TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------
Tiểu luận môn:
ĐƯỜNG LỐI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài:
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐCS VN
THỜI KÌ ĐỔI MỚI (1986 ĐẾN NAY)
Sinh viên thực hiện:
1
2
3
4
5
Nguyễn Thị Ngọc Huyền
Võ Thị Mỹ Dung
Trần Gia Hân
Phạm Ngọc Huy
Đỗ Văn Đạt
GVHD: Phùng Thế Anh
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 4 Năm 2016
MỤC LỤC
15116094
15116076
15116084
15116092
15116079
LỜI MỞ ĐẦU
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa lâm
vào khủng hoảng nghiêm trọng và dần bị sụp đổ. Bên cạnh đó, khoa học công
nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả quốc gia dân tộc với mức độ khác
nhau. Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại
để phù hợp với tình hình mới. Trong bối cảnh quan hệ quốc tế chuyển từ đối đầu
sang đối ngoại, thế hai cực bị phá hoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng
hóa, đa phương hóa trong quá trình toàn cầu hóa, phát triển và phụ thuộc lẫn
nhau. Việt Nam nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương và ASEAN là
khu vực phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tương đối ổn định.
Là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của Đảng, đường lối và chính sách
đối ngoại đúng đắn của Đàng và Nhà nước Việt Nam đã cho phép khai thác có
hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hòng phá hoại
thành quả cách mạng Việt Nam tiến lên. Bằng sự nhạy cảm chính trị, kinh
nghiệm lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra những giải pháp ngang tầm với những
biến đổi to lớn trong nước và thế giới, tiến hành tự đổi mới để hội nhập với cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.
Trên cơ sở đổi mới chính sách đối nội đã hình thành và phát triển chính
sách đối ngoại mới, giàu sức hấp dẫn đã tranh thủ được sự ủng hộ của các dân
tộc trong cộng đồng thế giới hợp tác với Việt Nam. Chính vì thế sau hơn 20 năm
đổi mới thế và lực của nước ta đã tăng lên đáng kể, Việt Nam đã và đang hội tụ
đủ các điều kiện để đến 2020 trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
vai trò và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
3
NỘI DUNG
1. Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối
1
Hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX :
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ,
tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.
Các nước XHCN lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu những năm 1990 chế độ
XHCN ở Liên Xô sụp đổ. Trật tự thế giới, hai khối độc lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu
tan rã , mở ra một trật tự thế giới mới . Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột , tranh chấp
vẫn còn , nhưng xu thế chung của thế giới là hòa bình và hợp tác phát triển .
Xu thế toàn cầu hóa và tác động của nó : toàn cầu hóa là quá trình lực lượng sản xuất
và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các rào cản bởi biên giới quốc gia và khu vực ,
lan tỏa ra phạm vi toàn cầu , sự phân công lao động mang tính quốc tế , quan hệ kinh tế giữa
các quốc gia , khu vực đan xen nhau , hình thành mạng lưới quan hệ đa chiều .
Những tác động tích cực của toàn cầu hóa : thúc đẩy phát triển sản xuất của các nước.
Mặt khác, toàn cầu hóa thuận lợi cho việc xây dựng môi trường hòa bình , hữu nghị và hợp
tác giữa các nước .
Những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa : các nước công nghiệp phát triển thao túng ,
chi phối quá trình toàn cầu hóa tạo nên sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế và làm gia
tăng sự phân cực giữa nước giàu và nước nghèo .
Tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương , từ những năm 1990 , có nhiều chuyển
biến mới trong khu vực tuy vẫn tồn tại những bất ổn . Nhưng châu Á – Thái Bình Dương vẫn
được đánh giá là khu vực ổn định , châu Á – Thái Bình Dương có tiềm lực lớn và năng động
về phát triển kinh tế . Xu thế hòa bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh .
Yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: vấn đề giải tỏa tình trạng đối đầu , thù
địch , phá thế bị bao vậy , cấm vận , tiến tới bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác với
các nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế là nhu cầu cần thiết
và cấp bách. Mặt khác , do hậu quả nặng nề của chiến tranh và các khuyết điểm chủ quan, nền
4
kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra
gay gắt . Ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong nước , cần phải tranh thủ các nguồn
lực bên ngoài.
2 Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối
Giai đoạn 1986 – 1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (Tháng 12 – 1986), trên cơ sở nhận
thức đặc điểm nổi bật của thế giới là cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra mạnh
mẽ, đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận định: “xu thế mở rộng
phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng
là những điều kiện quan trong đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta”. Từ
đó, Đảng chủ trương phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều
kiện phát triển mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ
nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lời.
Triển khai chủ trương của Đảng. Tháng 12-1987, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
được ban hành tạo ra cơ sở pháp lí cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Năm mở cửa để hút nguồn vốn, thiết bị và kinh nghiệm tổ chức quản lí sản xuất, kinh doanh
phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Tháng 5-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại
trong tình hình mới, khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Đảng và nhân
dân ta là phải củng và giữ vững hòa bình để tập trung sức để xậy dựng và phát triển kinh tế.
Nghị quyết đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và chuyển hướng toàn bộ chiến lược
đối ngoại của Đảng ta. Đặt nền móng hình thành đường lới đối ngoại độc lập tự chủ, rộng
mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứu VII của Đảng (tháng 6-1991) đề ra chủ trương
“hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã
hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”. Đại hội đã đổi mới chính
sách đối ngoại với các đối tác cụ thể. Với Lào và Campuchia, ta thực hiện đổi mới phương
thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh thần bình đẳng. Với Trung Quốc, chủ trương thúc
đẩy mạnh bình thường hóa quan hệ, từng bước mở rộng hợp tác Việt-Trung. Chủ trương phát
triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và Châu Á Thái Bình Dương, phân đấu
5
cho một Đông Nam Á hòa bình. Đối với Hoa Kì, Đại Hội nhấn mạnh yêu cầu thúc đẩy quá
trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.
Tháng 1-1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII triển khai mạnh mẽ
đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ
đối ngoại. Trên cơ sở chủ đạo là giữ vũng nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội
đồng thời phải sáng tạo năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam cũng như của thế giới và khu vực.
Như vậy, quan điểm, chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ
VI, sau đó được các nghị quyết Trung ương từ khóa VI đến khóa VII phát triển đã hình thành
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế
Giai đoạn 1996 –2011: Bổ sung và phát triển đương lối đối ngoại theo phương châm
chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996)
khẳng định tiếp túc mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, trung tâm kinh
tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đông thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy
nhan quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: tăng
cường quan hệ với các nước láng giềng và ASEAN; không ngừng củng cố quan hệ với các
nước bạn bè truyển thống; coi trọng quan hệ với các nước phát triển và trung tâm kinh tế chính trị thế giới; đoàn kết với các nước đang phát triển, với Phong trào không liên kết; tham
gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của cá tổ chức quốc tế.
So với Đại hội VII thì chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có các đặc điểm mới: một
là, chủ trương mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác; hai là, quán triệt
yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ; ba là,
lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương thử nghiệm để tiến tới
thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Trên cơ sở phát hụy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài
chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương vũng
chắc việc đàm phán hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4-2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Nêu rõ quan điểm
về xây dựng nền kinh tế đọc lập tự chủ: “xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là
6
độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hộp nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp
để phát triển đất nước”.
Đại hội IX đã phát triển phương châm của Đại hội VII thành: “Việt Nam sẵn sàng làm
bạn, là đối tác tin cậy của các cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”
đánh dấu bước phát triển về chất tiến trình quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kì đổi mới.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4-2006) Đảng nêu quan điểm: thực
hiện nhất đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời đề ra chủ trương
“chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Trong đó, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
là hoàn toàn chủ động quyết định đường lối, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, không rơi
vào thế bị động dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế
quốc tế. Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên
trong, từ phương thức lãnh đạo quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ trung ương đến địa
phương, doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế tích cực nhưng phải cận
trọng vững chắc.
Như vậy, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ quốc tế được xác lập trong 10 năm đầu của thời kì đổi mới (1986-1996) đến Đại hội
X (năm 2006) được bổ sung, phát triển theo phương chăm chủ động, tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế hình thành đường lối đối ngoại tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển, chính sách
đối ngoại được mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Gai đoạn 2011 đến nay: Từ sau Đại hội XI của Đảng đến nay, công tác đối ngoại đảng
được triển khai một cách tích cực, chủ động, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm và có bước
đột phá. Vì vậy, quan hệ đối ngoại của Đảng ta tiếp tục được mở rộng và tăng cường. Hiện ta
có quan hệ với hơn 200 chính đảng ở 114 nước, trong đó có hơn 100 đảng cộng sản và công
nhân, gần 50 đảng cầm quyền, gần 80 đảng đang tham gia quốc hội/nghị viện các nước. Hoạt
động đối ngoại đảng tập trung vào những hướng lớn sau:
7
Thứ nhất, tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, đảng cầm quyền ở các nước xã
hội chủ nghĩa và các nước láng giềng có chung biên giới, đưa quan hệ đi vào chiều sâu bằng
nhiều hình thức phong phú, đa dạng và thiết thực,
Thứ hai, chủ động thiết lập và tăng cường quan hệ với các đảng cầm quyền, tham
chính và các đảng tiềm năng ở các nước trong khu vực và đối tác quan trọng của Việt Nam.
Thứ ba, tiếp tục tăng cường quan hệ đoàn kết, ủng hộ lẫn nhau với các đảng cộng sản
và công nhân, cánh tả, các đảng và phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ.
Thứ tư, hoạt động tích cực tại các diễn đàn đa phương chính đảng.
Như vậy, qua gần bốn năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, quan hệ đối ngoại của
Đảng ta đã không ngừng được mở rộng và tăng cường, nhất là với các đảng cộng sản, cầm
quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng có chung biên giới và các đảng
cầm quyền, tham chính trong khu vực và ở các nước đối tác quan trọng, tạo nền tảng chính
trị thúc đẩy quan hệ nhà nước và quan hệ đối ngoại nhân dân, thiết thực phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của Đảng và Nhà nước ta trên trường quốc tế,
đồng thời góp phần tích cực vào phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và sự nghiệp hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Tuy nhiên, hoạt động đối ngoại đảng vẫn còn đứng trước nhiều khó khăn và những đòi
hỏi của tình hình mới. Một mặt, điều kiện, môi trường hoạt động khó khăn của nhiều đảng
cộng sản, công nhân, cánh tả dẫn tới hạn chế trong việc trao đổi thông tin, duy trì quan hệ với
Đảng ta. Mặt khác, sự khác biệt về ý thức hệ, chế độ chính trị vẫn còn là rào cản trong quan
hệ giữa Đảng ta và các đảng ở nhiều nước, khiến không gian quan hệ của Đảng ta chưa thật
rộng, chưa tương xứng với tiềm năng.
2. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
2.1 Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ rõ cơ hội và thách
thức của việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trên cơ sở đó Đảng xác định mục tiêu, nhiệm
vụ và tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại.
Về cơ hội: xu thế hòa bình, hợp tác phát triển và xu thế toàn cầu hóa kinh tế tạo thuận
lợi cho nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt khác, thắng lợi của
8
sự nghiệp đổi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo tiền đề mới cho
quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
Về thách thức: những vấn đề toàn cầu hóa như phân hóa giàu nghèo, dịch bệnh, tội
phạm xuyên quốc gia… gây tác động bất lợi đối với nước ta.
Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: sản phẩm,
doanh nghiệp và quốc gia; những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác động nhanh và
mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, thậm chí khủng hoảng
kinh tế- tài chính.
Ngoài ra, lợi dụng toàn cầu hóa, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài” dân chủ”, “
nhân quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của nước ta.
Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan hệ, tác động qua lại, có thể chuyển hóa lẫn
nhau.
Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại: Lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo các
điều kiện quốc tế thuận lợi cho cuộc đổi mới để phát triển kinh tế- xã hội là lợi ích cao nhất
của Tổ quốc. Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng
yêu cần phát triển của đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành
nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam
trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo: Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt đầy
đủ, sâu sắc các quan điểm.
+ Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.
9
+ Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
đối ngoại.
+ Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy mặt hợp
tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác.
+ Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ
chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hòa bình, hợp tác với khu vực; chủ động tham gia các tổ
chức đa phương, khu vực và toàn cầu.
+ Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập
kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân.
+ Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi
trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài;
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất
nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ
chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.
+ Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tang cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2 Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập
kinh tế quốc tế
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững: hội
nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ có địa vị bình đẳng với các thành
viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một trật
tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi doanh
nghiệp Việt Nam trong các cuộc tranh chấp thương mại với các nước khác, hạn chế được
những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: chủ động và tích
cực xác định lộ trình hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng các ưu đãi mà WTO dành cho
10
các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực nhưng phải hội nhập từng
bước, dần dần mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý.
Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên
tắc, quy định của WTO: bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; đa dạng hóa các hình
thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng
bước hoàn thiện các loại thị trường, xây dựng các sắc thuế công bằng, thống nhất, đoan giản,
thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực bộ máy của nhà nước: kiên
quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính không còn phù hợp; đẩy mạnh phân cấp gắn với
tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; thực hiện công khai, minh bạch mọi chính sách,
cơ chế quản lý.
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập
kinh tế quốc tế: nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu hút đầu tư nước
ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; các doanh nghiệp điều chỉnh quy mô và cơ
cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm và thị trường; điều chỉnh quy
hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm.
Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập: bảo
vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập; xây dựng cơ chế kiểm soát
và chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa không lành mạnh, gây
phương hại đến sự phát triển đất nước, văn hóa và con người Việt Nam; kết hợp hài hòa giữ
giữ gìn và phát huy có chọn lọc các giá trị văn hóa tiên tiến trong quá trình giao lưu với các
nền văn hóa bên ngoài.
Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội: như giáo dục, bảo hiểm, y
tế; đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, có các biện pháp cấm, hạn chế nhập khẩu những
mặt hàng có hại cho môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ môi trường.
11
Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập: xây dựng nền
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có phương án chống lại âm mưu "diễn
biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại
nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại: tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt
động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm tăng cường hiệu
quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng
mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế
bình đẳng, công bằng, cùng có lợi.
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các
hoạt động đối ngoại: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng cơ cở Đảng trong
các doanh nghiệp và xây dựng giai cấp công nhân trong điều kiện mới; đẩy mạnh xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách hành
chính.
3. Thành tựu và hạn chế
3.1 Thành tựu
Triển khai đường lối, chính sách của Đảng về mở rộng quan hệ đối ngoại trong thời kỳ
đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định an ninh quốc gia, nâng cao vị thế của đất nước
trên trường quốc tế. Trong quan hệ song phương, nước ta đã củng cố và phát triển quan hệ
hữu nghị hợp tác toàn diện với các nước láng giềng. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào tiếp tục
có nhiều bước phát triển mới. Hợp tác ngày càng tiến triển theo hướng thực chất hơn, phát
huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi nước, bình đẳng, cùng có lợi, dành sự ưu tiên ưu đãi hợp
lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Hiện nay, Việt Nam là
12
một trong những đối tác kinh tế hàng đầu của Lào với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 4 tỷ USD,
kim ngạch thương mại hai chiều đạt gần 1 tỷ USD.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia được thúc đẩy trên cơ sở phương châm chỉ đạo “Hợp
tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài". Hai nước đã ký
nhiều hiệp định hợp tác trong các lĩnh vực, trong đó đáng chú ý nhất và quan trọng nhất là
việc Campuchia cam kết công nhận và tôn trọng các hiệp ước, hiệp định biên giới đã ký với
Việt Nam những năm 80. Hợp tác kinh tế tiến triển thuận lợi, đến 2011 kim ngạch thương mại
hai chiều đã đạt gần 2 tỷ USD.
Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phát triển nhanh và toàn diện. Khuôn khổ quan hệ được
chính thức xác định với 16 chữ: "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai", tiếp đó được bổ sung thêm tinh thần 4 tốt: "Láng giềng tốt, bạn bè tốt,
đồng chí tốt, đối tác tốt" và gần đây là “Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”. Hai
bên có nhận thức chung rộng rãi, chia sẻ sự tương đồng quan điểm đối với nhiều vấn đề quốc tế
và khu vực. Hợp tác kinh tế, thương mại Việt - Trung tăng trưởng nhanh, hiện mậu dịch hai
chiều đã vượt 30 tỷ USD. Việc hai nước ký hiệp ước về biên giới trên đất liền, các hiệp định
về phân định Vịnh Bắc Bộ và hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ tạo điều kiện thuận lợi xây
dựng biên giới hai nước thành đường biên giới hoà bình, ổn định lâu dài để phát triển.
Nhận thức rõ vị trí của ASEAN, tầm quan trọng của hoà bình, ổn định và hội nhập khu
vực, từ sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã ngày càng tham gia tích cực và đầy đủ vào mọi
hoạt động của ASEAN. Qua đó, Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực hợp
tác chính của ASEAN, góp phần tạo dựng nền tảng vững chắc để ASEAN đi đến quyết định
lịch sử là tăng cường liên kết tiến tới xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Các nước
ASEAN hiện có hơn 1 nghìn dự án đầu tư triển khai ở Việt Nam, với số vốn đầu tư trên 13 tỉ
USD. Việt Nam cũng có trên 120 dự án đang triển khai ở các nước thành viên ASEAN với
tổng vốn gần 1 tỷ USD. Mặt khác, Việt Nam còn tham gia với tinh thần trách nhiệm vào các
cơ chế hợp tác đa phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài như: ASEAN+1, ASEAN+3,
Hợp tác Á - Âu (ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á…
13
Bên cạnh sự phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, Việt Nam năng
động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn và các tổ chức quốc tế trong quá
trình hội nhập.
Quan hệ Việt- Mỹ được bình thường hoá có ý nghĩa chiến lược đối với yêu cầu an ninh
và phát triển của nước ta, tác động mạnh đến quan hệ của Việt Nam với tất cả các nước khác,
nhất là các nước phương Tây. Hai nước đã ký Hiệp định thương mại năm 2000 và năm 2006
chính quyền Mỹ chính thức ban hành đạo luật về thiết lập Quy chế quan hệ thương mại bình
thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam, đánh dấu việc bình thường hoá hoàn toàn quan hệ
song phương giữa hai nước, tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập WTO. Năm 2011, kim
ngạch mậu dịch hai chiều vượt 18 tỉ USD, hiện Mỹ xếp thứ 6 trong số 85 nước và vùng lãnh
thổ có đầu tư ở Việt Nam. Mỹ hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Đối với Liên bang Nga, Việt Nam đã chủ động đề ra những biện pháp nhằm duy trì và
thúc đẩy quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, kể cả an ninh quốc phòng. Hai nước đã xác lập
mối quan hệ đối tác chiến lược (2001), cùng với một loạt các hiệp định về hợp tác kinh tế thương mại, khoa học kỹ thuật, dầu khí, khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tổ hợp công nông
nghiệp. Gần đây, kim ngạch buôn bán giữa hai nước và đầu tư của Nga vào Việt Nam có
chiều hướng tăng, hiện kim ngạch mậu dịch đã vượt 1,7 tỷ USD.
Với quan hệ chính trị phát triển tốt đẹp, hợp tác về kinh tế, thương mại, khoa học kỹ
thuật, an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Ấn Độ có bước phát triển thể hiện sự tin cậy lẫn
nhau. Hai nước ký Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược mới (7/2007). Từ năm 2007 đến
nay, Ấn Độ đã lọt vào nhóm 10 nước có vốn đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, đồng thời Việt Nam
cũng trở thành nước tiếp nhận FDI lớn nhất từ Ấn Độ ở Đông Nam Á.
Việt Nam tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, nhất là trên các
lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hoá, du lịch, chuyển giao công
nghệ. Hiện nay Nhật là bạn hàng lớn nhất, là nước cung cấp viện trợ phát triển nhiều nhất và
đầu tư lớn ở Việt Nam. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phát triển năng động trong khuôn khổ
quan hệ đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở châu Á. Nhật Bản tiếp tục là nước viện
14
trợ phát triển (ODA) song phương lớn nhất cho Việt Nam với tổng giá trị đạt 14 tỷ USD,
trong đó 1,5 tỷ USD là viện trợ không hoàn lại.
Với Liên minh châu Âu (EU), Việt Nam đã ký với hầu hết các nước EU Hiệp định
khung về hợp tác, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế hai
lần... tạo cơ sở pháp lý cho xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác ổn định, lâu dài. Việt
Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Tây Ban Nha, Anh, Đức, Hà Lan. Phát triển
quan hệ song phương đã góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - EU..
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu trong quá
trình hội nhập quốc tế của nước ta. Chúng ta đã thực sự bắt đầu triển khai mạnh việc tham gia
hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế kể từ khi gia nhập ASEAN và các định chế kinh tế,
tài chính thương mại của ASEAN như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực
đầu tư ASEAN (AIA); ký Hiệp định khung với EU (1995); tham gia Diễn đàn Hợp tác Á - Âu
(ASEM) năm 1996, Diễn đàn APEC năm 1998; ký Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ (2000)
dựa trên những nguyên tắc cơ bản của WTO và cuối năm 2006 đã chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của WTO. Nhìn tổng quát, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) của
nước ta đã xúc tiến với bước đi khá vững chắc và đạt được kết quả bước đầu rất đáng khích lệ.
Trước hết, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu vực, trở thành
thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều kiện thuận lợi cho
HNKTQT ngày càng hiệu quả hơn.
Việt Nam đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do các đối tác truyền
thống ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị thu hẹp đột ngột, và do tác động tiêu cực từ cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực bắt đầu từ năm 1997.. Một thành tựu nổi bật là đã thu
hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài khá lớn, trước hết là FDI. Đến nay, nước ta đã có quan
hệ ngoại giao chính thức với 175 nước, có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng
lãnh thổ, thu hút được hơn 10 nghìn dự án FDI từ 85 nước và lãnh thổ với tổng số vốn đăng
ký hơn 160 tỷ USD. Nhiều nhà đầu tư lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia đã và đang đặc biệt
quan tâm đến Việt Nam. Tại các Hội nghị tư vấn tài trợ cho Việt Nam, tổng cam kết tài trợ
15
liên tục tăng với các kỷ lục mới, năm 2006 đạt hơn 4,4 tỷ USD, năm 2007 đạt 5,42 tỷ USD,
năm 2009 đạt trên 8 tỷ, các năm 2010-2011 tổng cam kết tài trợ vẫn duy trì ở mức cao. Đây là
sự thể hiện niềm tin và sự tín nhiệm của cộng đồng tài trợ quốc tế đối với Việt Nam, đồng
thời phản ánh quyết tâm cao độ của Việt Nam trên đường cải cách và phát triển. Bên cạnh các
thị trường chủ lực là Mỹ, Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, EU, Ôxtrâylia, hàng
hoá Việt Nam đã vươn ra củng cố thế đứng trên nhiều thị trường khác như Nga, Trung Đông,
Mỹ Latinh và châu Phi... Mặt khác, với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trong quá trình
hội nhập, nước ta ngày càng năng động tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp
phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Hội nhập kinh tế quốc tế còn
đưa lại một thành tựu đáng chú ý là từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền
kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo tư duy làm ăn mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hoạt động đối ngoại đa phương có sự trưởng thành rõ rệt. Tại các diễn đàn quốc tế và
khu vực như Liên Hợp quốc, Phong trào Không liên kết, ASEAN, ARF, ASEM, Cộng đồng
các nước có sử dụng tiếng Pháp..., Việt Nam đã phối hợp với nhiều nước, trước hết là các
nước đang phát triển đấu tranh bảo vệ hoà bình, bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế và Hiến chương Liên Hợp quốc. Việt Nam đã được bầu vào Hội đồng chấp hành Tổ
chức Kinh tế - Xã hội, trở thành uỷ viên hội đồng điều hành của nhiều tổ chức quan trọng trực
thuộc Liên Hợp quốc như UNDP, UNFPA, UNICEF, Uỷ ban Giải trừ quân bị. Đặc biệt, thành
tựu ấn tượng nhất trên lĩnh vực ngoại giao đa phương là việc Việt Nam được bầu làm uỷ viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 với số phiếu áp đảo,
đánh dấu quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã trở nên sâu rộng. Nếu việc tham gia Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) mở đầu sự hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế quốc tế, thì khi
trở thành thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đã bắt đầu hội nhập đầy đủ
vào đời sống chính trị quốc tế. Với vị thế và trọng trách này, Việt Nam không chỉ vươn lên
tầm cao trong quan hệ đối ngoại ngoại, mà còn có tiếng nói quan trọng tại Liên Hợp quốc diễn đàn quốc tế đa phương lớn nhất trên hành tinh. Thông qua đó, Việt Nam có điều kiện
thuận lợi tham gia giải quyết những vấn đề chính trị- xã hội, an ninh quốc tế có liên quan trực
16
tiếp hoặc gián tiếp, đồng thời đóng góp tích cực hơn và nhiều hơn trong nỗ lực duy trì hoà
bình, ổn định và phát triển trên thế giới.
Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế, trước hết trên lĩnh
vực kinh tế, là kết quả của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối
ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập
ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước
ta càng vững bước trên đường hội nhập quốc tế, tận dụng tốt nhất những cơ hội mới đang mở
ra. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá tạo điều kiện thuận lợi
cho nước ta tham gia nhanh và hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng
mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển. Do vậy, chúng ta có cơ hội đẩy nhanh quá trình
điều chỉnh, tái cơ cấu cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và rút ngắn thời gian vật chất
của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập
kinh tế quốc tế cũng bộc lộ những hạn chế:
Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động.
Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tuỳ thuộc lẫn nhau với các nước.
Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp
lý cho việc thực hiện các cam kết.
Doanh nghiệp nước ta hầu hết qui mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ; trong
lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ, trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các ngành
dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và có chi phí cao hơn các
nước khác trong khu vực.
Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan
hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ,
gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế.
17
Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số
lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về pháp luật quốc tế, về kỹ thuật kinh
doanh. Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến
năm 2008 mặc dù còn những hạn chế, nhưng thành tựu là cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng:
góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng khoảng kinh tế – xã hội, nền kinh tế Việt Nam có bước
phát triển mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên thương trường và chính trường
quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong hơn 20 năm qua đã chứng minh đường lối đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng tạo.
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC
Họ Và Tên
Phần công việc
18
1. Võ Thị Mỹ Dung
1.1.Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành
đường lối
2. Trần Gia Hân
1.2.Các giai đoạn hình thành, phát triển
đường lối
3. Nguyễn Thị Ngọc Huyền
2.1.Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
4. Đỗ Văn Đạt
2.2.Một số chủ trương chính sách lớn về mở
rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế
quốc tế
5. Phạm Ngọc Huy
3.Thành tựu và hạn chế
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ giáo dục và Đào tạo, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
2.
Hoạt động đối ngoại một năm sôi động hiệu quả, baodientu.chinhphu.vn
20