Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.41 KB, 7 trang )

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Tác động của đầu tư trực tiếp nuớc ngoài đến doanh nghiệp việt nam; Quan hệ hai
chiều giữa FDI và tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2012 và Thúc đẩy
liên kết giữa doanh nghiệp trong nuớc với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhìn từ góc độ quản lý nhà nuớc là 3 nội dung chính trong cuộc hôi thảo khoa học
“Tác động của đầu tư trực tiếp nuớc ngoài đến kinh tế Việt Nam” diễn ra sáng nay
9/4 tại Hà Nội.
Chủ trì hội thảo, bà Mai Thị Thu, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế Xã
hội quốc gia đánh giá cao đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đối với kinh tế Việt Nam.
“Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987, dòng vốn FDI được khơi
thông nhanh chóng. Nguồn vốn cho phát triển tăng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều
kiện cho chuyển giao công nghệ, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải
quyết việc làm cho người lao động và mở rộng hội nhập với thế giới...”, bà Thu nhận xét.
Tuy nhiên, tác động lan tỏa của dòng vốn FDI đối với doanh nghiệp trong nước nói riêng
và nền kinh tế nói chung vẫn được xem là một trong những hạn chế, nhất là tỉ lệ nội địa
hóa đặc, biệt là “Việt Nam hóa” các doanh nghiệp FDI còn rất thấp.
Đơn cử, Canon Việt Nam có 70 nhà cung cấp linh kiện phụ tùng, nhưng chỉ có 10 doanh
nghiệp Việt Nam, số còn lại là doanh nghiệp FDI hoạt động tại Việt Nam.
Tương tự, Honda Việt Nam có tỷ lệ nội địa hóa 40%, nhưng chủ yếu vẫn là do các doanh
nghiệp FDI hoạt động tại Việt Nam cung cấp. Đối với Samsung, các doanh nghiệp Việt
Nam chỉ cung cấp được 10% linh phụ kiện.
Các chuyên gia cũng chỉ ra rằng, nâng cao khả năng hấp thụ FDI và có chính sách cụ thể
để đẩy nhanh sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ vẫn là vấn đề cấp thiết nhất hiện
nay. Đây là các vấn đề đã được đề cập từ nhiều năm nay, nhưng kết quả thực hiện vẫn
còn rất hạn chế.
Nhìn từ những mô hình nghiên cứu độc lập, các chuyên gia kinh tế cũng đã chỉ ra tác
động của FDI đến tăng trưởng kinh tế và đến doanh nghiệp Việt Nam .
.
TS. Morgenroth đến từ Viện Nghiên cứu Kinh tế - Xã hội Ailen cho biết, từ kết quả ước
lượng bước đầu, có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có những ảnh
hưởng tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường việc làm nói riêng.


"Chi tiêu đối với hàng hóa nội địa ngày càng tăng; số việc làm thứ cấp có thể được tạo ra
từ tiêu dùng sản phẩm nội địa của doanh nghiệp FDI và người lao động trong các doanh
nghiệp này càng tăng. Tuy nhiên, khi quy về tỷ lệ so sánh, kết quả ước lượng cho thấy, số
việc làm thứ cấp đang có xu hướng giảm dần", TS. Morgenroth cho biết.


Ở góc độ quản lý nhà nước, ông Đỗ Nhất Hoàng, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ
Kế hoạch và Đầu tư) cho rằng, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ góp phần khơi dậy
đầu tư trong nước mà còn giúp kinh tế Việt Nam hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới.
Do đó, việc nghiên cứu sâu tác động của đầu tư nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam sẽ
giúp cơ quan quản lý kịp thời điều chỉnh, đưa ra những chính sách phù hợp để quản lý
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách hiệu quả.
(Theo Báo Đầu Tư)
FDI tác động ra sao đến kinh tế Việt Nam?
Thứ năm, 09/04/2015 18:20
Tác động của đầu tư trực tiếp nuớc ngoài đến doanh nghiệp việt nam; Quan hệ hai
chiều giữa FDI và tăng trưởng kinh tế việt nam giai đoạn 1986-2012 và Thúc đẩy
liên kết giữa doanh nghiệp trong nuớc với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Nhìn từ góc độ quản lý nhà nuớc là 3 nội dung chính trong cuộc hôi thảo khoa học “Tác
động của đầu tư trực tiếp nuớc ngoài đến kinh tế Việt Nam” diễn ra sáng nay 9/4 tại Hà
Nội.

Bà Mai Thị Thu, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kính tế xã hội quốc gia (giữa)
chủ trì hội thảo
Chủ trì hội thảo, Bà Mai Thị Thu, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã
hội quốc gia đánh giá cáo những thành tựu to lớn mà kinh tế Việt Nam đạt được nhờ
đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
“Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987, dòng vốn FDI được khơi
thông nhanh chóng đã ảnh hướng tới kinh tế Việt Nam thông qua huy động nguồn vốn



cho phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện cho chuyển giao công nghệ,
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động và
mở
rộng
hội
nhập
với
thế
giới...”,

Thu
nhận
xét.
Năm 2015 được Chính phủ xác định là “năm vì doanh nghiệp”, là năm cuối cùng của kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015, cùng với những thay đổi về chính sách,
về luật, về hiệp định thương mại nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, Bà Thu kỳ vọng,
hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nuớc
ngoài ở Việt nam nói riêng sẽ có chuyển biến to lớn trong năm nay và những năm tiếp
sau.
Ở phần tiếp theo, bằng những mô hình nghiên cứu độc lập, các chuyên gia kinh tế cũng
đã chỉ ra tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế và đến doanh nghiệp Việt Nam .
TS. Morgenroth đến từ Viện Nghiên cứu Kinh tế - Xã hội Ailen cho biết, từ kết quả ước
lượng bước đầu, có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có ảnh hưởng tích
cực nhất định đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường việc làm nói riêng.
"Chi tiêu đối với hàng hóa nội địa ngày càng tăng; số việc làm thứ cấp có thể được tạo ra
từ tiêu dùng sản phẩm nội địa của doanh nghiệp FDI và người lao động trong các doanh
nghiệp này càng tăng. Tuy nhiên, khi quy về tỷ lệ so sánh, kết quả ước lượng cho thấy số
việc làm thứ cấp đang có xu hướng giảm dần", TS. Morgenroth nhận định.
Trong phần cuối chương trình, TS. Đỗ Nhất Hoàng, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài
đánh giá, trên góc độ quản lý Nhà nước, cần chỉ rõ vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài

đối với nền kinh tế Việt Nam, đó chính là khơi dậy đầu tư trong nước và giúp kinh tế Việt
Nam hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới. Cục trưởng cảm ơn những nghiên cứu dù chỉ
mới ở bước đầu của các chuyên gia và cho biết, các kết quả nghiên cứu sẽ góp phần giúp
cơ quản quan lý Nhà nước có những thay đổi, đưa ra chính sách phù hợp trong việc quản
lý dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách hiệu quả.
Theo Anh Trung (Đầu tư)
TÁC ĐỘNG CỦA FDI
 Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Kể từ khi có Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực năm 1988, dòng vốn FDI luôn là
động lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong suốt 26 năm
qua. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) luôn phát triển năng động. Trong 25
năm từ 1988-2013, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt khoảng 218,8 tỷ USD, tổng vốn
thực hiện đạt 106,3 tỷ USD, lĩnh vực công nghiệp chiếm tới gần 60%. Theo thống kê của
Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 10 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu
tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 13,7 tỷ USD, bằng 71,2% so với cùng kỳ


2013. Như vậy, tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang có chiều hướng giảm nhẹ so với
thời điểm Việt Nam đạt kỷ lục về thu hút đầu tư nước ngoài (vượt mốc 20 tỷ USD).

Về tiến độ giải ngân, FDI giai đoạn 2000-2005 có giá trị đăng ký thấp, nhưng tỷ trọng giải
ngân khá cao (69%) trong khi đó giai đoạn 2006-2008 cơ mức đăng ký cao, giá trị giải ngân
tuyệt đối cũng cao nhưng tỷ trọng giải ngân so với đăng ký lại rất thấp (25%). Điều này là do
giai đoạn 2000-2005, Việt Nam đang tích cực thực hiện chính sách thu hút FDI, mở cửa, hội
nhập kinh tế quốc tế, nên giai đoạn này, FDI chủ yếu tập trung vào các ngành thương nghiệp,
công nghiệp nhẹ. Đây là những ngành có thể giải ngân nhanh. Thời kỳ 2006-2008, Việt Nam
đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, lượng vốn đăng ký rất cao, tuy
nhiên lại tập trung nhiều vào các ngành công nghiệp như xi măng, sắt thép, khiến thời gian
triển khai dự án dài, giải ngân chậm. Từ 2008 đến nay, vì nhiều nguyên nhân bên trong như
vấn đề đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng.. và nguyên nhân bên ngoài như cuộc khủng

hoảng tài chính tiền tệ, thay đổi trong danh mục đầu tư v.v nên mặc dù vốn cam kết cao
nhưng tốc độ giải ngân lại thấp.

 Tác động tích cực của FDI đối với kinh tế Việt Nam
- Là nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển kinh tế: Nhằm mục tiêu xây dựng Việt Nam trở thành
một nước công nghiệp về cơ bản, và phát triển kinh tế Việt Nam theo cơ chế kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, nguồn vốn FDI chính là nguồn vốn quan trọng hỗ trợ
cho phát triển kinh tế tại Việt Nam. Nhìn chung, đóng góp của FDI qua các giai đoạn đều
chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội trong giai đoạn giai đoạn 2001-2006, thì giai đoạn
2007-2014, với sự gia tăng đáng kể về vốn giải ngân, khu vực ĐTNN có sự cải thiện về đóng
góp. Cụ thể từ năm 2007 cho đến 2012, vốn FDI luôn chiếm tỷ trọng từ 21-30% trong tổng
vốn đầu tư phát triển xã hội.

- Lãi suất cố định: FDI có nhiều ưu thế hơn so với các hình thức huy động khác ví dụ việc
vay vốn nước ngoài luôn đi cùng với một mức và đôi khi trở thành gánh nặng cho nền kinh
tế, hoặc là các khoản viện trợ thường đi kèm với điều kiện về chính trị.

- Nguồn vốn FDI vào Việt Nam đồng thời sẽ tạo ra các tác động tích cực đối với việc huy
động các nguồn vốn khác như ODA, NGO, đồng thời kích thích thu hút vốn đầu tư trong
nước.


- Chuyển giao công nghệ: Với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng XHCN, khoảng cách phát triển khoa học công nghệ giữa các nước phát triển, nhất là
Việt Nam với các nước công nghiệp phát triển còn lớn. Việc các nước đang phát triển tự
nghiên cứu để phát triển khoa học kỹ thuật cho kịp với trình độ của các nước phát triển là
việc khó khăn và tốn kém. Đây là cơ hội cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam
để có thể tiếp thu được kỹ thuật- công nghệ thuận lợi nhất, tạo điều kiện thuận lợi để rút ngắn
con đường phát triển của mình.


- Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế: Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài,
nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư đã xuất hiện như dầu khí, công nghệ
thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến
nông sản thực phẩm, da giày, dệt may…FDI giúp nhanh chóng thúc đẩy trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần tăng năng suất lao động ở các ngành này và làm
tăng tỷ trọng của nó trong nền kinh tế.

 Tác động tiêu cực của FDI đối với sự phát triển của Việt Nam
Mặc dù có nhiều tác động tích cực tới kinh tế và sự phát triển bền vững của đất nước, vốn FDI
cũng có những tác động tiêu cực trên nhiều lĩnh vực.

- Vốn FDI tạo cơ hội để một nguồn vốn lớn chảy ra bên ngoài (lợi nhuận, các khoản thanh toán
khác v.v. của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam), ảnh hưởng đến lực lượng ngoại hối của
nước nhận đầu tư, giảm đóng góp vào nguồn thu thuế của Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đôi khi
biệt lập với các ngành sản xuất trong nước, do đó không có những hiệu ứng lan truyền có lợi về
mặt phổ biến công nghệ sản xuất, quản lý và marketing. Tiếp nhận FDI nhất là của các công ty
đa quốc gia, xuyên quốc gia một cách không hạn chế có thể đẩy các nhà sản xuất trong nước vào
một cuộc cạnh tranh không cân sức và quá sớm.

- Đối với môi trường: Việc chuyển giao công nghệ của các dự án FDI cũng có mặt hạn chế. Đó
là bất kỳ một tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật- công nghệ mới thì phải tìm được nơi thải
những kỹ thuật- công nghệ cũ. Việc thải các công nghệ cũ này dễ dàng được nhiều nơi chấp
nhận. Tuy nhiên, các nước phát triển xem các nước đang phát triển như nơi thải các may móc lạc
hậu. Bởi vậy, các nước đang phát triển có thể dễ dàng bị biến thành bãi rác công nghiệp.

Trong tổng các dự án FDI đăng ký, nhiều dự án đầu tư vào các ngành khai thác tài nguyên, tận
dụng bảo hộ, công nghiệp gây ô nhiễm và bất động sản. Đây là cơ cấu không mong đợi bởi vì


vốn đầu tư vào khai thác tài nguyên thì không có tác dụng lan tỏa. Vốn đầu tư vào các ngành bảo
hộ thì không có sức cạnh tranh chỉ làm cho chi phí của nền kinh tế gia tăng; vốn đầu tư vào các

ngành công nghiệp gây ô nhiễm thì lợi nhuận họ hưởng, còn hậu quả và chi phí khắc phục thì ta
chịu; vốn đầu tư vào bất động sản thì có thể làm căng thêm “bong bóng”, dễ gây ra bất ổn.

- Công nghệ được sử dụng thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản
phẩm của khu vực kinh tế trong nước, nhưng do phần lớn là từ các nước châu Á (69%, Đông
Nam Á chiếm 19%), các nước châu Âu mới chiếm 24%, châu Mỹ chiếm 5%, các nước G8 mới
chiếm 23,7% nên chưa thu hút được nhiều đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển, công nghệ
nguồn. Có một số trường hợp, nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam,
cũng như sự yếu kém trong việc kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu, nên đã nhập vào Việt Nam
một số máy móc, thiết bị có công nghệ lạc hậu.

Thực trạng này tiếp tục đặt ra cho Việt Nam những bài toán lớn từ vấn đề luật pháp, chính sách,
quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, công tác giải phóng mặt bằng,
phân cấp trong quản lý FDI, môi trường v.v. để khai thác lợi thế cũng như hạn chế những tác
động tiêu cực của FDI khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.
 Nên hay không đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài?
Hiện có hai luồng ý kiến đối với việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam. Luồng ý kiến thứ
nhất cho rằng trong lúc tổng cầu ở trong nước “co lại” và còn yếu thì nên gia tăng đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài. Luồng ý kiến thứ hai cho rằng trong khi Việt Nam đang rất cần vốn để phát triển kinh tế,
thì việc khuyến khích đầu tư ra nước ngoài cần phải xem xét; cần tăng cường quản lý, kiểm soát
dòng vốn đầu tư ra nước ngoài…
Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) mới đây đã có những quy định mới theo hướng thông thoáng hơn
cho các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam và siết chặt với các doanh nghiệp trong
nước muốn đầu tư ra nước ngoài.
Trong báo cáo thẩm tra Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi), Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, trong
khi Việt Nam đang rất cần vốn để phát triển kinh tế, thì việc khuyến khích đầu tư ra nước ngoài cần
phải xem xét; cần tăng cường quản lý, kiểm soát dòng vốn đầu tư ra nước ngoài…
Ông Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nêu vấn đề: “Cứ nói là các
nước phát triển đầu tư vào nước ta có hoạt động chuyển giá, rửa tiền… Vậy, các doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư tại các nước kém phát triển hơn, có đặt ra chuyện chuyển giá hay rửa tiền không…”.

Từ thực tế việc doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, ông Nguyễn Đức Kiên cho rằng, không nên
cấm đầu tư ra nước ngoài nhưng có thể xem xét đặt vào một bộ luật khác để quản lý, do đồng tiền


của Việt Nam không phải là tiền chuyển đổi nên việc chuyển tiền đầu tư ra nước ngoài dễ làm thay
đổi tỷ giá, ảnh hưởng đến nền kinh tế…



×