Cơ Hội và Thách Thức của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế:
1.1) Cơ Hội:
Những cơ hội khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế như sau:
Thứ nhất, quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan
hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.
Ví dụ: khi gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các
nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ, không bị
phân biệt đối xử.
Cụ thể, sau khi gia nhập WTO, dòng vốn FDI tăng mạnh. Xu thế này đã xuất hiện từ năm
2006, khi Việt Nam đã điều chỉnh nhiều văn bản pháp luật theo chuẩn mực của WTO và khi
các nhà đầu tư nước ngoài nhận biết khả năng Việt Nam sớm gia nhập tổ chức này. Trong
năm đó, vốn FDI đăng ký là 12 tỷ USD, gần gấp đôi năm 2005, đến năm 2007 tăng lên 21 tỷ
350 USD và năm 2008 đạt mức kỷ lục - trên 71,7 tỷ USD. Đến năm 2012 vốn đầu tư nước
ngoài đã chiếm 24% tổng đầu tư toàn xã hội, khu vực FDI tạo ra 46,3% tổng giá trị sản xuất
công nghiệp, 63,1% tổng giá trị xuất khẩu.
Đương nhiên rất khó đánh giá chính xác tác động của hội nhập đến tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam, vì hội nhập chỉ tạo ra cơ hội, còn việc có tận dụng được cơ hội hay không phụ
thuộc vào nỗ lực chủ quan của Việt Nam. Hơn nữa, đầu năm 2007, Việt Nam gia nhập thì
năm 2008, thế giới xảy ra khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, đến nay vẫn
chưa phục hồi được đà tăng trưởng; kinh tế thế giới vẫn còn nhiều bất định. Trong bối cảnh
đó, Việt Nam cũng bị tác động, tăng trưởng chậm lại so với giai đoạn trước. Tuy nhiên mức
sụt giảm của Việt Nam thấp hơn mức giảm chung của kinh tế toàn cầu và là nước có tốc độ
tăng trưởng cao so với mức trung bình của ASEAN-5 (gồm Việt Nam, Malaysia, Thái Lan,
Indonesia, Philippines). Nếu như trong giai đoạn 2007 - 2011 kinh tế toàn cầu giảm bình quân
33% so với giai đoạn 2002 - 2006 thì mức giảm của Việt Nam chỉ là 17%. Tốc độ tăng trưởng
bình quân của Việt Nam trong giai đoạn 2008 - 2011 là 5,93% trong khi tốc độ tăng trưởng
trung bình của ASEAN-5 là 4,38%; xuất khẩu của Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao với mức tăng bình quân là 17,7%. Việt Nam cũng đạt được kết quả giảm nghèo
ấn tượng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Vào năm 2010, Việt Nam đã ra khỏi nhóm
nước có thu nhập thấp và bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình (thấp) và là nước đã
hoàn thành hầu hết các Mục tiêu thiên niên kỷ mà Liên hiệp quốc đặt ra vào năm 2015.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của
WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện.
Ba là: Gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc
hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự
kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của
doanh nghiệp.
Bốn là: Việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải
cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả
hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm Đổi mới, việc gia
nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam triển
khai có hiệu quả đường lối đối ngoại.
Thứ sáu, hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,
của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng thu hút đầu tư vào nền
kinh tế.
Thứ bảy, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công nghệ
quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước và tiếp thu
công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước
tiên tiến.
Thứ tám, hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc
tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
Thứ chín, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch
vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao
lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội phát triển và tìm kiếm việc làm cả ở
trong lẫn ngoài nước.
Thứ mười, hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình
hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển phù hợp cho
đất nước và không bị lề hóa.
Thứ mười một, hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế
giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thứ mười hai, hội nhập tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây dựng
một xã hội mở, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền.
Thứ mười ba, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật
tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả năng duy trì an ninh, hòa
bình và ổn định để phát triển.
Thứ mười bốn, hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các nước tập
trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các
nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và thế giới .
1.2 Thách Thức:
Một là, cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa doanh nghiệp nước ta
với doanh nghiệp các nước trên thị trường nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà
cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước. Điều đó gây sức ép không nhỏ đối với nhiều
doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước, những
doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ yếu kém mà tình trạng này lại khá phổ biến
ở doanh nghiệp nước ta.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá
trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụtiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt
xã hội. Thách thức ở đây là đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả
năng kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ
nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó
khăn ngắn hạn. Tóm lại, phải tạo dựng được môi trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và
bố trí lại nguồn lực diễn ra một cách suôn sẻ, với chi phí thấp.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung
và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn
khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc
phải làm. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát
huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời không ngừng hoàn thiện các
quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi
hộp nhập.
Mặc dầu vậy, cần thẳng thắn thừa nhận rằng Việt Nam chưa tận dụng tốt các cơ hội mà hội
nhập mang lại để có thể vượt qua các thách thức mà hội nhập đặt ra. Tăng trưởng của Việt
Nam vẫn đạt dưới mức tiềm năng.
Nguyên nhân là cải cách thiếu đồng bộ; sau khi gia nhập WTO, cải cách có phần chậm lại,
trước khó khăn tạm thời, phản ứng chính sách thường quay lại tư duy cũ, can thiệp hành
chính vào các quá trình kinh tế.
Giai đoạn mới của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Việt Nam đang đàm phán 6
Hiệp định mậu dịch tự do mới: TPP, FTA Việt Nam - EU, FTA Việt Nam - Liên minh thuế quan
Nga, Kazakhstan, Belarus, FTA Việt Nam - Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA), FTA
Việt Nam - Hàn Quốc, Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN+6 (RCEP). Đây đều là những hiệp
định có mức độ tự do hoá cao hơn các hiệp định trước đây mà Việt Nam đã tham gia, trong
đó TPP và FTA Việt Nam - EU được coi là những hiệp định mậu dịch tự do thế hệ mới.
Tham gia các Hiệp định này sẽ là sức ép lớn, đặt ra những thách thức nặng nề đối với Việt
Nam. Nhưng thách thức sẽ là cơ hội để Việt Nam thúc đẩy cải cách. Quyết tâm chính trị để
đẩy mạnh cải cách đã thể hiện trong Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và trên tổng
thể, nội dung cải cách đã được nêu rõ trong Thông điệp đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng. Vấn đề còn lại là Việt Nam cần hoạch định một chiến lược cải cách đồng bộ, có lộ trình
cụ thể, gắn với một chiến lược hội nhập với tầm nhìn dài hạn, và một cơ chế điều phối thực
thi hiệu quả để có được “một chuỗi giá trị cao về thể chế”, tạo ra một tổng hợp động lực để có
thể hội nhập thành công trong một nền kinh tế toàn cầu hoá và cạnh tranh gay gắt
Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc
gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hóa nên khi gia nhập
WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn,
minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi
người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân, lấy người dân, doanh nghiệp, doanh
nhân làm trọng tâm phục vụ, khăc phục mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu
không tạo ra được một nền hành chính như vậy thì chẳng những không tận dụng được các
cơ hội do hội nhập kinh tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại mà cũng không
chống được tham nhũng, lãng phí nguồn lực.
Năm là, để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả, bên cạnh quyết tâm về chủ trương, cần
phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh. Đây cũng là
một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh
nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự
chuẩn bị phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc
phục.
Sáu là, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa. Đồng thời, việc
mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, bên cạnh
nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào, đòi hỏi các cấp lãnh đạo, quản lý và mọi
người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao
sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối sống hưởng thụ, tự do tư sản…
Thứ bảy
Tiềm lực vật chất của việt nam còn yếu, nguồn nhân lực dồi dào nhưng nói chung là có kỹ
năng không cao, điều này khiến cho hệ thống phân công lao động quốc tế gặp nhiều bất cập.
khó khăn này thể hiện ở chỗ năng lực tiếp cận khoa học công nghệ chủ yếu, khó phát huy lợi
thế của nước đi sau trong việc tiếp cận các nguồn lực sẵn có từ bên ngoài để nâng cao cơ sở
hạ tầng kỹ thuật dẫn đến nguy cơ việt nam có thể trở thành “bãi rác” của các công nghệ lạc
hậu. với quy mô vốn nhỏ như các doanh nghiệp vừa và nhỏ (dnvvn) thì khả năng nhập các
công nghệ lạc hậu càng lớn.
Thứ tám
Sự cạnh tranh, đặc biệt là cả các sản phẩm công nghiệp còn quá thấp do đó việt nam gặp
nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển các thị trường mới trong điều kiện nhiều
nước đang phát triển cùng chọ chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên việt nam sẽ
bị áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa; việc mở rộng thị trường nội địa theo afta, wto
có thể biến việt nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm nước ngoài. hàng hoá nước ngoài
chất lượng cao lại được cắt giảm thuế, điều này khiến cho hàng hoá của các dnvvn bị cạnh
tranh gay gắt.
Thứ chín
Do tri thức và trình độ kinh doanh của các goanh nghiệp còn thấp, cộng với hệ thống tài
chính và ngân hàng còn yếu kém nên dễ nị tổn thương và bị thao túng nếu tự do hoá thị
trường vốn sớm; từ kinh nghiệm của các nước ngoài và quốc tế ngày càng tăng.
Thứ mười
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc gia có tiềm lực mạnh có thể chứa
đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm thậm chí gây sức ép buộc việt nam phải thay
đổi định hướng, mục đích phát triển.
Mười một, hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống bị
xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Mười hai, hội nhập có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc
tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
Như vậy, hội nhập đồng thời đưa lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các nước. Tuy nhiên, không
phải cứ hội nhập là đương nhiên hưởng đầy đủ tất cả các lợi ích và gánh mọi bất lợi như đã
nêu trên. Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở dạng tiềm năng và đối với mỗi nước một khác,
do các nước không giống nhau về điều kiện, hoàn cảnh, trình độ phát triển… Việc khai thác
được lợi ích đến đâu và hạn chế các bất lợi, thách thức thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó đặc biệt quan trọng là năng lực của mỗi nước, trước hết là chiến lược/chính sách,
biện pháp hội nhập và việc tổ chức thực hiện. Thực tế, nhiều nước đã khai thác rất tốt các cơ
hội và lợi ích của hội nhập để đạt được tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội cao, ổn định
trong nhiều năm liên tục, nhanh chóng vươn lên hàng các nước công nghiệp mới và tạo dựng
được vị thế quốc tế đáng nể, đồng thời xử lý khá thành công các bất lợi và thách thức của
quá trình hội nhập, đó là trường hợp Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Trung
Quốc, Malaixia, Mêhicô, Braxin… Một số nước tuy vẫn gặt hái được nhiều lợi ích từ hội nhập,
song xử lý chưa tốt mặt trái của quá trình này, nên phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức lớn, có thể kể tới trường hợp Thái Lan, Phi-líp-pin, Inđônêxia, Việt Nam, Hy Lạp, Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha… Mặc dù vậy, suy cho cùng lợi ích mà hầu hết các nước đã thu được trên
thực tế từ quá trình hội nhập vẫn lớn hơn cái giá mà họ phải trả cho những tác động tiêu cực
xét trên phương diện tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều này giải thích tại sao hội nhập
quốc tế trở thành lựa chọn chính sách của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay./