thông qua việc giới
thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội, lãnh đạo xây dựng bộ máy đảng, bộ máy
nhà nước, bộ máy các đoàn thể trong sạch, vững mạnh.
+ Đảng lãnh đạo bằng các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước và
đoàn thể (đảng đoàn, ban cán sự, đảng ủy) kết hợp chặt chẽ với cá nhân
đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước và đoàn thể theo nguyên tắc
tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách nhiệm của đảng viên là người
đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước, đoàn thể
phải nghiêm chỉnh chấp hành mọi nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy
nhà nước và các đoàn thể thông qua tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng
viên, các ban của Đảng, đồng thời lãnh đạo, tổ chức, động viên quần
chúng nhân dân kiểm tra, giám sát, phản biện công việc và hoạt động của
cơ quan nhà nước, của cán bộ trong bộ máy công quyền, phát hiện mặt
tích cực để phát huy, mặt yếu kém để uốn nắn, khắc phục.
+ Đảng lãnh đạo bằng công tác tư tưởng - chính trị, bằng sự nêu gương
của đảng viên, thông qua việc giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, đạo
đức lối sống, phong cách công tác, ý thức trách nhiệm, ý thức tôn trọng
pháp luật, tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức; đồng thời giáo dục nhân dân chấp hành pháp luật, thực hiện nghiêm
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tích cực tham gia xây dựng Đảng
và Nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội nhưng không áp đặt mà
bằng cơ chế dân chủ, tôn trọng tính tự chủ của các đoàn thể, phù hợp với
đặc điểm, chức năng của từng đoàn thể (chẳng hạn lãnh đạo Mặt trận Tổ
quốc thông qua cơ chế hiệp thương dân chủ).
Tuy nhiên, quan trọng nhất là Đảng phải tuân thủ Hiến pháp như Khoản 3

Điều 4 Hiến pháp hiện hành quy định: "Các tổ chức của Đảng và đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật".
7. Phân tích vị trí, vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong hệ thống
chính trị theo pháp luật hiện hành?
10


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
của nước ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng, là xuất phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân
chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề
truyền thống. Vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do
chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.
Ngay sau khi nhân dân giành được chính quyền, Mặt trận đã trở thành
một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị. Tuy vai trò, vị trí, chức
năng và phương thức hoạt động của từng bộ phận cấu thành trong hệ
thống chính trị có khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn đấu xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu
mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Điều 9, Hiến pháp 2013
đã xác định: "…Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân..." điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốcViệt nam
là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta.
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp đaị đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc..." Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự
nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa
nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua
nhiều chặng đường và tồn tại lâu dài nhiều thành phần kinh tế. Trong quá
trình đó còn có sự khá nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp xã
hội, các tôn giáo... Những biến đổi về cơ cấu giai cấp và thành phần xã
hội đang đặt ra cho công tác vận động quần chúng nói chung và công tác
Mặt trận nói riêng những vấn đề mới. Nhu cầu liên minh, mở rộng việc
tập hợp các lực lượng yêu nước đặt ra một cách bức bách. Mặt khác các
thế lực thù địch đangthực hiện chiến lược diễn biến hoà bình và nhiều âm
mưu chia rẽ khối đại đoà kết dân tộc, hòng phá hoại sự nghiệp Cách mạng
của nhân dân ta.
Trong bối cảnh đó, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một
sự nghiệp đầy khó khăn gian khổ, càng đòi hỏi phải tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy vai trò
của Mặt trận và các đoàn thể thành viên càng quan trọng. Nâng cao vai
trò, tác dụng của Mặt trận trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là
một yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 1 Luật MTTQ Việt Nam 2015 quy định về vị trí, vai trò của MTTQ
Việt Nam như sau:
Một là, MMTTQ Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 1 của Luật MTTQ Việt
Nam 2015). Là tổ chức liên minh chính trị, như vậy, đương nhiên MTTQ
11


Việt Nam không phải là đoàn thể, không có hội viên, đoàn viên, mà chỉ có
các thành viên bao gồm thành viên là tổ chức và thành viên là cá nhân tiêu
biểu. Các tổ chức, cá nhân tự nguyện gia nhập và là thành viên của MTTQ
Việt Nam, khi tham gia MTTQ Việt Nam các thành viên đều có địa vị

bình đẳng trong phối hợp và thống nhất hành động và độc lập về tổ chức.
MTTQ Việt Nam là tổ chức có cơ sở xã hội rộng rãi nhất so với các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị, do đặc điểm này mà Mặt trận có
những điều kiện để tập hợp, vận động đông đảo các tầng lớp nhân dân,
mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh to lớn, cùng
nhau thực hiện chương trình phối hợp và thống nhất hành động chung
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tham gia xây dựng chính
quyền nhân dân.
Hai là: ngoài những phương thức vận động quần chúng nói chung, MTTQ
Việt Nam còn có các phương thức hoạt động đặc thù không giống với
phương thức hoạt động của Đảng, chính quyền. Khoản 2, điều 4 của Luật
MTTQ Việt Nam 2015 ghi: “Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ,
phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên”. Đặc điểm cơ bản
trong phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam là vận động, giáo dục,
thuyết phục, phối hợp và thống nhất hành động. Đó chính là cách thức,
phương pháp tiến hành những công việc để phù hợp với vai trò, chức năng
và nhiệm vụ của MTTQ Việt Nam. Đây chính là lợi thế căn bản của
MTTQ Việt Nam trong việc động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và các bộ, công chức
nhà nước.
Ba là: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo vừa là thành viên
của MTTQ Việt Nam. Đây là một nét độc đáo trong lý luận cách mạng
nước ta. Đảng là thành viên của Mặt trận nhưng với tư cách thành viên
lãnh đạo, thông qua Mặt trận để tập hợp các lực lượng quần chúng nhân
dân theo Đảng làm cách mạng. Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong
Mặt trận, là một thành viên của Mặt trận, Đảng không thể đứng trên hoặc
đứng ngoài để lãnh đạo Mặt trận.
Bốn là, MTTQ Việt Nam còn là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,

là nền tảng để xây dựng nên bộ máy nhà nước. Hệ thống của Mặt trận
được hình thành theo cấp hành chính là: trung ương; tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và xã,
phường, thị trấn. Ở mỗi cấp hành chính có Uỷ ban MTTQ Việt Nam là cơ
quan chấp hành giữa hai kỳ đại hội của Mặt trận cùng cấp; đại diện cho
Uỷ ban MTTQ Việt Nam ở từng cấp là Ban Thường trực. Dưới cấp xã có
Ban công tác Mặt trận ở cộng đồng dân cư. Với các cấp hành chính như
vậy, rất phù hợp với việc tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân ở từng cấp.

12


8. Phân biệt khái niệm quyền con người với khái niệm quyền công dân?
Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền con người”, còn có thuật ngữ
“nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh
“human rights”, mà nếu dịch trực tiếp sang tiếng Việt là quyền con người;
còn nếu dịch qua Hán - Việt là nhân quyền. Xét về mặt ngôn ngữ học,
theo Đại Từ điển tiếng Việt, quyền con người và nhân quyền là hai từ
đồng nghĩa.
Nhân quyền, ở góc độ khái quát nhất, theo Liên hợp quốc, có thể hiểu là
những gì bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được bảo đảm thì
chúng ta sẽ không thể sống như một con người. Tại Việt Nam, một số
định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu
từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền
con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và
khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc
gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Quyền con người được hiểu là những đặc quyền mà
do tự nhiên con người vốn vẫn có. Đó là nhữngkhả năng

hành động một cách có ý thức của con người. Tuy nhiên, tự bản thân
chúng đặc quyền chưa phải là quyền, để đạt được cái gọi là quyền cần một
yếu tố đó là quy chế pháp lý. Các đặc quyền của cá nhân khi trở thành đối
tượng điều chỉnh của pháp luật thì mới trở thành các quyền của con người.
Không có luật pháp thì không có quyền của con người. Do đó, quyền
của con người được định nghĩa là những đặc quyền của con
người được pháp luật ghi nhận, điều chỉnh, do cá nhân con
người nắm giữ trong mối liên hệ với nhà nước và với những
cá nhân con người khác.
Khái niệm về quyền công dân cũng ra đời từ lâu trong lịch sử, được sử
dụng rông rãi trong xã hội tư sản. So với khái niệm quyền con người, khái
niệm quyền công dân mang tính xác định hơn, gắn liền với mỗi quốc gia,
được pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Cũng do vậy nội dung,
số lượng, chất lượng của quyền công dân ở mỗi quốc gia
thường không giống nhau. Đương nhiên không có sự đối lập
giữa quyền con người và quyền công dân.
Thuật ngữ “công dân”, theo Từ điển Merriam Webster’s Collegiate
Dictionary, “công dân (citizen) là một thành viên của một nhà nước mà
người đó có nghĩa vụ trung thành và được hưởng sự bảo vệ”. Cũng như
thuật ngữ nhân quyền, có nhiều định nghĩa về quyền công dân (citizen’s
right), tuy vậy, theo một nghĩa khái quát nhất, có thể hiểu quyền công dân
là những lợi ích pháp lý được các nhà nước thừa nhận và bảo vệ cho
những người có quốc tịch của nước mình.
13


9. So sánh khái niệm quyền con người với khái niệm quyền công dân?
*Sự khác biệt giữa khái niệm quyền con ngư ời và khái niệm quyền
công dân
Một là, tư tưởng về quyền con người được hình thành cùng với sự xuất

hiện của những nền văn minh cổ đại. Còn khái niệm quyền công dân chỉ
xuất hiện cùng với cách mạng tư sản. Vì cách mạng tư sản đã đưa con
người từ địa vị thần dân trở thành công dân - với tư cách là những thành
viên bình đẳng trong một nhà nước, và pháp điển hóa các quyền tự nhiên
của con người dưới hình thức các quyền công dân. Như vậy, khái niệm
quyền công dân xuất hiện sau khái niệm quyền con người.
Hai là, xét tổng quát, quyền công dân có nội hàm hẹp hơn so với quyền
con người, do quyền công dân chỉ là những quyền con người được các
nhà nước thừa nhận và áp dụng cho riêng công dân của mình. Chẳng hạn,
trong một số trường hợp, hiến pháp của một số quốc gia có thể quy định
những quyền vốn không được nêu trong luật nhân quyền quốc tế, như
quyền sở hữu và sử dụng súng. Tuy nhiên, đây chỉ là một số trường hợp
ngoại lệ. Xét tổng quát, các quyền hiến định trong hiến pháp của các quốc
gia đều đã được ghi nhận hoặc hàm chứa trong các quyền đã được ghi
nhận bởi luật nhân quyền quốc tế.
Ở nhiều góc độ khác nhau - xem so sánh, có thể chứng minh quyền con
người là khái niệm rộng hơn quyền công dân. Ví dụ, về tính chất, quyền
con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước
như quyền công dân, mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể
cộng đồng nhân loại. Về phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế
định quốc tịch, nên chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên
của gia đình nhân loại, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch,... Nói cách
khác, quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi
người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ
thuộc vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của
chủ thể quyền.
*Tính thống nhất giữa khái niệm quyền con người và khái niệm quyền
công dân
Một là, theo nghĩa rộng, cả thuật ngữ “quyền con người” và “quyền công
dân” đều là những phạm trù triết học dùng để biểu thị mối quan hệ của cá

nhân con người với cộng đồng nhân loại (quyền con người) và với quốc
gia nơi mà người đó có quốc tịch (quyền công dân). Quyền con người và
quyền công dân đều xoay quanh một chủ thể chung (của quyền), đó là
con người, và một chủ thể chung khác (có nghĩa vụ) là các cộng đồng
nhân loại mà thể chế chính trị - pháp lý trung tâm của nó là nhà nước.
Thêm vào đó, quyền con người và quyền công dân, về bản chất, đều là
những gì mà một cá nhân con người được phép làm và được thừa nhận,
tôn trọng, bảo vệ bởi các chủ thể khác. Chính vì thế mà quyền con
người và quyền công dân là hai phạm trù rất gần gũi, và trong nhiều bối
14


cảnh hầu như không có sự phân biệt với nhau.
Hai là, các quyền con người, quyền công dân, được pháp điển hóa vào
hiến pháp các nước trên thế giới theo những cách thức nhất định.
Tuy là hai phạm trù khác nhau, nhưng quyền con người và quyền công
dân hầu như không mâu thuẫn mà ngược lại, có sự thống nhất, bổ sung,
hỗ trợ lẫn nhau. Nhìn chung, các quyền con người, quyền công dân, được
pháp điển hóa vào hiến pháp các nước trên thế giới theo ba cách cơ bản
sau:
Cách thứ nhất: Đề cập trực tiếp thành các điều khoản trong một
chương riêng (có tên là “quyền con người”, “quyền con người, quyền
công dân” hoặc ‘quyền công dân”…) hoặc rải rác trong một số
chương của hiến pháp. Đây là cách hiến định nhân quyền phổ biến nhất
hiện nay, được đa số quốc gia, trong đó có Việt Nam, áp dụng.
Cách thứ hai: Các quyền con người, quyền công dân được quy định
trong một văn bản riêng và được thừa nhận như là một cấu phần của Hiến
pháp. Ví dụ, Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1689 và Bộ luật về quyền
năm 2008 được coi là hai văn bản nguồn của Hiến pháp nước Anh. Một
ví dụ tiêu biểu khác là nước Pháp. Lời mở đầu của Hiến pháp năm 1958

(hiện hành) của nước này quy định: “Nhân dân Pháp trung thành với bản
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1789”. Điều đó có nghĩa là bản
Tuyên ngôn (được ban hành trước Hiến pháp hơn 150 năm) nhưng sau
đó đã được thừa nhận như là một nội dung của Hiến pháp.
Cách thứ ba: Không quy định trực tiếp trong nội dung mà cũng
không thành một văn bản riêng, mà được xác định như là những điều
bổ sung của Hiến pháp. Đây là trường hợp của Hoa Kỳ. Hiến pháp
Hoa Kỳ ban đầu không có quy định trực tiếp nào về nhân quyền, nhưng
sau đó được bổ sung 10 tu chính án quy định về các quyền cơ bản mà sau
này được gọi là Bộ luật về các quyền của Mỹ.
Ba là, không chỉ quyền công dân mà cả quyền con người cũng chịu sự quy
định của sự giới hạn quyền.
Giới hạn của quyền nhằm bảo đảm sự hài hòa giữa các quyền của cá nhân
và các quyền của tập thể (cộng đồng, quốc gia, dân tộc), cũng như việc
thụ hưởng quyền giữa các cá nhân với nhau. Luật nhân quyền quốc tế quy
định giới hạn áp dụng của một số quyền (limitation of rights) trong một số
điều ước quốc tế về quyền con người. Bản chất của các quy định này là
cho phép các quốc gia thành viên áp đặt một số điều kiện với việc thực
hiện/hưởng thụ một số quyền con người nhất định nhằm các mục đích như
thúc đẩy phúc lợi chung của cộng đồng, bảo vệ an ninh quốc gia (national
security), để bảo đảm an toàn cho cộng đồng (public safety), để bảo vệ
sức khỏe hay đạo đức của cộng đồng (public health or moral), và để bảo
15


vệ các quyền, tự do hợp pháp của người khác (rights and freedoms of
others).
Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù khác nhau, song có
mối liên hệ rất chặt chẽ, tác động, bổ sung lẫn nhau. Khái niệm và viễn
cảnh về quyền con người có thể được nhìn nhận qua lăng kính của quyền

công dân và ngược lại. Thực tế cho thấy sự gắn bó giữa quyền con người
và quyền công dân ngày càng trở lên mật thiết, đến nỗi trong một số
trường hợp rất khó phân biệt và trong một số bối cảnh không cần thiết
phải phân biệt giữa chúng (ví dụ các quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng, danh dự, nhân phẩm,…). Sự tương đồng kể trên khiến cho những
nỗ lực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trở lên khăng
khít, không thể tách rời, kể cả khi những nỗ lực này gắn liền với những
chủ thể tương đối khác nhau.
10. Nêu định nghĩa và phân tích các đặc điểm của quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân?
*Định nghĩa:
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là những nghĩa vụ được quy định
trong HP, những đạo luật cơ bản nhất của nhà nước, nó có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu với công dân và nhà nước, là cơ sở chủ yếu xác định địa vị
pháp lý của người công dân, là cơ sở nền tảng cho việc xác định toàn bộ
hệ thống và nghĩa vụ cụ thể khác của công dân.
*Phân tích các đ ặc điể m:
- Quyền cơ bản của công dân thường được xuất phát từ các quyền tự
nhiên thiêng liêng và bất khả xâm phạm của con người như quyền sống,
quyền bình đẳng, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc và là các quyền được
hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận.
- Nghĩa vụ cơ bản của công dân là các nghĩa vụ tối thiểu mà công dân
phải thực hiện đối với nhà nước và là tiền đề để đảm bảo cho các quyền
cơ bản của công dân được thực hiện.
- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thường được quy định trong
HP, văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất.
- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận trong HP là cơ sở
chủ yếu để xác định địa vị pháp lý của công dân. Các quyền và nghĩa vụ
cơ bản quy định trong HP là cơ sở đầu tiên cho mọi quyền và nghĩa vụ
khác của công dân được các ngành luật trong hệ thống pháp luật nước ta

ghi nhận. Tất cả mọi quyền và nghĩa vụ khác của công dân đều bắt nguồn
từ quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi trong đạo luật chính
của nhà nước. Đó là cơ sở, nền tảng của mọi quyền và nghĩa vụ khác của
công dân.
- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là nguồn gốc phát sinh các
quyền và nghĩa vụ khác của công dân. Cơ sở phát sinh duy nhất của các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là quyền công dân, nghĩa là người
có quốc tịch VN còn cơ sở phát sinh các quyền và nghĩa vụ khác của công
dân là sự tham gia của họ vào các quan hệ pháp luật, là các sự kiện pháp
16


lí…
- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thể hiện tính chất dân chủ,
nhân đạo và tiến bộ của nhà nước.
Nhìn vào các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ghi nhận trong HP
chúng ta có thể đánh giá mức độ dân chủ, nhân đạo, tiến bộ và mối quan
hệ giữa nhà nước, xã hội và cá nhân.
11. Phân tích nội dung và ý nghĩa quyền tự do kinh doanh (Điều 33 HP
2013)?
Trong quá trình phát triển kinh tế, ở từng giai đoạn cách mạng, các vấn đề
quyền tự do kinh doanh, về doanh nghiệp, doanh nhân được nhìn nhận ở
các góc độ khác nhau và được thay đổi bằng các quy định cụ thể trong các
văn bản quy phạm pháp luật. Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định, “Công
dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định pháp luật”. Điều 33, Hiến
pháp 2013 quy định rõ ràng, hoàn chỉnh hơn: “Mọi người có quyền tự do
kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Quy định
này hàm chứa hai ý quan trọng: (i) Mọi người có quyền tự do kinh doanh;
và (ii) Giới hạn của quyền tự do đó là những gì luật cấm, nói khác đi,
muốn cấm cái gì thì Nhà nước phải công bố minh thị.

Quyền tự do kinh doanh của công dân là một quyền hiến định, ngày càng
được xác định rõ ràng, đầy đủ và thực sự trở thành cơ sở pháp lý hết sức
quan trọng để công dân được hưởng đầy đủ một trong những quyền hết
sức cơ bản của công dân - quyền tự do kinh doanh. Tuy nhiên, do điều
kiện nước ta phải trải qua nhiều biến cố lịch sử khác nhau ở nhiều giai
đoạn, do đó tự do kinh doanh cũng có sự điều chỉnh cho phù hợp với yêu
cầu và điều kiện cụ thể. Nhận rõ ý nghĩa quan trọng của việc bảo đảm sự
bình đẳng của công dân trong quá trình phát triển kinh tế và nhìn nhận nó
như một giải pháp có ý nghĩa đặc biệt trong việc tạo ra nguồn lực để xây
dựng và phát triển đất nước nên ngay từ bản Hiến pháp 1946 đã xác định:
“Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm” (Điều 12).
Với quy định này, quyền tư hữu về tài sản từ tất cả các nguồn, kể cả tài
sản do kinh doanh mà có được Nhà nước bảo đảm. Cụ thể hơn, Điều 6 của
bản Hiến pháp này quy định: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang
quyền về mọi phương diện: Chính trị, kinh tế, văn hoá”. Với quy định
này, không có cách hiểu nào khác đó là quyền bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế trong xã hội.
Hiến pháp 2013 trên cơ sở đó quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm” (Điều 33). Đáng
chú ý là, tại Khoản 1 và 2, Điều 51 quy định:
1.Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo.
2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
17


tác và cạnh tranh theo pháp luật.
3.

“Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và
cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững
các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá
nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và
không bị quốc hữu hoá”. Quy định này thể hiện tính bình đẳng về tự do
kinh doanh của nhà đầu tư. Các chủ thể hoạt động kinh doanh đều bình
đẳng trước pháp luật, cạnh tranh lành mạnh theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật.
Như vậy, Hiến pháp 2013 đã thể hiện tính công bằng, không có sự phân
biệt, đối xử giữa các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế khác nhau.
Những sự tiến bộ của Hiến pháp mới đáp ứng được tính nhạy bén của
pháp luật về kinh doanh, huy động toàn diện, đồng bộ tất các các nguồn
lực để xây dựng và phát triển đất nước.
12. Phân tích nội dung và ý nghĩa quyền khiếu nại tố cáo theo HP hiện
hành?
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi
nhận tại Điều 30 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 (Hiến pháp 2013). Đây là hiện tượng phát sinh trong đời
sống xã hội như là một phản ứng của con người trước một quyết định, một
hành vi nào đó mà người khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi đó là
không phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực trong đời sống cộng đồng,
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Dưới góc độ pháp lý,
khiếu nại được hiểu là: “việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ,
công chức theo thủ tục đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành
chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng
quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của mình” (Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011).
Từ khái niệm có thể thấy rằng khiếu nại là đề nghị của cá nhân, cơ

quan, tổ chức chịu tác động trực tiếp của quyết định hành chính hay hành
vi hành chính hoặc là đề nghị của cán bộ, công chức chịu tác động trực
tiếp của quyết định kỷ luật đối với cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại.
Cùng với khiếu nại, quyền tố cáo của công dân đã được tiếp tục ghi nhận
trong Hiến pháp 2013 (cũng tại Điều 30), Luật khiếu nại, Luật tố cáo và
nhiều văn bản pháp luật khác. Khái niệm tố cáo có thể được hiểu dưới
nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ pháp lý, tố cáo được hiểu: “là việc
công dân theo thủ tục báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
18


hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” (Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo
năm 2011). Như vậy, công dân dù bị ảnh hưởng trực tiếp hay không bị
ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm pháp luật là đối tượng của việc tố cáo đều
có quyền thực hiện việc tố cáo khi biết được có hành vi vi phạm pháp luật
xảy ra trong đời sống xã hội. Công dân có thể cung cấp các thông tin về
hành vi vi phạm pháp luật cho các cơ quan nhà nước, nhưng khác với tố
cáo ở chỗ là tố cáo luôn được gửi tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
theo một trình tự thủ tục do pháp luật quy định và người tố cáo luôn là chủ
thể xác định, có những quyền, nghĩa vụ được quy định trong Luật khiếu
nại, tố cáo. Khi công dân thực hiện quyền tố cáo thì giữa họ với cơ quan
nhà nước sẽ phát sinh những quan hệ pháp luật nhất định và họ phải chịu
trách nhiệm về những thông tin mà mình cung cấp. Nội dung tố cáo của
công dân rất đa dạng và phức tạp; có tố cáo về những việc làm trái pháp
luật của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước khi thực hiện nhiệm
vụ, công vụ; có những tố cáo về những sai phạm trong công tác quản lý
của các cơ quan, trong đó có cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Ngoài

ra, công dân có thể tố cáo các hành vi vi phạm về đạo đức, lối sống của
cán bộ, công chức…
Khi thực hiện quyền tố cáo là công dân đã thực hiện quyền làm chủ của
mình trong việc xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước làm cho bộ máy
nhà nước ngày càng phát huy hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý
xã hội; hay nói rõ hơn thực hiện quyền tố cáo chính là việc tỏ rõ trách
nhiệm của công dân không chỉ trong việc giám sát hoạt động quản lý
của Nhà nước để xây dựng bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch,
vững mạnh mà còn đối với cả việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
nhà nước để đây thực sự là những “người đại biểu của nhân dân”, góp
phần ngăn chặn, tiến tới loại trừ những hành vi quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, sách nhiễu quần chúng của một bộ phận cán bộ công chức nhà
nước.
Có thể nhận thấy, quyền giám sát chính là cơ sở để phát sinh quyền khiếu
nại, quyền tố cáo bởi vì thông qua giám sát, công dân mới phát hiện
những sai trái, vi phạm pháp luật trong hoạt động của cơ quan Nhà nước
và cán bộ của cơ quan Nhà nước để tiến hành khiếu nại hoặc tố cáo. Vì
vậy, quyền khiếu nại và quyền tố cáo là hai quyền chính trị cơ bản của
công dân, là phương tiện bảo đảm cho việc thực hiện và bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp khác của công dân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã
hội. Đồng thời đó cũng là nguồn thông tin quan trọng về tình trạng pháp
chế trong quản lý hành chính nhà nước, nó góp phần củng cố mối liên hệ
giữa nhà nước và công dân, khẳng định tính chất tham gia quản lý Nhà
nước của công dân.
13. Phân tích nội dung và ý nghĩa quyền bầu cử, ứng cử của công dân
theo pháp luật hiên hành?
Bầu cử là một thể chế dân chủ đã có từ lâu. Nhà nước ta là Nhà nước của
19



nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân tổ chức ra Nhà nước
bằng cách bầu ra các cơ quan quyền lực nhà nước. Thông qua bầu cử,
nhân dân trực tiếp bỏ phiếu bầu người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của mình, để thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước,
góp phần thiết lập ra bộ máy nhà nước để tiến hành các hoạt động quản lý
xã hội.
Quyền bầu cử và ứng cử là những quyền chính trị cơ bản của công dân
được quy định trong Hiến pháp-đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất
trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Hiến pháp 1946-bản Hiến pháp
đầu tiên của Nhà nước ta đã ghi nhận quyền này tại điều thứ 18 như sau:
“Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi, không phân biệt gái trai, đều có
quyền bầu cử trừ nhữngngười mất trí và những người mất công quyền.
Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải
biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử”.
Quyền bầu cử và ứng cử là những quyền chính trị cơ bản của công dân
tiếp tục được khẳng định xuyên suốt các bản Hiến pháp 1959 (tại điều
23), Hiến pháp 1980 (tại điều 57), Hiến pháp 1992 (tại điều 54), Hiến
pháp 2013 (tại điều 27). Hiến pháp hiện hành của nước ta quy định:
“Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt
tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân”.
Quyền bầu cử được hiểu quyền công dân được lựa chọn để bầu người
xứng đáng, đại diện cho mình ở các cơ quan quyền lực Nhà nước mà
không bị bất kỳ sự cản trở nào. Công dân từ đủ mười tám tuổi trở lên có
quyền bầu cử. Quyền bầu cử bao gồm: quyền giới thiệu người ứng cử (đề
cử), quyền tham gia các hoạt động bầu cử và quyền bỏ phiếu bầu.
Quyền ứng cử là quyền của công dân được trở thành ứng cử viên đại biểu
khi đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Quyền ứng cử
bao gồm quyền được giới thiệu ứng cử và quyền tự ứng cử. Trên cơ sở cơ
cấu, thành phần và số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giới

thiệu ứng cử theo phân bổ, cơ quan, tổ chức, đơn vị đó xem xét các tiêu
chuẩn của người được ứng cử, sau khi lấy ý kiến nhận xét của cử tri tại
Hội nghị cử tri, giới thiệu người của tổ chức mình ứng cử đại biểu và đưa
vào danh sách hiệp thương. Công dân có thể tự ứng cử đại biểu nếu tự
thấy mình có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, có điều kiện và
nguyện vọng đóng góp trí tuệ cho đất nước.
14. Phân tích nội dung, ý nghĩa nguyên tắc bầu cử trực tiếp?
*Nội dung:
Điều 1 của Luật bầu cử đại biểu QH và đại biểu HĐND năm 2015 quy
định: Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được
tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
20


Bầu cử trực tiếp là việc cử tri trực tiếp đi bầu cử, tự bỏ lá phiếu của mình
vào hòm phiếu để lựa chọn người đủ tín nhiệm vào cơ quan quyền lực nhà
nước. Cử tri không được nhờ người khác bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng
cách gửi thư. Trường hợp cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì có
thể nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; nếu vì tàn tật
không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu; cử
tri do ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ
bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri
nhận phiếu bầu và bầu.
Trong quá trình bầu cử mỗi công dân được tự do thể hiện ý chí, nguyện
vọng của mình. Mục đích của sự thể hiện ý chí nguyện vọng này là bầu
được những người xứng đáng cho mình vào Quốc hội hay Hội đồng nhân
dân. Nếu sự thể hiện ý chí nguyện vọng này được tiến hành trực tiếp, tức
là cử tri trực tiếp bầu ra người đại diện cho mình vào cơ quan dân cử thì
điều này cũng có nghĩa là cuộc bầu cử đó được tiến hành theo nguyên tắc
bầu cử trực tiếp.

Nội dung của nguyên tắc bầu cử trực tiếp là cử tri tín nhiệm người nào thì
trực tiếp bỏ phiếu cho người ấy làm đại biểu Quốc hội hay đại biểu
HĐND mà không thông qua người nào hay cấp nào khác.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp nhằm mục đích để cử tri trực tiếp lựa chọn
người đủ tín nhiệm đưa vào cơ quan quyền lực Nhà nước bằng là phiếu
của mình mà không phải thông qua bất kì một khâu trung gian nào. Cùng
với các nguyên tắc khác, nguyên tắc này là điều kiện cần thiết để đảm bảo
tính khách quan cho một cuộc bầu cử.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp được đảm bảo thực hiện bằng quy định trong
Luật bầu cử đại biểu QH, luật bầu cử đại biểu HĐND và những văn
bảndưới luật khác. Để công dân có điều kiện tham gia bầu cử đầy đủ,
pháp luật bầu cử nước ta quy định ngày bầu cử đại biểu QH, đại biểu
HĐND là ngày chủ nhật, cử tri phải tự mình đi bầu không được nhờ
người khác bầu thay, không được bầu bằng cách gửi thư…
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp còn được đảm bảo bằng các quy định pháp
luật để cử tri được trực tiếp ứng cử, đề cử, kiểm tra danh sách những
người ứng cử, khiếu nại về những sai lầm thiếu sót trong danh sách những
người ứng cử,… Đây là những yếu tố cần để có một cuộc bầu cử dân chủ,
rộng rãi, thực sự là ngày hội của nhân dân.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp là một trong những nguyên tắc xuyên suốt
của pháp luật bầu cử VN ngay từ ngày đầu dành được độc lập. Ở đây cử
tri tín nhiệm ứng cử viên nào thì trực tiếp bỏ phiếu cho người đó mà
không thông qua người nào hay cấp nào khác.
21


Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc bầu cử trực tiếp đã đuợc ghi trong HP,
ngay từ những năm đầu xây dựng đất nước, các luật về bầu cử và các văn
bản dưới luật quy định những biện pháp nhằm đảm bảo thực hiện. Và cho
đến nay, nguyên tắc bầu cử trực tiếp vẫn là một nguyên tắc quan trọng,

đuợc duy trì và không ngừng được củng cố, đổi mới cho phù hợp với hoàn
cảnh mới của đất nước.
Khi gửi gắm niềm tin vào lá phiếu của mình, các cử tri đều hy vọng và
mong muốn các đại biểu QH và HĐND sẽ là những công bộc của dân.
Bầu cử trực tiếp đảm bảo tính khách quan, chính xác, thể hiện đúng ý chí
nguyện vọng của họ. Nguyên tắc này đảm bảo cho người được bầu trực
tiếp nhận quyền lực nhà nước từ nhân dân, đảm bảo tính chịu trách nhiệm
của đại biểu trước nhân dân.
*Ý nghĩa;
Nguyên tắc trực tiếp bầu cử ra người đại diện cho mình trong các cơ quan
quyền lực nhà nước, không thông qua một khâu trung gian nào khác là
một nguyên tắc thể hiện rõ tính chất dân chủ trong sự hình thành bộ máy
nhà nước. Chính nguyên tắc này cho phép người đại diện được nhân dân
trực tiếp bầu ra nhận được quyền lực nhà nước từ nhân dân.
15. Phân tích nội dung và ý nghĩa nguyên tắc bầu cử bình đẳng?
*Nội dung:
Điều 1 của Luật bầu cử đại biểu QH và đại biểu HĐND năm 2015 quy
định: Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được
tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Bình đẳng trong bầu cử là một nguyên tắc nhằm bảo đảm tính khách
quan, không thiên vị để mọi công dân đều có khả năng như nhau tham gia
bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào.
Nguyên tắc bình đẳng được pháp luật quy định trong việc thực hiện quyền
bầu cử và ứng cử của công dân, thể hiện ở các mặt như sau:
- Số lượng dân cư như nhau thì được bầu số đại biểu bằng nhau;
- Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi cư trú;
- Mỗi người chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử;
- Mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu;
- Giá trị phiếu bầu của mọi cử tri như nhau mà không có sự phân biệt.
Nguyên tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành

phần, số lượng đại biểu Quốc hội để bảo đảm tiếng nói đại diện của các
vùng, miền, địa phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ
nữ phải có tỷ lệ đại biểu thích đáng trong Quốc hội.
Nguyên tắc bầu cử bình đẳng là một nguyên tắc quan trọng xuyên suốt
quá trình bầu cử, từ khi lập danh sách cử tri cho đến khi xác định kết quả
bầu cử. Nguyên tắc nàyquy định rằng mỗi cử tri có một phiếu bầu, mỗi lá
phiếu có giá trị ngang nhau, không phụ thuộc vào giới tính, địa vị xã hội,
22


tài sản và tôn giáo của cử tri... Nguyên tắc bầu cử bình đẳng bảo đảm để
mọi công dân có khả năng như nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự
phân biệt dưới bất cứ hình thức nào. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm tính
khách quan trong bầu cử, không thiên vị.
Xét về mặt lý luận, hầu hết các quốc gia đều quy định về nguyên tắc bình
đẳng trong bầu cử. Pháp luật bầu cử của Nhật bản quy định các lá phiếu
của cử tri có giá trị ngang nhau, không có sự phân biệt về chính trị, kinh tế
và xã hội theo tín ngưỡng, giới tính, địa vị xã hội và nguồn gốc xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc bình đẳng này dễ bị vi phạm. ở Anh,
những người có bất động sản lớn và những người đã tốt nghiệp các trường
Đại học tổng hợp thường có phiếu bầu bổ sung. Ở Niu-di-lân có quy định
những người có tài sản dưới 1 ngàn bảng Anh có 1 lá phiếu, từ 1 ngàn tới
2 ngàn có 2 lá phiếu, và trên 3 ngàn có 3 lá phiếu.
Ngoài ra, một số quốc gia còn áp dụng các quy định về việc phân biệt các
thành phần cử tri đặc biệt. Trong bầu cử Nghị viện ở Trung Quốc, quân
đội được tổ chức thành những đơn vị bầu cử riêng với số đại biểu khác
biệt. Trong hệ thống bầu cử của Pháp, để bảo đảm sự đại diện của các
cộng đồng lãnh thổ của nước Cộng hoà, Hạ nghị viện dành riêng 22 ghế
cho các vùng hải ngoại, và Thượng nghị viện dành 12 ghế cho cư dânPháp
ở nước ngoài.

*Ý nghĩa:
Đây là nguyên tắc đòi hỏi phải tuân thủ trong suốt quá trình tiến hành bầu
cử từ khi lập danh sách cử tri cho đến khi kết thúc, tuyên bố kết quả bầu
cử. Mức độ dân chủ của cuộc bầu cử phụ thuộc chủ yếu vào tiến trình
thực hiện nguyên tắc này.
Trong một chừng mực nào đó, việc thực hiện nguyên tắc bỏ phiếu kín,
bầu cử phổ thông cúng như nguyên tắc bầu cử trực tiếp cũng là để thực
hiện nguyên tắc bình đẳng và ngược lại.
16. Phân tích nội dung và ý nghĩa nguyên tắc bầu cử phổ thông?
*Nội dung:
Điều 1 của Luật bầu cử đại biểu QH và đại biểu HĐND năm 2015 quy
định: Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được
tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Nguyên tắc bầu cử phổ thông là một trong những nguyên tắc cơ bản của
chế độ bầu cử, được Hiến pháp của hầu hết các nước quy định. Nguyên
tắc này thể hiện tính dân chủ rộng rãi, đòi hỏi sự bảo đảm để công dân
thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của mình.
23


Nguyên tắc phổ thông thể hiện tính toàn dân và toàn diện trong bầu cử,
bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư
trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền tham gia bầu cử và đủ hai
mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy
định của pháp luật.
Yêu cầu của nguyên tắc này là Nhà nước phải bảo đảm để cuộc bầu cử
thực sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện
thuận lợi để công dân thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo đảm tính dân
chủ, công khai và sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.

Nhà nước ta là Nhà nước của dân, người dân làm chủ trong việc bầu ra
những người đại diện cho mình. Vì vậy, Nhà nước phải tạo điều kiện
thuận lợi để mọi công dân đều có thể tham gia bầu cử. Ngược lại, công
dân tham gia bầu cử để thực hiện quyền chính trị quan trọng, đồng thời là
nghĩa vụ của mình.
Nguyên tắc phổ thông thể hiện tính công khai, dân chủ rộng rãi, đòi hỏi sự
bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử.
Nguyên tắc phổ thông được thể hiện ở tính toàn dân và toàn diện của bầu
cử. Bầu cử là công việc của mọi người, là sự kiện chính trị của xã hội.
Cuộc bầu cử được tiến hành trong cả nước nếu đó là bầu cử đại biểu Quốc
hội, trong cả địa phương nếu đó là bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Các bước chuẩn bị và tiến hành bầu cử cũng phải bảo đảm yêu cầu phổ
thông, cụ thể là:
- Các tổ chức bầu cử được thành lập công khai, có sự tham gia của đại
diện các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân.
- Danh sách cử tri được niêm yết công khai nơi công cộng để nhân dân
theo dõi.
- Danh sách những người ứng cử cũng được lập và niêm yết công khai để
cử tri tìm hiểu và lựa chọn.
- Ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu phải được ấn định và công bố trước để nhân
dân biết.
- Việc kiểm phiếu cũng phải được tiến hành công khai có sự tham gia
24


chứng kiến của đại diện cử tri; đại diện các cơ quan thông tin đại chúng
được vào chứng kiến kiểm phiếu.
*Ý nghĩa:
Ngay từ thời non trẻ, Nhà nước VN đã áp dụng nguyên tắc bầu cử phổ
thông cho mọi công dân VN. Nguyên tắc này đến nay vần giữ nguyên ý

nghĩa của nó và được ấn định trong Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013.
Điều 27 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có
quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc
hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định”
Quyền bầu cử phổ thông của nhà nước XHCN VN khác với quyền bầu cử
phổ thông của nhà nước tư sản không những bằng việc không quy định
hạn chế tiêu chuẩn người tham gia bầu cử, trừ việc quy định hạn chế ở
dưới mức tuổi trường thành mà còn quy định sự tham gia bầu cử của tất
cảc các quân nhân đang tại ngũ. Hạn chế việc tham gia của quân đội vào
các cuộc bầu cử là đặc trưng của chế độ tư bản (quân đội không tham gia
chính trị).
Quyền bầu cử của công dân được các cơ quan phụ trách bầu cử ghi nhận
trong danh sách cử tri. Tất cả mọi công dân có đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị pháp luật tước quyền bầu cử
đều được ghi tên trong danh sách cử tri.
17. Anh (chị) phân tích vai trò của Mặt trận Tổ quốc VN trong bầu cử
đại biểu Quốc hội theo pháp luật hiện hành?
Vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong chế độ chính trị
lần đầu tiên được khẳng định trong Hiến pháp tại Điều 9, Hiến pháp năm
1980: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - bao gồm các chính đảng, Tổng
Công đoàn Việt Nam, tổ chức Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam và các thành viên khác của Mặt trận - là chỗ dựa vững chắc của
nhà nước.
Điều 9 của HP 2013: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh
chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các
tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở
nước ngoài". Mặt trận tổ quốc có vai trò rất lớn trong việc bầu cử. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới
thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và tham gia giám sát việc bầu cử đại

biểu Quốc hội để làm rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức
25


×