Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH tế DU LỊCH ở TỈNH NINH BÌNH GIAI đoạn 2010 – 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.93 KB, 78 trang )

1


2

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài.
Hiện nay, kinh tế du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và chiếm vị trí
hết sức quan trọng trong nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Việt Nam là
một trong những quốc gia có tiềm năng về du lịch, nhu cầu về phát triển kinh tế du
lịch đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng lĩnh
vực kinh tế này trong đường lối và chính sách phát triển nền kinh tế quốc dân.
Với vị trí địa lý và tiềm năng về tài nguyên du lịch phong phú, thời gian qua
Ninh Bình đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, đóng góp tích cực vào sự
nghiệp phát triển kinh tế du lịch của cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển
nhiều tiềm năng chưa được khai thác một cách hiệu quả, sự phát triển kinh tế du
lịch Ninh Bình chưa tương xứng với tiềm năng và trí của mình. Cơ sở hạ tầng, vật
chất kỹ thuật của tỉnh mặc dù đã được cải thiện rất nhiều trong những năm gần đây
nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, chất lượng phục vụ còn thấp, sản
phẩm du lịch còn nghèo nàn, đơn giản, chưa phong phú. Đầu tư phát triển kinh tế
du lịch trên địa bàn tỉnh còn dàn trải, thiếu tập trung, khả năng thu hút vồn đầu tư
còn thấp. Số lượng lượt khách, doanh thu và tốc độ tăng trưởng kinh tế du lịch của
Ninh Bình còn thấp. Do vậy, việc nghiên cứu kinh tế du lịch của tỉnh có ý nghĩa rất
quan trọng để vừa khai thác lợi thế có sẵn, đồng tời góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân.
Trong những năm quan đã có một số tác giả quan tâm tới vấn đề này, tuy
nhiên các nghiên cứu vẫn chưa thực sự hệ thống và chưa theo kịp xu thế phát triển
kinh tế du lịch hiện nay, nhất là khi đất nước bước vào giai đoạn xây dựng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế mạnh mẽ. Chính vì thế, sau một thời




3

gian dài tìm hiểu và nghiên cứu em đã lựa chọn đề tài “Phát triển kinh tế du lịch
tỉnh Ninh Bình” là đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài.
Liên quan đến vấn đề du lịch và sự phát triển kinh tế du lịch ở Ninh Bình đã
có những công trình khoa học và các đề tài nghiên cứu. Chẳng hạn như:
“Nguồn nhân lực cho ngành du lịch tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện
nay” (năm 2015) của tác giả Hà Duy Huỳnh.
“Đầu tư phát triển ngành du lịch Ninh Bình. Thực trạng và giải pháp” (năm
2009) của tác giả Nguyễn Thị Huyền.
“Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Ninh Bình” (năm 2007) của tác
giả Lê Đức Anh.
“Phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Thực trạng và giải
pháp” (năm 2004) của tác giả Đặng Mai Phương.
“Nghiên cứu, phát triển du lịch sinh thái tại khu du lịch Tràng An – Ninh
Bình” (năm 2010) của tác giả Nguyễn Thị Giang.
“Hoàn thiện việc phát triển khu du lịch sinh thái Tràng An – Ninh Bình”
(năm 2012) của tác giả Đinh Thị Tâm
Mặc dù, các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra được cơ sở khoa học và đề
cập tới các khái niệm về du lịch, đánh giá thực trạng và đề ra giải pháp phát triển.
Tuy nhiên, các kết quả đó chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế du lịch
Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, đề tài “Phát triển kinh tế du lịch tỉnh
Ninh Bình” có ý nghĩa thực tiễn và tính thời sự rất cao.

3.

3.1.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những cơ sở khoa học cho việc phát triển kinh tế du lịch của tỉnh
Ninh Bình dựa trên việc nghiên cứu tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn, cũng


4

như là thực trạng phát triển kinh tế du lịch của tỉnh, từ đó đề xuất các giải pháp cho
phát triển kinh tế du lịch tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2016 – 2020.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, khóa luận cần thực hiện các nhiệm vụ
sau:
Thứ nhất là làm rõ những vấn đề lý luận về du lịch và kinh tế du lịch
Thứ hai là phân tích đặc điểm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du
lịch nhân văn ở tỉnh Ninh Bình.
Thứ ba là phân tích thực trạng phát triển kinh tế du lịch và những vấn đề còn
tồn tại trong phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn 2010 - 2015
Thứ tư là đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Ninh Bình

4.
4.1.

giai đoạn 2016 - 2020
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là sự phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Ninh Bình trên
quan điểm phát triển kinh tế bền vững.

4.2.

Phạm vi nghiên cứu đề tài
Khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu kinh tế du lịch ở tỉnh Ninh Bình giai
đoạn 2010 – 2015 và định hướng phát triển kinh tế du lịch giai đoạn 2016 – 2020.

5.

Phương pháp nghiên cứu
Đề tài khóa luận đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp duy vật biện chứng: là phương pháp nghiên cứu các hiện
tượng kinh tế - xã hội trong trạng thái vận động và có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, nó cho phép phân tích một cách khách quan các vấn đề nghiên cứu như: thực
trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Ninh Bình, vai trò của phát triển kinh tế du
lịch đối với tỉnh Ninh Bình nói chung và đối với cả nước nói chung.
Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh: được sử dụng để thu thập, xử
lý số liệu, tài liệu từ nguồn tài liệu khác nhau theo yêu cầu của khóa luận. Tác giả


5

đã tiến hành thu thập số liệu tại Sở VHTT – DL, Cục Thống kê tỉnh Ninh Bình để
làm rõ thực trạng phát triển kinh tế du lịch những năm trong giai đoạn 2010 – 2015
và định hướng phát triển kinh tế du lịch trong giai đoạn 2016 – 2020.
Phương pháp thống kê: được sử dụng vào vệc tính toán dựa trên các số liệu
về lượt khách, cơ sở lưu trú, doanh thu du lịch, tốc độ phát triển,…để phục vụ cho
việc đánh giá tình hình phát triển kinh tế du lịch địa phương.

Phương pháp dự báo: trên cơ sở những kết quả nghiên cứu, tác giả đề ra các
giải pháp cho phát triển kinh tế du lịch tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn 2016 –
2020.
6.

Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, nội dung của đề tài được chia thành 3
chương sau:
Chương I: Cơ sở lý luận và tác động của sự phát triển kinh tế du lịch.
Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Ninh Bình giai đoạn
2010 – 2015.
Chương III: Những phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế
du lịch tỉnh Ninh Bình.

1.1.

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ DU LỊCH
Khái niệm kinh tế du lịch.
Du lịch ngày càng phát triển đã thúc đẩy các hình thức kinh doanh ra đời vf
phát triển. Mầm mống của những hoạt động kinh doanh du lịch đã xuất hiện từ tời
cổ đại ở và gắn liền với hoạt động truyền văn hóa, tín ngưỡng ở các trung tâm văn
hóa kinh tế thông qua việc nghỉ ngơi, lưu trú, ăn uống và đi lại. Tuy nhiên, trong
thời kỳ này các hoạt động kinh doanh du lịch chưa phát triển, phải đến giữ thế kỷ
XIX thì các hoạt động kinh doanh du lịch mới có điều kiện phát triển mạnh mẽ và
trở thành một ngành nghề mới, đó là ngành du lịch. Hiện nay, cuộc cách mạng
khoa học công nghệ đã làm thay đổi lối sống và diện mạo của mỗi quốc gia, mỗi


6


vùng miền. Điều này làm cho ngành du lịch chuyển dịch theo các xu hướng đó là:
xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa du lịch. Đó là việc ứng dụng các công
nghệ điện tử vào du lịch và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho du lịch, phát triển
hệ thống bán các sản phẩm du lịch qua internet, xu thế quốc tế hóa, khu vực hóa du
lịch: du lịch có sự liên kết giữa nhiều quốc gia, nhiều vùng miền khác nhau trên thế
giới.
Như vậy, qua quá trình phát triển của ngành du lịch chúng ta có thể hiểu
“Kinh tế du lịch là quá trình sản xuất, thiết kế, lưu thông và tổ chức thực hiện các
chương trình du lịch với mục đích thỏa mãn nhu cầu của du khách để thu lợi ích
kinh tế. Đồng thời, đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn xã hội, bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, tăng cường giao lưu và hội nhập kinh tế…”
Hiện nay ngành kinh tế du lịch là ngành kinh tế được nhiều quốc gia coi
trọng, các nước tập trung phát triển nhiều loại hình du lịch nhằm thu hút khách du
lịch và tăng thu nhập tổng ngành kinh tế quốc dân.
1.2.

Các nhân tố ảnh hưởng và tác động của kinh tế du lịch đến sự phát triển kinh
tế - xã hội.
1.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế du lịch.
Kinh tế du lịch là một ngành kinh tế giống như nhiều ngành kinh tế khác nên
cũng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác đến phát triển kinh tế du lịch. Các
nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế du lịch bao gồm các nhóm nhân tố:

1.2.1.1.

Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên
Thứ nhất là vị trí địa lý. Đây là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế du lịch, vị trí địa lý thuận lợi có thể thúc đẩy kinh tế du lịch phát triển.
Vị trí địa lý thuận lợi bao gồm các điều kiện: Điểm du lịch có nằm trong hay gần

các khu vực phát triển du lịch hay không? Khoảng cách từ các điểm du lịch tới các
đường giao thông chính, các sân bay, bến cảng, nhà nghỉ gần hay xa?... Điều này
có ý nghĩa đặc biệt giúp các khách du lịch tiết kiệm chi phí cũng như thời gian di


7

chuyển và lưu trú. Tuy nhiên, có một số loại hình du lịch khoảng cách xa và không
thuận lợi để trở thành những điểm hấp dẫn khách du lịch. Ví dụ như là du lịch mạo
hiểm, du lịch cắm trại, ở Việt Nam du lịch vùng cao sẽ đem lại cảm giác và những
trải nghiệm mới cho du khách.
Thứ hai là đặc điểm địa hình và khí hậu. Sự ảnh hưởng của nhân tố địa hình,
địa chất đối với hoạt động du lịch thể hiện ở sự hấp dẫn của các dạng địa hình độc
đáo, đặc trưng của từng khu vực. Ví dụ cảnh quan cacxto nhiệt đới, các bờ biển,
hồ, vùng, vịnh, đảo, các cồn cát,… là những nơi mà cách khách du lịch thường hay
thích tới tham quan, vãn cảnh. Khí hậu cũng là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động du lịch bởi các yếu tố khí hậu như: nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, mùa
trong năm… ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người, đặc điểm vui chơi
giải trí,… Đặc biệt, đối với nước ta thì khí hậu phân chia theo mùa gây ảnh hưởng
rất lớn đến tính mùa du lịch trong năm, ví dụ như vào mùa mưa miền Bắc sẽ hạn
chế du lịch mạo hiểm vì đường đi, cảnh quan du lịch bị mưa nhiều độ ẩm cao dễ
trơn trượt còn không kể đến việc sụt lún, sương mù…
Thứ ba là tài nguyên nước. Nguồn tài nguyên nước ảnh hưởng đến hoạt
động du lịch dễ nhân thấy như sức hấp dẫn du lịch trên sông nước, phát triển du
lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh trên cơ sở khai thác các nguồn tài nguyên nước
khoáng, nước nóng… Một điểm du lịch có nguồn tài nguyên nước dồi dào phong
phú là cơ sở quan trọng để phục vụ tốt nhu cầu sinh hoạt của khách du lịch.
Thứ tư là tài nguyên sinh vật. Sự đa dạng về các loài động vật, thực vật sống
trên lục địa và dưới nước,… có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với khách du lịch muốn
khám phá vẻ đẹp của tự nhiên, gần gũi với thiên nhiên. Tài nguyên sinh vật có ở

các quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, nhất là nơi có các loài động vật, thưc vật
1.2.1.2.

quý hiếm, hoang dã luôn là điểm đến đầy thú vị cho khách du lịch.
Điều kiện kinh tế - xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn
Thứ nhất là đường lối và chính sách phát triển kinh tế du lịch địa phương.
Đây là một bộ phận quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội ở mối


8

quốc gia. Ở mỗi địa phương, quốc gia ngành du lịch có vai trò trở thành ngành mũi
nhọn hay không thì nguồn tài nguyên du lịch là yếu tố cần, còn điều kiện đủ đó là
yếu tố con người và cơ chế chính sách đúng đắn, phù hợp, thuận lợi cho phát triển
kinh tế du lịch. Đường lối, chính sách phát triển kinh tế du lịch được cụ thể ở
những việc làm sau: đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị, xã hội; ban hành hệ thống
pháp luật thông thoáng tạo điểu kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch như pháp luật
du lịch, văn bản pháp quy về nhập cảnh, hải quan,… thành lập các cơ quan quản lý
về khu du lịch từ trung ương đến địa phương hợp lý, khoa học và ổn định.
Về mặt vĩ mô: Sự có mặt của tổ chức quản lý kinh tế du lịch có vai trò to lớn
đến sự phát triển của kinh tế du lịch. Cấp quản lý trung ương gồm các Bộ (chủ
quản và liên quan), Tổng cục, các phòng ban trực thuốc Chính phủ có liên quan
đến các vấn đề về du lịch như: Ban thanh tra, Ban thư ký,… Cấp quản lý địa
phương bao gồm: Các chính quyền địa phương, Sở du lịch,…Hệ thống các thể chế
quản lý bao gồm: các đạo luật và các văn bản dưới luật, các chính sách quản lý hối
đoái, giá cả, chính sách bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành du lịch,…
Về mặt vi mô: Bao gồm sự có mặt của các doanh nghiệp chuyên trách về du
lịch, là những tổ chức chăm lo, đảm bảo sự đi lại và phục vụ trong thời gian lưu trú
của khách sạn du lịch. Phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp: kinh doanh khách
sạn, kinh doanh lữ hành, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh các

dịch vụ khác,…
Đường lối và chính sách phát triển du lịch của địa phương đúng đắn, thuận
lợi, phù hợp sẽ thu hút nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và
ngoài nước vào đầu tư kinh doanh kinh tế du lịch.
Thứ hai là điều kiện kinh tế. Nhân tố kinh tế có tác động sâu sắc tới hoạt
động kinh tế du lịch, nếu nền kinh tế phát triển ở trình độ cao và ổn định thì việc
đầu tư vào phát triển kinh tế du lịch sẽ được chú trọng, đảm bảo hơn thông qua các
nguồn vốn tu bổ, xây dựng vật chất, phương tiện phục vụ du lịch,… Do xu hướng


9

phát triển hiện nay của du lịch là hiện đại hóa, hội nhập hóa nên ngành du lịch nói
chung và các hoạt động du lịch cụ thể yêu cầu phải liên tục đổi mới, cần phải được
hiện đại hóa, nâng cao chất lượng để phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách du lịch.
Ngoài ra, nhân tố kinh tế còn mang tính quyết định đến lượng khách du lịch, đời
sống của con người đảm bảo được điều kiện kinh tế, đầy đủ vật chất thì họ mới có
thể chú trọng nhiều hơn đến đời sống tinh thần của mình. Do vậy, một quốc gia có
nền kinh tế phát triển thì nhu cầu về du lịch cũng như kinh tế du lịch sẽ phát triển
cao hơn các quốc gia nghèo đói.
Thứ ba là tình hình chính trị - xã hội. Một nền chính trị hòa bình, ổn định là
tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho sự phát triển kinh tế du lịch
nói riêng ở bất cứ quốc gia nào. Một quốc gia, một dân tộc dù có thiên nhiên đẹp,
lịch sử lâu dài nhưng nền chính trị luôn nằm trong tình trạng bất ổn, thiên tai đe
dọa, rình rập thì cũng làm giảm hứng thú của các du khách đến tham quan du lịch.
Các nhân tố chính trị - xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế du lịch như: vấn
đề an ninh, nếu anh ninh không được đảm bảo, hiện tượng trộm cướp, các tệ nạn xã
hội tràn lan, khủng bố,… sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp tới khách du lịch; các loại
dịch bệnh như sốt rét, viêm đường hô hấp, HIV/AIDS, Ebola, thủy đậu,… làm ảnh
hưởng đến sức khỏe, sự kỳ thị, lòng hận thù của người bản xứ với các vùng, miền,

dân tộc khác nhau hay kỳ thị tôn giáo cũng làm ảnh hưởng lớn tới hình ảnh đất
nước trong con mắt bạn bè quốc tế và trở ngại cho phát triển kinh tế du lịch.
Thứ tư là cơ sở vật chất kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch bao
gồm toàn bộ nhà cửa, máy móc, thiết bị, phương tiện phục vụ cho du lịch và kinh
tế du lịch như khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ, các cửa hàng, văn phòng, phương
tiện giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, khu vui chơi, giải trí,…Trong nhóm
nhân tố này bao gồm các điều kiện vật chất kỹ thuật xã hội và các điều kiện vật
chất do khu du lịch xây dựng.


10

Vật chất kỹ thuật xã hội là những phương tiện vật chất không phải do khu du
lịch xây dựng, đầu tư; nó là sản phẩm của toàn xã hội như đường xá, cầu cống, hệ
thống thông tin liên lạc, các công viên, các viện bảo tàng,… Trong đó, hệ thống
giao thông và hệ thống thông tin liên lạc có ý nghĩa quyết địch đến sự tiên tiến của
du lịch.
Vật chất du lịch do chính cơ sở du lịch đầu tư xây dựng gồm các công trình
tổ chức du lịch xây dựng bằng chính nguồn vốn đầu tư của mình như rạp chiếu
phim, sân thể thao, các khu trưng bày,… Các cơ sở này góp phần vào việc sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm du lịch.
Thứ tư là các yếu tố nguồn lực lao động. Việc đầu tư bồi dưỡng nguồn nhân
lực trong ngành du lịch là yếu tố ảnh hưởng lớn tới phát triển kinh tế du lịch và
hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi một lực lượng lao động rất lớn, lao động làm
việc trong ngành du lịch cần có chuyên môn và khả năng giao tiếp tốt, có như thế
mới có thể tạo ấn tượng tốt cho khách du lịch, quảng bá được hình ảnh khu du lịch
sâu rộng và in đậm trong lòng những người tới tham quan du lịch. Đội ngũ phục vụ
du lịch cũng là nhân tố quyết định đến chất lượng du lịch, đội ngũ phục vụ tốt sẽ
khiến khách du lịch có xu hướng quay lại các điểm du lịch này nhiều hơn và thu
hút được đông đảo khách hơn.

1.2.1.3. Nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến phát triển kinh tế du lịch
Ngoài những nhân tố bên trên trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh
tế du lịch thì trong trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, nguồn lực bên ngoài đã
trở thành một trong những nhân tố khách quan vô cùng quan trọng để phát triển
kinh tế du lịch. Nhân tố bên ngoài chủ yếu là: vốn, chuyển giao công nghệ và kinh
nghiệm quản lý. Cụ thể, du lịch nước ta đã tranh thủ được nguồn vốn bên ngoài
thông qua các dự án đầu tư xây dựng khách sạn, nhà nghỉ, dịch vụ tại các khu trọng
điểm du lịch; ngoài ra, chúng ta cũng tiếp thu được kinh nghiệm quản lý, kinh
doanh du lịch từ các quốc gia có nền kinh tế du lịch phát triển.


11

Ngoài ra, tình hình ổn định kinh tế, chính trị thế giới cũng ảnh hưởng tới
lượng khách du lịch quốc tế do đó ảnh hưởng tới việc phát triển kinh tế du lịch của
ở bất kỳ quốc gia nào.
Trên đây là hệ thống các nguồn lực có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển
kinh tế du lịch. Mỗi một nhân tố giữ một vai trò riêng. Hệ thống di sản văn hóa và
cảnh quan thiên nhiên giữ vai trò tiền đề mang tính tiềm năng để tạo ra các tuyến,
điểm du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật có vai trò là nền tảng để phát triển kinh tế du
lịch; dân cư và lao động là nhân tố con người giữ vai trò quyết định tới tốc độ phát
triển kinh tế du lịch. Đường lối, chính sách phát triển kinh tế du lịch giữ vị trí tiên
phong, mở đường. Nguồn lực bên ngoài giữ vai trò khách quan, ảnh hưởng sâu sắc
tới sự phát triển của kinh tế du lịch. Tất cả thống nhất, hòa quyện tạo thành động
lực cho phát triển du lịch bền vững của mỗi quốc gia.
1.2.2. Tác động của sự phát triển kinh tế du lịch đối với kinh tế - xã hôi và
môi trường.
Kinh tế du lịch đã, đang và ngày càng phát triển mạnh mẽ ở hầu hết ở tất cả
các quốc gia trên thế giới bởi những lợi ích kinh tế mà nó đem lại là rất lớn trên
phương diện kinh tế - xã hội và môi trường.

1.2.2.1. Tác động đến phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển kinh tế du lịch sẽ có những tác động tích cực đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và dân tộc, nó không chỉ phục vụ cho lợi ích cá
nhân những người đi du lịch mà nó còn mang lại lợi ích về mặt kinh tế - xã hội cho
những quốc gia, dân tộc, nơi có các điểm du lịch. Các tác động tích cực đó được
biểu hiện cụ thể:
Kinh tế du lịch đóng góp to lớn vào sự phát triển nền kinh tế quốc dân, làm
tăng nguồn thu ngoại tệ và đóng góp không nhỏ vào ngân sách quốc gia nói chung
và vào kinh tế địa phương nói riêng.


12

Phát triển kinh tế du lịch góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động của đất nước, các vùng miền. Phát triển kinh tế du lịch là
phát triển và nâng cao chất lượng ngành dịch vụ. Mặt khác, ngành du lịch là ngành
đòi hỏi nhiều lao động phức tạp, có trình độ do vậy nó cũng làm thay đổi cơ cấu
lao động, làm tăng tỷ lệ lao động phức tạp, tri thức trong nền kinh tế.
Kinh tế du lịch phát triển thúc đẩy một số ngành kinh tế khác phát triển theo,
nhu cầu du lịch về sự đi lại, lưu trú, nhu cầu cần mua sắm, ăn uống… tạo cơ hội
phát triển các ngành như: ngành giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, thủ công
mỹ nghệ, thương mại, ngân hàng và một số ngành nghề truyền thống khác.
Du lịch quốc tế mang lại ngoại tệ cho đất nước, góp phần cân bằng cán cân
thanh toán quốc tế. Đây còn là kênh thu hút đầu tư nước ngoài, qua các tour du lịch
nhà đầu tư sẽ tìm kiếm cơ hội kinh doanh, đồng thời bản thân du lịch cũng là lĩnh
vực thu hút đầu tư đầy hấp dẫn. Đồng thời các dự án quy hoạch phát triển du lịch
tạo nhiều việc làm từ khi xây dựng cho đến khi dự án đi vào hoạt động cho người
lao động.
Ngoài các tác động tích cực bên trên thì sự phát triển kinh tế du lịch cũng để
lại những tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội như:

Nếu kinh tế du lịch không có định hướng chiến lược phát triển đúng đắn thì
sẽ làm ảnh hưởng tới sự phát triển của cả nền kinh tế. Sự phát triển quá nhanh của
kinh tế du lịch đặc biệt là du lịch quốc tế sẽ làm cho đồng ngoại tệ mất giá khó
kiểm soát sẽ làm ảnh hưởng tới cán cân thanh toán quốc tế.
Quản lý các điểm du lịch không tốt sẽ làm lãng phí nguồn vốn đầu tư trong
ngành du lịch như là vốn tu bổ, tái tạo các công trình lịch sử văn hóa cũng như là
vốn xây dựng, kiến tạo thêm các công trình phụ trợ du lịch, ảnh hưởng tới ngân
sách quốc gia và nguồn vốn trong xã hội, làm giảm sức thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
Mặt khác, hoạt động du lịch thường mang tính thời vụ nên đối với các dự án
quy hoạch không phù hợp giữa quy mô, chất lượng, số lượng cơ sở vật chất với tài


13

nguyên, sản phẩm du lịch đơn điệu, chất lượng thấp,… sẽ làm giảm sự hấp dẫn đối
với du khách, tính thời vụ cao cũng làm lãng phí tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật
du lịch, vốn,..
1.2.2.2. Tác động về mặt văn hóa – xã hội của sự phát triển kinh tế du lịch.
Sự phát triển kinh tế du lịch tác động đến phát triển kinh tế - xã hội theo hai
hướng đó là tác động tích cực và tác động tiêu cực. Giống như thế, sự phát triển
kinh tế du lịch cũng tác động lên mặt văn hóa – xã hội cũng theo hai hướng. Đó là:
Thứ nhất là tác động tích cực của phát triển kinh tế du lịch lên mặt văn hóa –
xã hội. Kinh tế du lịch thể hiện vai trò của nó thông qua việc tạo nhiều việc làm
cho người dân, đặc biệt là những người dân sống gần các điểm du lịch.
Du lịch còn góp phần đáp ứng như cầu tinh thần cho người dân, giữ gìn bản
sắc dân tộc, khơi dậy cho con người tinh thần hướng về cội nguồn, làm giàu thêm
tình yêu của con người đối với thiên nhiên, đất nước.
Sự mở rộng về du lịch quốc tế thúc đẩy hoạt động giao lưu văn hóa giữa các
quốc gia, vùng miền. Khi đó du lịch trở thành thành phương tiện để các quốc gia

quảng bá hình ảnh thiên nhiên, con người, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo của đất
nước mình đến với bạn bè quốc tế.
Một số loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch an dưỡng, nghỉ dưỡng,
… làm cho con người gần gũi thêm với thiên nhiên nhằm mục đích chữa bệnh hoặc
thẩm mỹ.
Thứ hai là tác động tiêu cực về mặt văn hóa – xã hội của sự phát triển kinh
tế du lịch.
Một số loại hình du lịch thường mang tính mùa vụ như du lịch lễ hội ở nước
ta thường diễn ra vào mùa xuân, du lịch nghỉ mát thường diễn ra vào mùa hè,… do
vậy đã khiến cho lao động trong ngành nghề này cũng mang tính thời vụ do vậy
hiệu quả hoạt động không cao, gây ra vấn đề sức ép về lao động du lịch ở nhiều địa
phương.


14

Du lịch không có sự quản lý chặt chẽ dễ phát sinh nhiều tệ nạn xã hội như
trộm cắp, đánh cờ bạc, ma túy, mại dâm, rượu chè,… làm ảnh hưởng tới tình hình
an ninh trật tự xã hội. Ngoài ra hiện tượng bán các hàng giả, hàng nhái, hàng kém
chất lượng nhằm lừa gạt khách du lịch gây ra hiện tượng “chặt chém” giá cả hàng
hóa đối với khách hàng đặc biệt là khách hàng người nước ngoài làm xấu hình ảnh
du lịch đất nước trong mắt bạn bè quốc tế.
Tại các điểm du lịch thường là những nơi tập trung đông người vì vậy thuận
lợi cho các phần tử phản động thực hiện các ý đồ chính trị như gây rối trật tự,
tuyên truyền phản động, tiến hành khủng bố.
1.2.2.3. Tác động đến môi trường
Ngoài các tác động đến phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa – xã hội thì sự
phát triển kinh tế du lịch cũng tác động đến môi trường. Sự tác động này cũng biểu
hiện theo hai hướng:
Hướng thứ nhất là tác động tích cực. Kinh tế du lịch góp phần bảo về môi

trường, tạo nên môi trường sống ổn định về mặt sinh thái và bảo tồn cho các động
vật, thực vật, đặc biệt là cho các loài động, thực vật quý hiếm. Du lịch đã góp phần
cải tạo môi trường sinh thái ở các khu du lịch ở rất nhiều khía cạnh, đồng thời cũng
nâng cao trách nhiệm cũng như tình yêu của con người đối với thiên nhiên.
Hướng thứ hai là tác động tiêu cực. Lượng khách du lịch gia tăng một mặt
đã làm tăng áp lực đối với môi trường sinh thái do lượng chất thải, nước thải, khí
thải ra môi trường gây ô nhiễm môi trường. Mặt khác, do nhu cầu về tài nguyên
phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho khách du lịch cũng gia tăng lên như lượng nước
sinh hoạt, khí đốt, nhiên liệu,… làm giảm tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời, lượng
khách du lịch sẽ làm phá vỡ hệ sinh thái, tàn phá các danh lam thắng cảnh do khai
thác quá mức các nguồn lực cho nhu cầu của khách du lịch và những tác động xấu
đến cảnh quan môi trường do khách du lịch đem lại. Ngoài ra, ý thức của người
tham gia tham quan những công trình di tích lịch sử văn hóa không cao như: khắc


15

tên, chạm tay lên bề mặt di tích, công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, bẻ cây, xả
1.3.

rác bừa bãi,… làm cho di tích thắng cảnh bị xấu đi hoặc bị tàn phá.
Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch ở một số địa phương và bài học rút ra

1.3.1.

cho tỉnh Ninh Bình
Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch ở Quảng Ninh.
Quảng Ninh là một địa danh giàu tiềm năng du lịch, là một đỉnh tam giác
tăng trưởng của du lịch miền Bắc Việt Nam, Quảng Ninh có danh lam thắng cảnh
là vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới và là

di sản thế giới bởi giá trị địa chất địa mạo. Tiềm năng du lịch Quảng Ninh nổi bật
lên với: các thắng cảnh nổi tiếng (vịnh Hạ Long, các bãi tắm đẹp), các di tích lịch
sử văn hóa (500 di tích) và nổi bật với các món ăn hải sản.
Trong năm qua, tổng lượng khách du lịch đến với Quảng Ninh đạt 7.767.500
lượt, tổng doanh thu du lịch đạt 6.548 tỷ. Để đạt được những thành tựu trên, Quảng
Ninh đã có điểm sáng để giải quyết một số vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực, về
xúc tiến quảng bá du lịch, về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch…
Một là về đào tạo nguồn nhân lực
Tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế chính sách và cơ
chế quản lý hoạt động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch, chế độ đãi ngộ
nhân tài và chế độ về lương, thưởng phù hợp. Quảng Ninh đang xây dựng Quy
hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh, nhân lực du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2010
– 2020 trong khuôn khổ chung của Quy hoạch phát triển nhân lực của tỉnh. Tiêu
chuẩn hóa nguồn nhân lực du lịch, xã hội hóa công tác đào tạo bồi dưỡng du lịch,
tích cực, chủ động và hội nhập quốc tế để thu hút vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến
phục vụ phát triển nguồn nhân lực của tỉnh, đẩy mạnh giáo dục du lịch cộng đồng,
vừa đào tạo cơ bản trong các cơ sở đào tạo ở trong và ngoài tỉnh, vừa đào tạo trong
cách truyền nghề mới theo kịp đòi hỏi sự phát triển của kinh tế du lịch tỉnh.


16

Kinh phí và kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực tỉnh có thể huy động bằng
nhiều cách nhưng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh xem xét cấp kinh phí hằng
năm để mở lớp đào tạo bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ phát triển nguồn nhân lực du
lịch tỉnh. Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Tổng cục du lịch tạo điều kiện hỗ trợ
công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực du lịch tỉnh.
Hai là về xúc tiến quảng bá du lịch
Tỉnh Quảng Ninh đã vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo đa dạng hình
thức nhằm quảng bá hình ảnh của tỉnh tới du khách trong nước và quốc tế. Các nội

dung tuyên truyền sẽ tập trung quảng bá vào cảnh quan thiên nhiên, về con người,
những giá trị văn hóa lịch sử truyền thống của các dân tộc trong tỉnh; những điều
kiện, giá trị tự nhiên và nhân văn đặc sắc độc đáo để xây dựng, phát triển các loại
hình, các sản phẩm du lịch thu hút du khách và các nhà đầu tư du lịch, những định
hướng, chiến lược quy hoạch… phát triển kinh tế du lịch của tỉnh và các địa
phương… các thương hiệu du lịch của địa phương, doanh nghiệp sản phẩm và dịch
vụ du lịch trong và ngoài nước sẽ được giới thiệu quảng bá sâu rộng tới cộng đồng
du khách, qua đó cung cấp thông tin chỉ dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho du khách
tìm hiểu về du lịch Quảng Ninh.
Ba là về đầu tư cho ngành du lịch
So với địa phương khác có thế mạnh về phát triển du lịch của cả nước,
Quảng Ninh vẫn được đánh giá là sự lựa chọn về điểm đến hàng đầu của du khách.
Khởi sắc của du lịch Quảng Ninh trong năm qua chủ yếu nhờ những nỗ lực trong
đầu tư cơ sở hạ tầng.
Trong những năm qua Quảng Ninh đã đầu tư và thu hút trên 17 dự án phát
triển du lịch và dịch vụ, tổng số vốn đạt gần 5.200 tỷ đồng. Trong đó có 8 dự án
đầu tư hạ tầng cơ sở khu du lịch với tổng mức đầu tư được phê duyệt bằng nguồn


17

ngân sách nhà nước khoảng 4.000 tỷ đồng. Các thành phần kinh tế khác đầu tư
kinh doanh dịch vụ cơ sở lưu trú và khu vui chơi du lịch khoảng 4.600 tỷ đồng. Cụ
thể, khách sạn Majestic tại TP Móng Cái do công ty CP TMDV và DL Cao su với
tổng số vốn đầu tư là 645 tỷ đồng; khách sạn Mường Thanh (TP Hạ Long) tổng số
vốn đầu tư 320 tỷ đồng; khách sạn Lotus gần 300 tỷ đồng; khu DL sinh thái, resort
Hồ Yên Trung (TP Uông Bí) thuộc công ty CP đầu tư ATS với tổng số vốn đầu tư
trên 1.300 tỷ đồng; Quần thể sân gôn, khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp khu vực
Ao Tiên (Vân Đồn) do công ty TNHH Liên doanh 167 – VIệt Nam đầu tư với tổng
số vốn 1.800 tỷ đồng… Đến năm 2015, trên địa bàn tỉnh có 849 cơ sở lưu trú du

lịch với 13.100 buồng, với tổng vốn đầu tư là 6.300 tỷ đồng. Trong đó có 2 khách
sạn 5 sao với gần 500 buồng; 4 sao: 11 khách sạn, 1.884 buồng; 3 sao: 16 khách
sạn, 1.102 buồng; 1-2 sao: 50 khách sạn, 1.696 buồng và 762 cơ sở lưu trú đạt tiêu
chuẩn với 7.551 buồng. Tổng số tàu vận chuyển và lưu trú du lịch gần 500 chiếc
với tổng số vốn đầu tư 650 tỷ đồng. Tổng số ô tô du lịch: 500 chiếc; 600 nhà hàng
phục vụ nhu cầu ăn uống và dịch vụ vui chơi, giải trí nhỏ và 5 điểm dừng chân cho
khách du lịch.
Ngoài ra để phục vụ tốt hơn nhu cầu tham quan, mua sắm của khách du lịch,
nhiều công trình hoàn thiện và được đầu tư khai thác trong năm qua như: Trung
tâm thương mại Vincom Hạ Long, Big C, bến du thuyền Tuần Châu… cũng đã góp
phần làm thay đổi bộ mặt du lịch Hạ Long phát triển kinh tế du lịch.
1.3.2.

Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch ở Lào Cai
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng trung du và miền núi phía
Bắc của Việt Nam, với diện tích tự nhiên là 6.383,8 km2. Là một tỉnh vùng cao Lào
Cai có khí hậu mát mẻ quanh năm, có phong cảnh rừng cây núi đá, thác nước và là
nơi hội tụ nhiều hoạt động văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc như
chợ vùng cao, chợ tình Sa Pa, có nhiều khu bảo tồn thiên nhiên, địa danh lịch sử,


18

hang động tự nhiên, hệ sinh thái đa dạng, động thực vật phong phú nhiều chủng
loại.
Trong những năm gần đây, Lào Cai đang trở thành một trong những điểm
mạnh về phát triển kinh tế du lịch. Năm 2015, Lào Cai đón 2 triệu lượt khách du
lịch, tổng doanh thu từ hoạt động dịch vụ du lịch là 4.675,3 tỷ đồng và đang có xu
hướng tăng lên trong những năm tiếp theo. Để đạt được kết quả này Lào Cai đã
giải quyết tốt các vấn đề về xúc tiến quảng bá du lịch, về đầu tư cơ sở hạ tầng phát

triển kinh tế du lịch, đa dạng hóa loại hình du lịch,…
Một là về xúc tiến quảng bá du lịch
Công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Lào Cai thông qua các cơ quan đại
chúng của Trung ương và địa phương liên tục được đăng tải. Thực hiện nhiệm vụ
xúc tiến du lịch còn được triển khai trên các trang web về du lịch với 3 trang chính,
trong đó có trang du lịch Tây Bắc, trang hợp tác với vùng Aquitane của Cộng hoà
Pháp và trang cổng thông tin du lịch Lào Cai. Việc tư vấn, cung cấp thông tin dịch
vụ cho khách cũng được thực hiện qua hệ thống các nhà du lịch Sa Pa, Bắc Hà và
thông qua các dịch vụ, cơ sở kinh doanh du lịch dịch vụ... đồng thời qua việc thực
hiện tốt các công tác triển khai các đoàn Farmtrip (khảo sát tour cho các hãng lữ
hành tại Lào Cai); và tổ chức tốt các sự kiện có tính thương hiệu như Lễ hội Xuân
Đền Thượng thành phố Lào Cai, Tuần Văn hóa du lịch Sa Pa, Giải đua ngựa truyền
thống Bắc Hà và Giải Marathon quốc tế vượt núi Sa Pa… cũng đẩy mạnh quảng bá
du lịch của Lào Cai đối với khách trong nước và quốc tế.
Hai là về đầu tư cơ sở hạ tầng
Tỉnh Lào Cai đã có nhiều chính sách đầu tư cho cơ sở hạ tầng tạo điều kiện
cho kinh tế du lịch phát triển mạnh mẽ. Đầu tiên phải kể là sự phát triển mở rộng
của hệ thống đường giao thông kết nối Lào Cai với các địa phương khác, nhất là
tuyến đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai đã góp phần làm cho lượng khách du lịch
có những thời điểm tăng đột biến cùng với việc tỉnh đã thu hút được nhiều nguồn
vốn cho đầu tư vào các khu du lịch trên địa bàn tỉnh làm thay đổi diện mạo của các


19

khu du lịch. Đồng thời, trong năm 2015, hệ thống cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh
Lào Cai cũng đã được tập trung đầu tư phát triển theo hướng hiện đại, hợp lý. Đến
nay, với 39 doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện tham gia hoạt động lữ
hành, toàn tỉnh Lào Cai đã có trên 515 cơ sở lưu trú với gần 5.000 phòng các loại...
Chỉ tính riêng hình thức du lịch cộng đồng, Lào Cai hiện có 136 cơ sở lưu trú tại

nhà (homestay) bao gồm 107 cơ sở ở Sa Pa, 18 cơ sở ở Bắc Hà, 11 cơ sở ở Bát
Xát… đây là một trong những thành tựu cho thấy Lào Cai đang phát triển mạnh mẽ
kinh tế du lịch.
Ba là về thực hiện đa dạng hóa các loại hình du lịch
Trên cơ sở khai thác những tiềm năng tự nhiên, văn hóa truyền thống của
địa phương cũng đã góp phần tăng sức hút của du lịch Lào Cai đối với du khách
trong nước và quốc tế. Đến nay, nhiều loại hình du lịch đã được khai thác có hiệu
quả như: Du lịch nghỉ dưỡng tại Sa Pa, Bắc Hà; du lịch sinh thái, khám phá, mạo
hiểm gắn với tiểu vùng Fansipan, sông Chảy; du lịch văn hóa, cộng đồng; du lịch
tâm linh; du lịch mua sắm... Đặc biệt, thời gian qua, hàng loạt khu vui chơi, giải trí
đã và đang được xây dựng đã góp phần quan trọng trong tăng lượng khách du lịch
đến với Lào Cai. Điển hình là khu du lịch sinh thái Thanh Kim, Hàm Rồng, Cát
Cát ở Sa Pa, khu Hồ Na Cồ ở Bắc Hà, khu cáp treo Fansipan...
1.3.3. Bài học rút ra cho tỉnh Ninh Bình để phát triển kinh tế du lịch.
Qua việc nghiên cứu về vấn đề phát triển kinh tế du lịch của hai tỉnh Quảng
Ninh và Lào Cai, có thể rút ra cho tỉnh Ninh Bình một số bài học kinh nghiệm như
sau:
Thứ nhất, Ninh Bình cần tăng cường công tác giáo dục, đào tạo cho ngành
du lịch, xác định rõ đào tạo du lịch cần chuyên sâu, am hiểu kỹ năng, tăng cường
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng thực hành, đào tạo theo nhu cầu của xã
hội. Bên cạnh đó, Ninh bình cần có các chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài qua
chế độ lương, thưởng,… để có nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát


20

triển kinh tế du lịch tỉnh, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, các chuyên gia về du
lịch,…
Thứ hai, cần phải đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Ninh
Bình ra toàn khu vực và rộng hơn là trên thế giới. Tỉnh Ninh Bình là một mảnh đất

có nhiều các địa điểm du lịch đẹp, phong phú, hấp dẫn cần lấy đó là thế mạnh để
quảng bá du lịch tỉnh. Xúc tiến quảng bá du lịch không chỉ là quảng bá du lịch trên
một phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình đơn thuần mà cần phải thực
hiện hoạt động quảng bá du lịch trên nhiều các phương tiện thông tin đại chúng
như truyền hình, báo, đài, internet, phim, ảnh. Bên cạnh đó cần phải đẩy mạnh hoạt
động xúc tiến quảng bá du lịch qua các hội chợ, triển lãm, qua các cuộc thi,…
Thứ ba, Ninh Bình cần phải có nhiều hơn nữa có chính sách đầu tư thu hút
nguồn vốn tạo điều kiện cho kinh tế du lịch phát triển. Các nguồn vốn đầu tư cần
phải đầu tư một cách hiệu quả tránh lãng phí thất thoát, không nên đầu tư dàn trải
trên nhiều mặt mà chỉ nên đầu tư vào những mặt cần thiết quyết định đến sự phát
triển của kinh tế du lịch. Ngoài việc thu hút được các nguồn vốn đầu tư trong nước
cần phải thu hút được các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào.
Thứ tư, với tiềm năng tự nhiên, văn hóa truyền thống của địa phương mình
Ninh Bình nên phát triển đa dạng hóa các loại hình du lịch như: thăm quan danh
thắng, di tích lịch sử văn hóa, du lịch văn hóa tâm linh, du lịch sinh thái, du lịch
vui chơi giải trí, hội nghị, hội thảo, du lịch nghỉ dưỡng, thể thao, du lịch cộng
đồng,.... Đặc biệt, Ninh Bình nên tập trung phát triền du lịch tâm linh, phát huy lợi
thế vốn có là mảnh đất thiêng, giàu truyền thống văn hóa tín ngưỡng. Bên canh đó
Ninh BÌnh nên đầu tư mạnh mẽ để có các sản phẩm du lịch độc đáo, đa dạng nhằm
thu hút khách du lịch đến với Tỉnh.
Như vậy có thể thấy từ kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch của Quảng
Ninh và Lào Cai cần có sự kết hợp đồng bộ giữa việc khai thác một cách hiệu quả
các tiềm năng du lịch và phát huy sáng tạo các loại hình du lịch, cùng đó là chú


21

trọng trong công tác quảng bá hình ảnh du lịch, đào tạo và đầu tư phát triển hạ tầng
du lịch để đưa kinh tế du lịch phát triển hơn nữa.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở TỈNH

NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 2010 – 2015.
2.1. Tiềm năng phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Ninh Bình.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên của tỉnh Ninh
Bình.
2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Thứ nhất là vị trí địa lý. Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cực Nam đồng bằng
Bắc Bộ, 190050’ đến 200027’ độ Vĩ Bắc, 105032’ đến 106027’ độ Kinh Đông. Dãy
núi Tam Điệp chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam, làm ranh giới tự nhiên giữa
hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa. Phía Đông và Đông Bắc có dòng sông Đáy bao
quanh, giáp với hai tỉnh Hà Nam và Nam Định, phía Bắc giáp với tỉnh Hòa Bình,
phía Nam là Biển Đông. Quốc lộ 1A, Quốc lộ 10 và đường sắt Bắc – Nam chạy
xuyên qua tỉnh. Qua đó cho thấy Ninh Bình có vị trí địa lý thuận lợi cho giao thông
vận tải cũng như là mở rộng liên kết với các tỉnh lân cận và khu vực phục vụ cho
phát triển kinh tế du lịch.
Thứ hai là địa hình: nằm trong vừng tiếp giáp giữ đồng bằng châu thổ sông
Hồng và dải đá trầm tích ở phía Tây, lại nằm trong vùng trũng tiếp giáp biển Đông
nên địa hình phân thành 3 vùng rõ rệt: Vùng đồi núi, vùng đồng bằng, vùng ven
biển. Tổng diện tích đất tự nhiên là 1.390 km 2, đất đai tương đối màu mỡ thuận lợi
cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, trồng cây công nghiệp,
phát triển kinh tế trang trại và lâm nghiệp.
Thứ ba là khí hậu. Ninh Bình có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Thời tiết hàng
năm chia thành 4 mùa rõ rệt là: xuân, hạ, thu, đông. Nhiệt độ trung bình khoảng
230c, số lượng giờ nắng trong năm trung bình là 1.100 giờ. Lượng mưa trung bình


22

năm đạt 1.800 mm. Khí hậu mát mẻ, ít biến động tạo cảm giác thoải mái dễ chịu
cho du khách đến thăm quan, nghỉ dưỡng,…
Thứ tư là hệ thống giao thông: Ninh Bình là một điểm mút giao thông quan

trọng từ miền Bắc vào miền Nam, giữa vùng duyên hải Bắc Bộ với vùng núi Tây
Bắc. Ninh Bình có mạng lưới giao thông vận tải đường thủy, đường bộ đa dạng,
phong phú và rất thuận tiện. Đường sắt Nam – Bắc, Quốc lộ 1A, đường cao tốc,
Quốc lộ 10 đi qua trung tâm thành phố Ninh Bình, đường Hồ Chí Minh chạy qua
địa phận phía Tây Bắc của tỉnh. Đây là một tiềm năng quan trọng trong việc thúc
đẩy phát triển kinh tế du lịch thể hiện ở việc sẽ tạo được những tuyến du lịch hết
sức hấp dẫn, có khả năng đón tiếp cả khách du lịch nội địa lẫn quốc tế.
Thứ năm là tài nguyên thiên nhiên: có hệ thống suối nước khoáng có vị mặn,
thành phần magiebicarbonat cao, thường xuyên ở mức nhiệt độ nóng 53 – 54 0c, có
thể đưa vào khai thác để sản xuất nước giải khát và tắm ngâm chữa bệnh kết hợp
với phục vụ phát triển kinh tế du lịch ( Suối nước nóng Kênh Gà và Cúc Phương)

2.1.1.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Ninh Bình có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên với nhiều phong cảnh đẹp,
phong phú, đa dạng có thể khai thác phục vụ phát triển kinh tế du lịch. Dưới đây là
một số địa điểm du lịch tự nhiên quan trọng của Ninh Bình
Vườn quốc gia Cúc Phương:
Cúc Phương là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam, thành lập vào ngày
07/07/1962. Vườn quốc gia Cúc Phương có một quần thể hệ động thực vật phong
phú, đa dạng và độc đáo. Vườn có diện tích 22.000 ha, trong đó có ¾ là núi đá vôi
cao từ 300 đến 600m so với mặt nước biển. Địa hình phức tạp, rừng ở dạng nguyên
sinh chứa nhiều bí ẩn và cảnh quan độc đáo. Tại đây có nhiều chứng tích văn hóa


23

lâu đời như: động Trăng Khuyết, động Chúa, động Thủy Tiên, động Người Xưa,
hang Con Moong, động San Hô.
Trong vườn còn có suối nước nóng, hệ động thực vật phong phú, đặc biệt có
những cây chò xanh, cây sấu cổ thụ trên dưới nghìn tuổi và những loài thú quý

hiếm. Hiện nay, vườn quốc gia Cúc Phương đã trở thành một trung tâm cung cấp
loài thực vật quý hiếm, có giá trị kinh tế cao phục vụ cho trương trình trồng rừng
trong khu vực và trên cả nước.
Khu bảo tồn ngập nước Vân Long:
Là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ sinh thái núi đá ngập nước có
diện tích lớn nhất ở đồng bằng sông Hồng. Đây cũng là nơi khoanh vùng bảo vệ
loài Vooc quần đùi trắng – là loài linh trưởng quý hiếm đã được ghi trong Sách đỏ
thế giới. Rừng ngập nước Vân Long có 8 loài thực vật, 9 loài động vật được ghi
trong sách đỏ Việt Nam.
Khu Vân Long có 32 hang động đẹp, nhiều hang động có giá trị. Nước ở đây
mênh mông phẳng lặng, không có gió to sóng lớn, mang phong cách một miền quê
êm ả - được ví như là Vịnh Hạ Long của Ninh Bình. Đây chính là môt nơi du lịch
sinh thái rất tốt, là hiện trường nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, sinh viên
khi nghiên cứu và vùng ngập nước nội đồng của Việt Nam.
Quần thể hang động Tràng An:
Nằm ở thôn Tràng An, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, với nững dãy núi đá
vôi, các thung lững và những dòng sông ngòi đan xen với nhau tạo nên một không
gian huyền ảo và thơ mộng. Du khách đến bến thuyền sông Sào Khê, từ đây những
chiếc thuyền nan lướt nhẹ trên mặt nước qua Xuyên Thủy Động vào đến quần thể
hang động Tràng An. Hai bên dòng sông là những phong cảnh hữu tình mà thiên
nhiên đã ban tặng nơi đây.
Tam Cốc:


24

Khu du lịch Tam Cốc – Bích Động là một quần thể du lịch, một địa danh nổi
tiếng từ xa xưa, thuộc địa phận huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; cách thủ đô Hà Nội
100 km về phía Nam. Nơi đây vẫn giữ được nét nguyên sơ, thiên tạo, với nhiều
hang động, di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như: đền Thái Vi,

Tam Cốc, chùa Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc…
Tam Cốc nghĩa là ba hang: hang Cả, hang Hai và hang Ba. Du khách đi
thăm Tam Cốc chỉ có một con đường thủy duy nhất vào và ra mất hoảng 2 tiếng
đồng hồ. Những du khách ưa thích mạo hiểm có thể tiếp tục xuôi thuyền theo dòng
Ngô Đồng khoảng 2 km nữa để tới thăm Suối Tiên và tham gia du lịch mạo hiểm
leo núi vào đền Nội Lâm.
Động Địch Lộng:
Động thuộc huyện Gia Viễn, được nhân dân phát hiện từ năm 1739. Đến
năm 1740 động được người dân nơi đây tu bổ thành một ngôi chùa để thờ phật.
Động rộng khoảng chừng 10 gian nhà, trong động được bày nhiều tượng phật,
tượng La Hán, tượng Hộ pháp đặt trên các bệ đá. Ở đây có đền thờ Lý Quốc Sư, hồ
Bán Nguyệt, 5 tháp cao 3 tầng và 3 gian hạ. Đặc biệt, tại đây còn giữ 3 pho tượng
Tam Thế Phật sơn son thếp vàng được ban vào thời vua Thiệu Trị và thượng Phật
Bà Quan Âm, tượng A Di Đà được tạc bằng đá xanh nguyên khối, rất đẹp. Cách
ngôi chùa chính 105 bậc đá là một hang động đẹp kỳ vĩ. Động được chia thành 3
hang nối liền nhau, hang ngoài thờ phật, rồi đến hang Tối, hang Sáng. Bên trong
động toàn bộ lối đi đã được làm bậc lên xuống tạo thành những vòng cung kỳ vĩ
huyền ảo, nhiều nhũ đá được tạo ra từ thiên nhiên trông giống những con vật linh
thiêng như rồng, lân, voi quỳ,…Từ vùng trũng nhất của động lên cổng trời dài
chừng 50m. Đứng trên đây có thể bao quát toàn cảnh quần thể chùa, động Địch
Lộng và những cụm khu dân cư xung quanh. Cảnh đẹp của Địch Lộng được vua
Minh Mạng ban tặng 5 chữ: “Nam thiên đệ tam động” – Động đẹp thứ 3 trời Nam.


25

Động Tiên:
Động Tiên ở thôn Đam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình,
cách Bích Động gần 1km. Đến thăm động Tiên, còn có tên gọi là động Móc, du
khách sẽ như lạc bước vào chốn bồng lai, tiên cảnh, được khám phá và hoà mình

vào khung cảnh tự nhiên kỳ thú.
Động gồm có ba hang lớn, rộng, và cao vời vợi. Đường vào động phải đi
qua một khe hang nhỏ, mấp mô. Trần động là vân đá, nhũ đá rủ xuống lấp lánh
nhiều sắc màu. Nhiều khối nhũ đá từ trên trần rủ xuống nền động cao hơn chục mét
tựa như những rễ cây đa cổ thụ. Nhiều nhũ đá được đặt tên như: cây tiền, cây thóc,
ông tiên, cô tiên, con voi, con hổ, kỳ đà,… Xung quanh vách động và trên nền
cũng có rất nhiều măng đá, nhũ đá. Những nhũ đá được thiên nhiên chạm trổ vừa
phóng khoáng, vừa tinh xảo mà sống động. Đứng từ bên ngoài nhìn vào, dưới ánh
sáng kỳ ảo động Tiên như một lâu đài nguy nga tráng lệ trong huyền thoại.
Động Sinh Dược:
Hang Sinh Dược thuộc địa bàn xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh
Bình. Là một hang xuyên thuỷ dài gần 2 km chạy dài theo lòng núi Mắt Rồng, hai
đầu của hai cửa hang là hai thung lũng rộng. Vào thăm lòng hang động bằng hai
lối: lối thứ nhất qua cửa hang Vồng – vào thung Nước và lối thứ hai là cửa hang
thung áng Nhồi. Hang Vồng là một chiếc cống bằng đá, mái uốn vòm cong tựa
chiếc cầu vồng nhỏ bắc trên một dòng suối mát lạnh. Thung áng Nhồi là một lòng
thung lũng rộng khoảng 3 ha, xung quanh là cây cối và hoa rừng, những thảm cỏ
xanh mướt, không khí trong lành.
Đèo Tam Điệp:


×