Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Ngoại giao văn hóa trong việc gia tăng “sức mạnh mềm” của Nhật Bản ở Việt Nam từ năm 2004 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.49 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết
Ngoại giao Văn hóa từ lâu được coi là “sức mạnh mềm” hay “quyền lực
1.

mềm”, giữ một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của nhiều quốc
gia, là một trong những phương tiện góp phần bảo vệ an ninh, nâng cao hình
ảnh, tăng cường ảnh hưởng chính trị của quốc gia đối với quốc tế.
Sức mạnh mềm đã được nhiều nước sử dụng trong chính sách đối ngoại của
mình, điển hình là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp, Singapore, Hàn
Quốc… Trên thực tế đã có những cuộc chạy đua ngầm về sức mạnh mềm
giữa các quốc gia. Nhiều nước đã sử dụng sức mạnh mềm như một hướng
chủ đạo trong quan hệ quốc tết thế kỉ XXI.
Để tăng cường sức mạnh trong quan hệ quốc tế và loại dần sự phụ thuộc vào
Mỹ, Nhật Bản đã và đang nỗ lực khẳng định mình không chỉ là người khổng
lồ về kinh tế. Nhật Bản đang ra sức gây ảnh hưởng tới các nước châu Á
thông qua ngoại giao Văn hóa. Trong đó, Việt Nam là một quốc gia không
thể bỏ qua trong chiến lược phát triển sức mạnh mềm của Nhật Bản.
Với những chiến lược phát triển ngoại giao văn hóa tại Việt Nam, Nhật Bản
đã thu lại nhiều lợi ích chính trị cũng như kinh tế, đặc biệt sự phát triển ngày
càng cao giữa chính phủ hai nước trong những năm trở lại đây.
Ngoại giao văn hóa không thể thiếu đối với Nhật Bản và các nước trên thế
giới trong sự phát triển và duy trì các mối quan hệ đa cực. Ngoại giao văn
hóa ảnh hưởng đến mọi vấn đề chính trị- xã hội và chính vì vai trò không thể
thiếu của sức mạnh mềm này, tôi lựa chọn đề tài “Ngoại giao văn hóa trong
việc gia tăng “sức mạnh mềm” của Nhật Bản ở Việt Nam từ năm 2004 đến
nay”
Tình hình nghiên cứu
Ngoại giao văn hóa của Nhật Bản không còn là đề tài mới, đề tài này đã thu
2.


hút sự quan tâm của nhiều học giả, chuyên gia, nhà báo trong và ngoài nước
thông qua các bài nghiên cứu, bài báo, sách và các bài viết đánh giá…
1


Trong đó có thể kể đến bài viết “Quan điểm của Nhật Bản và Hàn Quốc về
quyền lực mềm” của TS. Hoàng Minh Lợi đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
Đông Bắc Á.
Luận văn Thạc sĩ “Sức mạnh mềm Nhật Bản những năm đầu thế kỉ 21” của
Võ Thị Mai Thuận – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Và nhiều các bài nghiên cứu, bài báo có liên quan đến quyền lực mềm và
ngoại giao văn hóa của Nhật Bản. Tất cả các bài nghiên cứu trên đều nêu
lên vai trò, cách thức hoạt động của ngoại giao văn hóa Nhật Bản trong giai
đoạn mới. Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu và đề cập đến vấn đề
“Ngoại giao văn hóa trong việc gia tăng “sức mạnh mềm” của Nhật Bản ở
Việt Nam từ năm 2004 đến nay”.
3. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận làm rõ cơ sở lí luận, thực trạng về hoạt động “Ngoại giao văn hóa
trong việc gia tăng “sức mạnh mềm” của Nhật Bản ở Việt Nam từ năm 2004
đến nay”. Từ đó đề xuất một số giải pháp để tăng cường hoạt động ngoại
giao văn hóa của Việt Nam trong việc phát triển sức mạnh mềm của quốc
gia.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Ngoại giao văn hóa trong việc gia tăng
4.

“sức mạnh mềm” của Nhật Bản ở Việt Nam từ năm 2004 đến nay”
4.2.

Phạm vi nghiên cứu
Từ năm 2004 đến nay.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.
Cơ sở lí luận
Đề tài nghiên cứu được thưc hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở phương pháp luận cho đề tài nghiên
cứu.
Nội dung của đề tài được trình bày trên cơ sở những nguyên tắc về chính
sách công nghiệp văn hóa và Chiến lược của Nhật Bản trong thời đại quyền
lực mềm” được thông qua tháng 3/2004.
2


Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên các phương pháp cơ bản chủ yếu là khoa học xã
5.2.

hội và nhân văn. Trong đó có các phương pháp:
Phân tích, tổng hợp tài liệu, thống kê, tổng hợp số liệu: Sử dụng phương
pháp này để thu thập và đánh giá các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài.
Phương pháp lịch sử - cụ thể: Các nghiên cứu đều bắt đầu từ lịch sử của vấn
đề, đặt vấn đề trong bối cảnh chung của thế giới và khu vực.
Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận kết cấu gồm 3 chương và 9 tiết.
6.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGOẠI GIAO VĂN HÓA TRONG
VIỆC GIA TĂNG SỨC MẠNH MỀM CỦA NHẬT BẢN Ở VIỆT NAM
TỪ NĂM 2004 ĐẾN NAY

Các khái niệm cơ bản
Khái niệm ngoại giao văn hóa
Để hiểu về khái niệm ngoại giao văn hóa, cần hiểu thế nào là văn hóa trước
1.1.
1.1.1.

tiên.
3


Theo UNESCO “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống
động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra
trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ,
nó đã cấu thành nên hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống
mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”1.
Hồ Chí Minh người trải nghiệm và am hiểu văn hóa phương Đông và
phương Tây, có quan niệm về văn hóa tương đồng với quan điểm của
UNESCO: “Văn hóa là toàn bộ những sáng tạo và phát minh về ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử
dụng… Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những
yêu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”2.
Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử. Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng,
biểu tượng chi phối tư duy, cách ứng xử của mỗi con người trong cộng đồng
và làm cho cộng đồng ấy có những đặc thù riêng khác với những cộng đồng
khác. Văn hóa mang lại cho con người khả năng suy xét bản thân và thế giới
xung quanh để nhận ra những gì tốt đẹp và phù hợp, đồng thời nhận ra
những gì còn hạn chế để con người không ngừng sáng tạo làm cho cuộc

sống ngày càng tốt đẹp, hoàn thiện hơn.
Nhà nghiên cứu Zhulite Antonius Sarborosi đại học Georgetown Mỹ cho
rằng “NGVH là sự đ ầu tư mang tính lâu dài được tiến hành nhằm thúc đẩy
quan hệ giữa nhân dân ta với nhân dân các nước khác nhằm thúc đẩy hiểu

1 Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa. Hà Nội, Bộ văn hóa TT, 1992, tr23
2 Hồ Chí Minh Về văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, 2004. Hà Nội

4


biết hai bên, để nhân dân các nước khác hiểu hơn về lợi ích và chính sách
quốc gia của chúng ta”3.
Bộ ngoại giao Mỹ định nghĩa "NGVH là nội dung cốt lõi của ngoại giao
công chúng, vì các hoạt động văn hóa thể hiện rõ nét nhất hình ảnh của một
đất nước. NGVH có thể góp phần tăng cường an ninh quốc gia theo cả
chiều rộng lẫn chiều sâu, một cách bền vững. Đồng thời cho rằng NGVH là
con đường hai chiều giúp nhân dân nước ngoài hiểu nước Mỹ và đồng thời
giúp nhân dân Mỹ hiểu các dân tộc khác đang nghĩ gì"4.
Về khái niệm ngoại giao văn hóa Bộ Ngoại giao Singapore đã đưa ra khái
niệm "NGVH là hoạt động ngoại giao với mục tiêu phát triển và hợp tác và
trao đổi văn hóa; tăng cường hiểu biết lẫn nhau và quan hệ với nhân dân
các nước; tăng cường ý thức về bản sắc và nguồn gốc dân tộc, thúc đẩy ổn
định xã hội và kinh tế trong khu vực, thông qua việc tạo ra và chia sẻ
truyện, phim, kịch, múa, âm nhạc và các tác phẩm văn học và nghệ thuật
của Sigapore".
Thái Lan cũng đưa ra khái niệm "Ngoại giao văn hóa là biện pháp ngoại
giao nhằm quảng bá đất nước con người Thái Lan, gồm cả lịch sử, văn hóa,
phong tục tập quán, lễ hội, văn học nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, thông qua
nhiều hình thức khác nhau, trong đó giới thiệu ẩm thực được đặt lên hàng

đầu”.
Ngoại giao văn hóa sử dụng văn hóa là công cụ kết nối quan hệ ngoại giao.
Là phương thức ngoại giao hòa bình phục vụ cho các mục đích hòa bình và
phi hòa bình. Là cách thức tìm kiếm lợi ích quốc gia trong quan hệ quốc tế:
3 Trường Ngọc Quốc “Lợi ích quốc gia và chính sách văn hóa”, Nxb Nhân dân Quảng Đông, 2005, tr 164, tr.
164].
4 Bộ Ngoại giao Mỹ, Báo cáo của Uỷ ban Tư vấn về ngoại giao văn hóa Ngoại giao văn hóa, nội dung cốt lõi
của nền ngoại giao nhân dân tháng 9/2005, tr.4., tr.4

5


Kinh tế, Chính trị, sức mạnh mềm, sức ảnh hưởng của văn hóa, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại và khẳng định vị thế văn hóa quốc gia trong nền văn
hóa thế giới.
Ngoại giao văn hóa là việc sử dụng, vận dụng các yếu tố, nguồn lực văn hóa
trong quan hệ đối ngoại nhằm đạt được lợi ích của chủ thể quan hệ quốc tế:
Lợi ích về chính trị, kinh tế, vị thế, uy tín, phát huy ảnh hưởng đến các chủ
thể khác, lợi ích trong tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc khác, giao lưu tìm
hiểu văn hóa thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho quan hệ quốc tế, xây
dựng hình ảnh quốc gia trong lòng nhân dân thế giới.
1.1.2. Khái niệm “sức mạnh mềm” (hay quyền lực mềm)
Quyền lực hiểu một cách đơn giản là quyền năng chỉ huy, sai khiến, gây
ảnh hưởng lên người khác để đạt được hiệu quả mình mong muốn. Có
nhiều cách để tác động lên hành vi của người khác như đe dọa, cưỡng ép
hay dụ dỗ, mua chuộc, hoặc là kết hợp cả hai.
Theo GS Joseph Nye - giáo sư Đại học Harvard của Hoa kỳ- người được coi
là cha đẻ của thuyết “sức mạnh mềm”: sức mạnh tổng hợp của một quốc gia
gồm có “sức mạnh cứng” (hard power, gồm sức mạnh quân sự, kinh tế,
khoa học- công nghệ,…) và “sức mạnh mềm” (soft power, gồm sức mạnh

của văn hóa, thể chế xã hội và các chính sách đối nội, đối ngoại của quốc
gia đó).
Sức mạnh cứng chi phối, tác động, chinh phục các quốc gia khác bằng cây
gậy hay củ cà rốt.
Sức mạnh mềm là khả năng lôi cuốn, thu phục, cảm hóa người khác
bằng sức hấp dẫn của các giá trị về văn hóa, về thể chế , chính sách được
thực thi hiệu quả ở nước mình, thông qua đó mà nhận được cảm tình, sự nể
phục và hợp tác bền vững của các nước khác.
Ngoài ba yếu tố cơ bản nói trên (các giá trị văn hóa quốc gia, thể chế quốc
gia và chính sách quốc gia), sức mạnh mềm còn có thể được tạo lập bởi một
6


vài yếu tố khác nữa, ví như sự thành công kỳ diệu về kinh tế của Trung
Quốc; như hải quân Mỹ tham gia cứu trợ nạn nhân sóng thần ở Ấn Độ
Dương và động đất ở Nam Á; hoặc danh vọng, ảnh hưởng của những danh
nhân quốc gia có tài năng, uy tín lớn…với nhân loại cũng có thể đem lại sức
hấp dẫn cho đất nước ấy.
Ở thời đại hiện nay, sức mạnh mềm đang là nhân tố cơ bản để nâng cao sức
cạnh tranh quốc gia cũng như để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của một nước
trong khu vực và trên thế giới; nếu chỉ dựa vào sức mạnh cứng về quân sự
để thực hiện đường lối đối ngoại, theo “chủ nghĩa đơn phương”, theo chính
sách “ngoại giao pháo hạm” như trước đây thì dù sức mạnh cứng có ưu việt
đến đâu, cũng sẽ không thể giải quyết được vấn đề mà có khi còn để lại
những hậu quả phức tạp, khó lường. Vì vậy, để đạt thắng lợi trên bàn cờ liên
quốc gia hiện nay, đòi hỏi các nước phải biết phát huy sức mạnh mềm của
mình.
Mối quan hệ giữa sức mạnh cứng và sức mạnh mềm là mối quan hệ giữa cái
hữu hình và cái vô hình. Sức mạnh mềm là thể hiện sự nối dài và mở rộng
của sức mạnh cứng. Một quốc gia đã yếu kém về kinh tế và quốc phòng sẽ

khó có thể có sức mạnh mềm đáng kể; ngược lại, sức mạnh mềm sẽ làm tăng
sức mạnh cứng, ví như tính thống nhất dân tộc, sự đồng thuận quốc gia, sự
ổn định chính trị của đất nước, sức hấp dẫn về văn hóa và thể chế xã hội,…
là những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh mềm, nó sẽ góp phần làm tăng
sức mạnh cứng, nhờ đó mà “bất chiến tự nhiên thành”.
Ngược lại, nếu sức mạnh cứng khỏe, nhưng sức mạnh mềm yếu kém, không
có sức hấp dẫn về thể chế, chính sách và văn hóa,…thì cũng không gây được
cảm tình, không cạnh tranh được với ai. Nói cách khác, sức mạnh
cứng và sức mạnh mềm phải dựa vào nhau, thúc đẩy lẫn nhau để tạo ra sức
mạnh tổng hợp quốc gia, nên cần phải tăng cường cả hai. Hiện nay, các

7


nước lớn trong khi tăng cường sức mạnh cứng vẫn đang rất chú trọng phát
huy sức mạnh mềm của mình, nhất là về văn hóa.
1.2. Tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa trong việc gia tăng “sức
mạnh mềm” của Nhật Bản
Khái niệm “quyền lực mềm” mới xuất hiện từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX,
song ở Nhật Bản, những nội dung cơ bản của luận thuyết này đã được sử
dụng từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai. Chẳng hạn, chính quyền thời hậu
chiến đã công khai khuyến khích phát triển quyền lực mềm nhằm trấn an dư
luận về sự hiện diện quốc tế của họ ở một số quốc gia Châu Á. Tuy nhiên,
việc sử dụng quyền lực mềm thời kỳ ấy đã bộc lộ những hạn chế bởi những
lý do khách quan, chủ quan của thời đại, đặc biệt là sự chi phối khá mạnh
của “ quyền lực cứng” được nhiều quốc gia sử dụng.
Bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng
gắn với sự sụp đổ của Liên Xô, Nhật Bản cũng đối mặt với sự sụp đổ của
nền kinh tế “bong bóng” khiến nền kinh tế Nhật Bản bước vào thời kỳ trì trệ
kéo dài cho đến ngày nay. Song, đây lại là thời kỳ văn hóa đại chúng phát

triển tạo đà cho một thị trường tiêu thụ văn hóa rất lớn trong nước và lan tỏa
ra bên ngoài. Trên thực tế, phương hướng chiến lược phát triển văn hóa của
Nhật Bản đã định hình và triển khai như là một nội dung quan trọng của
quyền lực mềm mà những thành tựu đạt được không chỉ về văn hóa mà bao
hàm những giá trị kinh tế, chính trị, ngoại giao, giáo dục mà nền văn hóa
Nhật Bản mang lại.
Chính phủ Nhật Bản cho rằng, quyền lực mềm (đặc biệt là giá trị văn hóa
quốc gia) là phương tiện hữu hiệu để quảng bá hình ảnh nước Nhật ra nước
ngoài, một nước Nhật Bản mới. Đó là nước Nhật không phải như quá khứ
(một nước có tư tưởng quân phiệt); hay chỉ mạnh về kinh tế mà là quốc gia
8


hòa bình, phát triển hài hòa, thân thiện trên thế giới. Dựa trên quan điểm như
vậy, từ đầu thế kỷ XXI đã bắt đầu xuất hiện những công bố liên quan tới
triển vọng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong những năm đầu
của thập kỷ.
Trong bối cảnh như vậy, quyền lực mềm giành được sự quan tâm ngày càng
lớn của chính phủ Nhật Bản và coi đó như nền tảng của đường lối ngoại giao
(và cả an ninh quốc gia) của mình trong quan hệ quốc tế. Trong đó, giá trị
văn hóa quốc gia được nhìn nhận như phương tiện của quyền lực mềm để
Nhật Bản thay đổi cách tiếp cận quan hệ quốc tế thời đại toàn cầu hóa sâu
rộng.
Tiếp cận với luận thuyết “quyền lực mềm” của Joseph Nye, giới học giả, các
nhà hoạch định chiến lược của Nhật Bản căn cứ vào bối cảnh trong nước và
quốc tế để nhận định rằng, quyền lực mềm được thực hiện không chỉ bằng
văn hóa quốc gia mà còn từ nhiều nhân tố khác như: tư tưởng, chính trị,
ngoại giao, chính sách ngoại giao kinh tế, giáo dục, du lịch…
Trong thời gian khá dài, Nhật Bản sử dụng sức mạnh kinh tế gắn với hình
ảnh của một siêu cường kinh tế để “thuyết phục”, lôi kéo các nước khác,

song với tình hình kinh tế suy thoái kéo dài thì sức “thuyết phục” không còn
hiệu quả như trước nữa. Chính vì vậy, các nhà chiến lược, hoạch định chính
sách của Nhật Bản hết sức quan tâm tới luận thuyết “quyền lực mềm” của
Joseph Nye để có thể nhận định, phân tích “sức cuốn hút” của nước mình
thông qua các chính sách ngoại giao, văn hóa, kinh tế trong thời đại toàn cầu
hóa.
Song, họ cũng khẳng định rằng văn hóa là yếu tố then chốt, là “nội lực của
quốc gia” trong thời đại ngày nay.
9


Sự phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa đại chúng Nhật
Bản tới đời sống văn hóa thế giới ngày nay đã trở thành nền tảng để chính
phủ nước này đề xuất ý tưởng “xuất khẩu văn hóa Nhật Bản” ra nước ngoài.
Từ ý tưởng như vậy, chính phủ Nhật Bản đã đưa ra những kế hoạch cụ thể
để trở thành một trong những chiến lược phát triển đất nước trong thời đại
mới. Kết quả là ngày 8/6/2010 chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa
của Nhật Bản ra nước ngoài được hiện thực hóa bằng sự ra đời của “Phòng
văn hóa Nhật Bản”.
Cũng trong năm 2010, Hội nghị Chiến lược (có sự tham gia của nhiều ban,
ngành) với nội dung là xây dựng các chính sách hỗ trợ của chính phủ nhằm
đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp văn hóa trong nước và xúc
tiến khai thác thị trường nước ngoài. Sau khi thông qua nội dung của Hội
nghị, một chiến dịch tổng hợp quảng bá văn hóa Nhật Bản ra nước ngoài
được thực hiện như văn hóa ẩm thực (do Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp chủ trì),
du lịch đến Nhật Bản (do Sở Du lịch đảm nhận), lễ hội văn hóa và giáo dục
sáng tạo (do Cục Văn hóa Tokyo, phòng văn hóa các địa phương phối hợp
với các trường đại học, cao đẳng thực hiện triển khai).
1.3.


Quan điểm của Nhật Bản về quyền lực mềm và ngoại giao văn
hóa

Toàn cầu hóa tiếp tục là xu hướng trong nhiều năm tới tất sẽ ảnh hưởng sâu
rộng đến mọi mặt đời sống xã hội và văn hóa. Do vậy, hội nhập quốc tế hóa
vẫn sẽ là xu thế tất yếu cho sự phát triển của Nhật Bản.
Chính phủ Nhật Bản cho rằng, quyền lực mềm văn hóa của quốc gia không
chỉ là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế của Nhật Bản ở
trong và ngoài nước mà còn tạo nên “một sức hút Nhật Bản” trong những
10


năm tới và tương lai. Sự biến đổi của tình hình trong nước và quốc tế hiện
nay, chính phủ Nhật Bản chỉ rõ phải có sự điều chỉnh trong chính sách đối
ngoại song vẫn giữ được hình ảnh quốc gia như nhận định của học giả
Reinhard Drifre: “Cái bóng của Nhật Bản hiện ra lớn chưa từng thấy và
Nhật Bản đã tìm ra cách mới để bảo đảm được lợi ích an ninh và lợi ích
quốc gia trong một môi trường ngày càng phức tạp và hay biến động. Nhật
Bản ngày càng cố gắng hoạt động như một người đứng đầu có ảnh hưởng
lớn”5, để thực hiện điều này, “người ta bắt đầu nói đến sự điều chỉnh chính
sách của Nhật Bản bằng việc sử dụng “quyền lực mềm” và “ngoại giao văn
hóa” trong hoạt động ngoại giao”6. Thật vậy, một trong những nguyên tắc
về chính sách công nghiệp văn hóa của Nhật Bản là : “quảng bá nền văn
hóa Nhật Bản trên toàn thế giới” đồng thời nêu rõ mục tiêu trong dự án
“chính sách thúc đẩy công nghiệp giải trí: Chiến lược của quốc gia trong
thời đại quyền lực mềm” được thông qua tháng 3/2004. Quan điểm này cho
thấy, Chính phủ Nhật Bản không chỉ coi công nghiệp giải trí là một trong
những trụ cột của công nghiệp văn hóa (công nghiệp Contents) mà của cả
nền kinh tế trong thập niên đầu của thế kỷ XXI và những năm tiếp theo.
Như vậy, văn hóa quốc gia là nhân tố then chốt của quyền lực thì công

nghiệp giải trí trở thành hạt nhân của công nghiệp văn hóa bởi vai trò quan
trọng cả về phương diện văn hóa và kinh tế của nó. Cơ sở của nhận định này
được ghi trong bản báo cáo “Nghiên cứu liên quan đến chiến lược phát triển
công nghiệp giải trí” (tháng 5/2010) của Bộ Công Thương Nhật Bản khẳng
định “Công nghiệp giải trí là mũi nhọn” (Content is King), đồng thời đưa ra
5 imura Hiroshi, Furuta Motoo, Nguyễn Duy Dũng (2005), Những bài học về quan hệ Việt Nam - Nhật Bản,
Nxb Thống kê, Hà Nội, tr. 215, 216
6 imura Hiroshi, Furuta Motoo, Nguyễn Duy Dũng (2005), Những bài học về quan hệ Việt Nam - Nhật Bản,
Nxb Thống kê, Hà Nội, tr. 215, 216

11


bản đề án “Chiến lược tăng trưởng công nghiệp giải trí” (14/5/2010).
Không dừng lại ở đó, chính phủ Nhật Bản nêu rõ mục tiêu: “Đẩy mạnh vai
trò “quyền lực mềm” của nền công nghiệp văn hóa” ở thế kỷ XXI được
nhấn mạnh trong đề án “Hướng tới một cường quốc Công nghiệp văn hóa:
Vai trò lãnh đạo của công nghiệp hóa” của Bộ Công Thương Nhật Bản
(tháng 6/2010).
Chiến lược chung trong quan hệ quốc tế của Nhật Bản từ những năm đầu thế
kỷ XXI đến nay là “hòa bình và ổn định thế giới” với sức lôi cuốn của một
quốc gia hòa bình, đậm đà bản sắc văn hóa, sức mạnh kinh tế và công nghệ
cao, tư tưởng minh triết… Tất cả được khuyến khích thực hiện thông qua
“quyền lực mềm của Nhật Bản”.
Trên thực tế, “Phòng văn hóa Nhật Bản” được xây dựng trên cơ sở thống
nhất ý tưởng của các đề án về “Chấn hưng ngành công nghiệp văn hóa Nhật
Bản” do các ban ngành thuộc Bộ Kinh tế Nhật Bản đóng góp. Văn hóa quốc
gia là nhân tố then chốt của quyền lực mềm, do đó, Chính phủ Nhật Bản nêu
quan điểm rõ ràng đó là phát triển công nghiệp văn hóa ra nước ngoài là một
trong những chính sách quan trọng nằm trong chiến lược phát triển đất nước.

Các nhà chiến lược, hoạt định chính sách của Nhật Bản hiểu rõ rằng, văn
hóa một quốc gia muốn phát huy ảnh hưởng quốc tế của mình thì phải đi ra
thế giới trên cơ sở hiện đại hóa văn hóa và phù hợp với xu thế văn hóa của
thế giới.
Bên cạnh yếu tố văn hóa, các yếu tố khác như xã hội ổn định, tinh thần bền
bỉ, kiên cường, kỷ luật tốt trong các thảm họa, sức mạnh khoa học công
nghệ, sự tham gia và vai trò của Nhật Bản trong các tổ chức quốc tế cũng
góp phần quan trọng làm nên quyền lực mềm của Nhật Bản. Cũng như khá
12


nhiều quốc gia khác, Nhật Bản hết sức đề cao quyền lực mềm (đặc biệt trong
thời hiện đại toàn cầu hóa ) bởi sự hữu ích của nó. Thật vậy, chi phí cho
quyền lực mềm có thể không cao, song lợi ích thu được lại không hề nhỏ và
có tác dụng lâu dài.
Không chỉ vậy, “đầu tư” vào quyền lực mềm ít rủi ro mà hiệu quả đạt được
có khi vượt qua sự mong đợi, chưa tính đến nguồn thu lớn về mặt kinh tế.
Như đã đề cập, Nhật Bản coi văn hóa là nhân tố then chốt nhất trong số
những nhân tố tạo nên quyền lực mềm của một quốc gia, đặc biệt trong thời
đại thông tin toàn cầu như hiện nay. Sở dĩ như vậy là bởi thông qua các công
cụ như báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng internet đã khiến cho văn hóa
trở thành một loại “vũ khí mềm” có sức mạnh to lớn. Trong nhiều trường
hợp thay vì sử dụng quyền lực cứng (có thể phản tác dụng) người ra dùng
quyền lực mềm mà vẫn có được kết quả như mong đợi.

CHƯƠNG 2: NGOẠI GIAO VĂN HÓA TRONG VIỆC GIA TĂNG
“SỨC MẠNH MỀM” CỦA NHẬT BẢN Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2004
2.1.

ĐẾN NAY

Hoạt động ngoại giao văn hóa của Nhật Bản trong lĩnh vực

giáo dục ở Việt Nam
2.1.1. Hỗ trợ và trao tặng học bổng cho du học sinh Việt Nam
Nhật Bản là một trong các quốc gia cung cấp nhiều học bổng nhất cho sinh
viên Việt Nam. Số lượng học bổng chính thức của Chính phủ Nhật Bản (học
bổng Monbukagakusho-MEXT) trao cho sinh viên Việt Nam hằng năm chỉ
đứng sau số học bổng ADS của chính phủ Úc.
Đầu tư cho giáo dục của Nhật Bản ở Việt Nam đang ngày được hai nước chú
trọng. Hàng năm có hàng chục học bổng không chỉ Chính phủ Nhật Bản mà

13


học bổng từ các công ty tư nhân, tập đoàn lớn nhỏ của Nhật Bản cung cấp
học bổng cho học sinh, sinh viên Việt Nam.
Ngoài học bổng MEXT, người có nguyện vọng du học tại Nhật Bản còn có
thể nộp đơn xin một số học bổng khác như học bổng JDS do Cơ quan hợp
tác quốc tế của Nhật (JICA) cấp, học bổng của Hiệp hội giáo dục quốc tế
Nhật Bản (AIEJ), học bổng của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), hay
nhiều trường đại học, tổ chức và cá nhân khác.
Các học bổng này có thể là học bổng toàn phần hay học bổng bán phần. Học
bổng toàn phần bao gồm tiền vé máy bay đến Nhật và quay về Việt Nam khi
kết thúc khóa học, tiền học phí, trợ giúp nghiên cứu và một khoản trợ cấp
hàng tháng. Học bổng bán phần thường chỉ hỗ trợ sinh viên tiền học phí
hoặc một khoản trợ cấp sinh hoạt hàng tháng. Tùy theo loại học bổng, số
tiền trợ cấp du học sinh có thể nhận nằm trong khoảng từ 50.000 tới 180.000
yên mỗi tháng.
Thông qua đầu tư, cung cấp học bổng cho du học sinh Việt, Nhật Bản đang
đưa gián tiếp văn hóa nước mình đến với giới trẻ Việt Nam.

Để được sang Nhật du học, các bạn trẻ Việt Nam phải trải qua khóa học
tiếng Nhật, mà ngôn ngữ là nguồn gốc của văn hóa, từ ngôn ngữ, các thế hệ
trẻ Việt sẽ ngấm dần các phong tục tập quán và cách ứng xử văn hóa truyền
thông của người Nhật.
Giao lưu đào tạo con người cũng là một hướng quan trọng trong giao lưu
văn hóa bác học của Nhật Bản. Đó là các chương trình trao đổi lưu học sinh,
theo đó, hàng năm Chính phủ Nhật Bản dành hàng ngàn suất học bổng du
học Nhật cho sinh viên và nghiên cứu sinh các nước, trong đó có Việt Nam.
Chính sách nhập cư của Nhật Bản rất khó khăn nhưng có thể chấp nhận các
chương trình đến Nhật như nhận lưu học sinh nước ngoài đến Nhật Bản học
tập kể cả sinh viên du học tự túc. Bên cạnh đó, Nhật Bản còn triển khai các
chương trình giao lưu văn hóa thanh, thiếu niên, trao đổi các đoàn văn hóa,
14


tình nguyện viên, chuyên gia… Chẳng hạn, chương trình thanh niên ASEAN
thực hiện với 100 người/năm sang Nhật Bản giao lưu, học tập. Đặc biệt, theo
sáng kiến của cựu Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe năm 2007, chương trình
giao lưu thế hệ Đông Á thế kỷ XXI (JENESYS) mỗi năm mời khoảng 6000
thanh thiếu niên sang thăm Nhật Bản đã được thực hiện từ năm 2008 và sẽ
kéo dài trong 5 năm. Đối với Việt Nam, từ tháng 8/2009 đến 7/2010 đã có
khoảng 400 em học sinh được mời sang thăm Nhật Bản trong chương trình
này. Nhìn chung, các chương trình giao lưu con người mà Nhật Bản tiến
hành đều không ngoài mục đích quảng bá giới thiệu đất nước, con người
Nhật Bản, khi họ quay trở về nước thì hầu hết đều có ấn tượng tốt về quốc
gia này.
2.1.2.

Tổ chức nhiều trung tâm dạy tiếng Nhật tại Việt Nam


Phổ cập và tăng cường số lượng người Việt Nam học tiếng Nhật luôn là một
trong những ưu tiên của chính sách ngoại giao văn hóa của Chính phủ Nhật
Bản.
Nếu như thập niên 90 của thế kỷ XX, tại nhiều quốc gia (trong đó có Việt
Nam), chương trình dạy tiếng Nhật còn lạc hậu với những bộ giáo trình được
biên soạn từ thập kỷ 70, 80, cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu thốn, chỉ chú
trọng đến dạy ngữ pháp… thì từ đầu thế kỷ XXI, đặc biệt vào năm gần đây,
tiếng Nhật là bộ môn ngoại ngữ được cung cấp những phương tiện giảng dạy
tiên tiến nhất, đội ngũ giáo viên có trình độ cao, hầu hết đều được tu nghiệp
ngắn hạn hoặc dài hạn tại Nhật Bản theo chương trình tài trợ của Quĩ Giao
lưu quốc tế Nhật Bản.

15


Giáo trình giảng dạy tiếng Nhật tại Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng
và được cập nhật liên tục. Đội ngũ giáo viên tu nghiệp tại Nhật Bản trở về
nước đã sử dụng các phương pháp giảng dạy mới, chú trọng đến mục đích
nâng cao khả năng giao tiếp để học nên có thể nhanh chóng sử dụng vốn
kiến thức đã học vào giao tiếp thực tiễn.
Giảng dạy tiếng Nhật tại Việt Nam thường được tiến hành theo từng giai
đoạn. Giai đoạn đầu, tiếng Nhật được dạy chủ yếu tại các trường đại học và
các trung tâm tiếng Nhật tư nhân (hoặc trực thuộc một trường đại học) tại
các thành phố lớn. Giai đoạn hai, mở rộng về đối tượng học viên (dạy cả ở
bậc giáo dục phổ thông), mở rộng về phạm vi địa lý, có thêm nhiều cơ sở
giảng dạy ở các địa phương.
Những thành quả đạt được là nhờ sự hỗ trợ rất lớn từ phía Nhật Bản về vốn,
trang thiết bị giảng dạy, sách vở, giáo viên… Theo số liệu của Chính phủ
Nhật Bản, năm 2006, có gần 3.000.000 người trên thế giới đã chọn học thêm
tiếng Nhật, tăng gấp 3 lần so với năm 1990, là những năm mà nền kinh tế

Nhật Bản chưa bước vào giai đoạn suy thoái.
Nhật Bản tin tưởng rằng ngôn ngữ sẽ giúp người học hiểu về văn hóa, con
người cũng như tăng độ "cảm tình" với đất nước có ngôn ngữ mà mình sử
dụng. Hàng năm, Chính phủ Nhật Bản, đại diện là Quĩ Giao lưu Quốc tế "đã
mời khoảng 500 giáo viên tiếng Nhật ở khoảng 50 nước trên thế giới đến
Nhật theo các chương trình tu nghiệp tiếng, trao đổi văn hóa 7. Tại Việt Nam
"chỉ sau hơn 10 năm, đến năm 2008, số học viên đã tăng trên 30.000 người,

7 http:// www. VJC.JP

16


với hơn 100 trường và trung tâm đào tạo và trên 1000 giáo viên, đưa Việt
Nam trở thành nước có số người học tiếng Nhật đứng thứ 8 trên thế giới8.
Hiện nay, tiếng Nhật đã được mở rộng đến các trường trung học cơ sở, trung
học phổ thông và các trung tâm tiếng Nhật và hơn nửa số người đang học
tiếng Nhật tại Việt nam đều học tại các trung tâm tiếng Nhật tư nhân. Bên
cạnh đó, các hoạt động giảng dạy tiếng Nhật cũng được chú trọng như: hỗ
trợ biên soạn giáo trình, tổ chức và hỗ trợ các hội thảo giành cho giáo viên,
hỗ trợ giảng dạy tiếng Nhật tại các trường học, cửa các chuyên gia giảng dạy
tiếng Nhật sang giúp đỡ v.v…
Có thể nói các trung tâm tư nhân dạy tiếng Nhật đang hỗ trợ đáng kể cho
công

tác

giảng

dạy


tiếng

Nhật



Việt

Nam.

Các trung tâm tiếng Nhật tư nhân được mở ra chủ yếu ở Hồ Chí Minh, Hà
Nội. Nhưng đến nay đã được nhân rộng ra các tỉnh thành khác như Hải
Phòng, Huế, Đà Nẵng, Phú Thọ.... trong đó với các trung tâm tiếng Nhật
như: trường Nhật ngữ Đông Du, trường Nhật ngữ Sakura, trung tâm hợp tác
nguồn lực Việt- Nhật, trung tâm Nhật ngữ Link Việt Nhật.....
Việt Nam đang có nguyện vọng muốn đưa dạy tiếng Nhật vào giảng dạy
chính thức tại các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông của Việt
Nam. Để thực hiện được điều đó, Đại sứ quán Nhật bản và Bộ giáo dục và
đào tạo Việt Nam đã thống nhất đưa tiếng nhật vào giảng dạy theo từng giai
đoạn

từ

lớp

6

đến


lớp

12.

Năm 2013 đã có 29 trường trung học cơ sở và trung học phổ thông của Việt
nam đang giảng dạy tiếng Nhật. Điều này giúp trẻ em Việt Nam ngày càng
8 iện Nghiên cứu Đông Bắc Á (2010), "Xây dựng đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản: nội dung và lộ
trình", Hội thảo khoa học Quốc tế, Hà Nội, tr. 242.

17


hiểu biết hơn về Nhật Bản và sau này sẽ trở thành những nhịp cầu hữu nghị
nối liền hai nước Việt Nam và Nhật Bản.
2.2.

Hoạt động ngoại giao văn hóa của Nhật Bản trong lĩnh vực
truyền thông các sản phẩm văn hóa, công nghệ mang nhẫn
hiệu Japanese
2.2.1. Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông quảng bá sản phẩm

công nghệ Nhật Bản
Sản phẩm công nghệ là tinh hoa tri thức của con người. Sản phẩm công nghệ
của một quốc gia còn chứa đựng trong nó văn hóa tri thức của một đất nước.
Nhật Bản là đất nước nổi tiếng về công nghệ trên thế giới, đây cũng là thế
mạnh của người Nhật, một đất nước vốn nghèo tài nguyên thiên nhiên.
Nhật Bản thông minh khi tận dụng được thế mạnh công nghệ để truyền
thông quảng bá đến Việt Nam.
Việt Nam còn yếu kém về mặt công nghệ, thế mạnh Nhật Bản lại là công
nghệ. Khi công nghệ Nhật Bản xâm nhập vào thị trường Việt Nam cùng với

truyền thông mạnh mẽ, hàng công nghệ của Nhật Bản nhanh chóng được
người dân đón nhận và yêu thích chỉ dùng hàng Nhật Bản.
Các thương hiệu nổi tiếng Nhật Bản như Sony, Honda, Cannon,
Panasonic… đã có chỗ đứng vững chắc trong tâm thức mọi người dân. Khi
nói đến mua đồ điện tử hay xa máy, 90% người dân Việt Nam đều lựa chọn
thương hiệu Nhật.

18


Sản phẩm công nghệ của tập đoàn Sony, Nhật Bản tại Việt Nam
Thông qua truyền thông các sản phẩm công nghệ, tâm thức người Việt đã rất
yêu thích sản phẩm Made in Japan, việc đẩy mạnh văn hóa từ công nghệ
cũng trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.
Ví dụ như người máy Doremon, Pikachu… được Nhật Bản công nghệ hóa
thành những người máy hiện đại, mang chúng đến các nước để quảng bá về
công nghệ tiên tiến nhưng qua đó cũng chính là quảng bá hình ảnh văn hóa
đã được nhiều người yêu thích.

Pikachu đến Việt Nam
19


Trên các siêu thị, trung tâm thương mại, không thể không bắt gặp và nhìn
thấy các mặt hàng của Nhật Bản xuất hiện.
Doanh thu các doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam cũng đạt con số kỉ lục
trong thập niên trở lại đây. Việt Nam là thị trường tiêu thụ và lao động hoàn
hảo cho Nhật Bản. Chính vì vậy, đây cũng là thị trường đẩy mạnh ngoại giao
văn hóa và gia tăng sức mạnh mềm mạnh mẽ cho Nhật Bản ở châu Á nói
chung và Đông Nam Á nói riêng.

2.2.2.

Đẩy mạnh các sản phẩm văn hóa đại chúng của Nhật Bản

Trong các chương trình giao lưu văn hóa, nghệ thuật giữa Nhật Bản với các
quốc gia không thể thiếu được vai trò của các Trung tâm giao lưu văn hóa
thuộc Quĩ Giao lưu quốc tế Nhật Bản đặt tại các nước có quan hệ ngoại giao.
Các Trung tâm này thường đứng ra tổ chức nhằm hoạt động giao lưu văn
hóa nghệ thuật như: tổ chức biểu diễn ca nhạc, mời các nhà hoạt động văn
hóa của nước sải tại sang thăm Nhật Bản và ngược lại, tổ chức liên hoan
phim Nhật Bản, hỗ trợ các nhà xuất bản phát hành các tác phẩm của Nhật
Bản, tổ chức triển lãm, trưng bày nghệ thuật truyền thống của Nhật Bản
v.v…
Giao lưu trí tuệ cũng nằm trong hoạt động giao lưu văn hóa bác học được
thể hiện qua các chương trình mời các học giả nghiên cứu về Nhật Bản đến
Nhật, chương trình trao đổi, hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Nhật Bản với
các Viện Nghiên cứu, trường đại học ở Việt Nam… Trong các hoạt động
này cũng cần phải nhắc đến vai trò của các Trung tâm giao lưu Văn hóa bởi
đây là nơi hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu Nhật Bản và giao lưu trí tuệ,
hỗ trợ các cơ quan nghiên cứu về Nhật Bản, giúp đỡ thành lập Hội nghiên
cứu Nhật Bản, cung cấp học bổng cho các nhà nghiên cứu Nhật Bản học, tổ
chức hội thảo về Nhật Bản học…
20


Về các hoạt động giao lưu văn hóa đại chúng không trực tiếp cho Chính phủ
Nhật Bản quản lý nhưng không thể phủ nhận sự thành công của hình thức
này mang lại. Ảnh hưởng của văn hóa đại chúng chủ yếu là đến tầng lớp
thanh thiếu niên nên nhiều khi các thông điệp về chính trị lại được truyền tải
hiệu quả một cách vô thức đến đối phương. Chính vì lẽ đó, văn hóa đại

chúng Nhật Bản, đặc biệt là văn hóa giải trí được xem như là phương tiện
của quyền lực mềm để quốc gia này thay đổi cách tiếp cận thị trường Việt
Nam từ khi bước vào thế kỷ XXI.
Truyện tranh (Manga) và phim hoạt hình (Anime) của Nhật Bản được coi là
một trong những phương cách chủ yếu để phổ biến văn hóa đại chúng tới
Việt Nam, qua đó, gia tăng quyền lực mềm quốc gia. Từ ý tưởng của Bộ
trưởng Ngoại giao Nhật Bản Taro Aso, giải thưởng Manga quốc tế được
thành lập năm 2007. Là một độc giả nhiệt thành của Manga, ông Taro Aso
cho biết "Tôi mong muốn Nhật Bản như là cội nguồn của Manga, phải đạt
được một chuẩn mực cho Manga toàn thế giới. Giải thưởng Manga phải là
một giải thưởng có quyền lực, có giá trị tương đương với giải Noben. Tôi hy
vọng rằng bằng cách nhận giải thưởng, các tác giả sẽ có một cảm giác liên
kết với Nhật Bản9. Lời phát biểu này không chỉ riêng ông Taro Aso thể hiện
sự kỳ vọng lớn về sức ảnh hưởng mạnh mẽ của truyện tranh Nhật Bản mà
bao hàm cả nền văn hóa đại chúng quốc gia này. Thật vậy, theo Bộ Ngoại
giao Nhật Bản, giải thưởng được thành lập để tôn vinh các nghệ sĩ Manga,
những người đã đóng góp vào việc thúc đẩy sự phát triển Manga ở nước
ngoài.

9 MOFA (2006), Speech by Minister for Foreign Affairs Taro Aso at Digital Hollywood University "A New
Look at Cultural Diplomacy: A. Call to Japan' S Cultural 30".

21


Phim hoạt hình nổi tiếng Nhật Bản - Totoro
Ngoài Manga, phim hoạt hình cũng được phía Nhật Bản rất chú trọng qua
việc "bổ nhiệm" chú mèo máy (hay mèo robot) Doraemon (nhân vật chính
nổi tiếng trong phim hoạt hình cùng tên) làm "Đại sứ Anime" của nước này
(3/2008) sang Việt Nam và các nước. Mục đích của sự bổ nhiệm này là qua

vai trò của Doraemon, thế giới sẽ "biết nhiều hơn về mặt tích cực của Nhật
Bản thông qua phổ biến phim hoạt hình Nhật Bản"10. Tại lễ ra mắt của "Đại
sứ Anime", Bộ trưởng Ngoại giao Masahiko Komura phát biểu rằng "các
đại sứ văn hóa sẽ đi du lịch khắp thế giới để giới thiệu Nhật Bản".
Chính phủ Nhật Bản kỳ vọng các đại sứ Anime sẽ thu hút sự chú ý của
người dân Việt Nam đến các sản phẩm văn hóa khác của Nhật Bản như âm
nhạc, công nghệ cao... Việc sử dụng văn hóa đại chúng là nguồn lực chính
của quyền lực mềm còn góp phần thúc đẩy sự hiện diện của Nhật Bản ở Việt
10 MOFA (2008 b) , Inauguration Ceremony of Anime Ambassador, 19 March. />announce/announcy 2008/3/0319-3. html. Accessed on 20 July, 2011

22


Nam, nâng cao hình ảnh quốc gia, tăng cường hơn nữa quyền lực mềm trong
thời đại toàn cầu hóa.
Ngoài truyện tranh, phim hoạt hình, các sản phẩm công nghiệp văn hóa
thuộc văn hóa đại chúng Nhật Bản như thời trang, âm nhạc (J.pop), phần
mềm trò chơi trên máy vi tính và điện thoại di động… đã được xuất khẩu
sang Việt Nam. Ngoài lợi nhuận về kinh tế, những sản phẩm văn hóa này
còn gián tiếp là phương tiện truyền bá văn hóa Nhật Bản ở Việt nam, tạo nên
một hình ảnh Cool Japan (Ấn tượng Nhật Bản) trong lòng giới trẻ Việt.
Là một nền văn hóa độc đáo, đặc sắc, Nhật Bản luôn chú trọng đến việc bảo
tồn, gìn giữ những nét văn hóa truyền thống nhưng không ngừng tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại. Nhắc đến Nhật Bản, thế giới khâm phục
những đức tính, phẩm chất tốt của con người Nhật Bản như: tinh thần kỷ
luật, ý chí mãnh liệt, tính cộng đồng cao, lòng trung thành, ý thức tôn trọng
truyền thống, nỗ lực vươn lên… Sau thảm họa động đất sóng thần (năm
2011) trên các phương tiện truyền thông tràn ngập những bài báo, phóng sự
miêu tả những tấm gương hy sinh, thái độ bình tĩnh, nhường nhịn với những
ứng xử cao đẹp mang đậm tính nhân văn và tinh thần Nhật Bản… Những

hình ảnh, câu chuyện đó đã tác động mãnh mẽ tới suy nghĩ, hành động của
con người trên toàn thế giới. Và những hành động cao đẹp “nhường cơm xẻ
áo” của người dân đã diễn ở khắp các quốc gia, cùng nhau hướng về Nhật
Bản, giúp người dân vượt qua đau thương, mất mát. Nhiều nhà bình luận cho
rằng: cơn thiên tai lịch sử này đã gây ra cho Nhật Bản những thiệt hại vô
cùng to lớn nhưng cũng đã đem lại cho họ một thứ “sức mạnh mềm”, thứ
sức mạnh không phải được xây dựng hay giành lấy bằng súng đạn cũng
không phải bằng tiền của mà bằng sự ngưỡng mộ và kính trọng của thế giới
dành cho họ.
23


Người Nhật Bản thường không muốn cho người khác biết về những nỗ lực
của mình, nhưng với tinh thần khiêm tốn, cần cù, chịu khó và ý thức cao về
truyền thống văn hóa của đất nước mình, họ đang tạo được những hình ảnh
tốt đẹp trong lòng bạn bè thế giới. Thành quả ấy, có một phần quan trọng
trong nỗ lực của Chính phủ, khi họ biết tận dụng những ưu thế của “sức
mạnh mềm” để phát triển bền vững đất nước.
Ngoại giao văn hóa của Nhật Bản trong lĩnh vực ẩm thực
Nhật Bản rất nổi tiếng về ẩm thực. Nhắc đến ẩm thực, người dân Việt Nam
2.3.

hầu như đều biết đến các món ăn nổi tiếng và truyền thống lâu đời như
sushi, trà đạo, các món ăn nổi tiếng của các vùng ở Nhật Bản Takoyaki,
Taiyaki, Dorayaki, Mochi….
Trong thập niên trở lại đây, các món ăn Nhật Bản đã và đang thâm nhập
mạnh mẽ vào thị trường Việt Nam. Ẩm thực Nhật Bản hấp dẫn bởi sự thanh
tao và món ăn tươi hoàn hảo. Chính vì những điều khác biệt và cách phục vụ
ân tình đậm nét văn hóa Nhật Bản đã đưa ẩm thực Nhật đến gần hơn tới
công chúng Việt Nam nói riêng và công chúng thế giới nói chung.

Nhật Bản đã nhanh chóng nhận ra sự hấp dẫn và bước tiến xa hơn về ngoại
giao văn hóa thông qua ẩm thực. Không chỉ dựa vào những ẩm thực truyền
thống, Nhật Bản còn biết khai thác các món ăn mang tính đại chúng từ các
câu chuyện hoạt hình hay truyện tranh nhằm đánh mạnh vào sở thích đã
được gây dựng từ các sản phẩm văn hóa khác. Ví dụ như những chiếc bánh
rán từ câu chuyện Doremon nổi tiếng dưới đây

24


Bánh rán Doremon
Hay cũng từ chính các sản phẩm văn hóa truyện tranh, hoạt hình và món ăn
truyền thống lâu đời, những người làm văn hóa Nhật Bản đã chủ động thổi
hồn cho các món ăn vào các câu chuyện li kì, hấp dẫn.
Không thể phủ nhận ẩm thực Nhật Bản đã có chỗ đứng ở Việt Nam. Hàng
năm, Nhật Bản tổ chức các lễ hội văn hóa tại Việt Nam, đem ẩm thực Nhật
quảng bá sâu rộng đến giới trẻ và người dân Việt Nam. Các lễ hội văn hóa
Việt – Nhật được tổ chức quy mô lớn với sự đầu từ của cả 2 nước cùng
nhiều hoạt động văn hóa nổi tiếng.
Hiện nay, rất nhiều các cửa hàng có bán các món ăn Nhật tại Việt Nam. Các
cửa hàng này có thể là chủ người Nhật Bản đầu tư, nhưng cũng khá nhiều
cửa hàng do người Việt đã từng đi Nhật trở về phát triển và quảng bá ẩm
thực.
Xu hướng người Việt thích ăn món Nhật Bản cũng đang ngày càng gia tăng
trong mấy năm trở lại đây. Tại các thành phố lớn không khó để thấy một
quán ăn Nhật Bản. Khách hàng đến với các cửa hàng này cũng không nhỏ.

25



×