Biên soạn: ThS. Phan Anh Thế
DẪN PHÒNG TRỪ
MỘT SỐ DỊCH HẠI QUAN TRỌNG TRÊN CÂY LÚA
(Lưu hành nội bộ)
Nghệ An, 2016
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
RẦY NÂU, RẦY LƯNG TRẮNG
Ngoài yếu tố khách quan như diễn biến thời tiết bất lợi,
giống nhiễm rầy,…thì nguyên nhân bùng phát dịch rầy và cháy
rầy chủ yếu do các yếu tố chủ quan trong định hướng và các
biện pháp phòng trừ.
Việc dùng các loại thuốc trừ sâu không chọn lọc ngay từ
đầu vụ, đã làm giảm đáng kể mật độ các loài thiên địch của rầy.
Đây là nguyên nhân chính làm gia tăng mật độ rầy. Cũng như
phát hiện rầy muộn, phòng trừ khi mật độ đã quá cao, nên hiệu
quả thấp.
Một vấn đề tồn tại nữa là duy trì quan điểm sai làm là
không sử dụng thuốc nội hấp sau giai đoạn đòng-trỗ vì lý do
khản năng nội hấp lưu dẫn kém. Dẫn đến việc lựa chọn các
dòng thuốc tiếp xúc để phòng trừ rầy ở giai đoạn này.
Tuy nhiên các dòng thuốc tiếp xúc chỉ tiêu diệt được
những con rầy tiếp xúc với thuốc, và thời gian hiệu lực không
đủ để kiểm soát các lứa rầy được nở ra sau 5-7 ngày sau từ các
ổ trứng trong bẹ lá. Nên nông dân phải phun đi phun lại nhiều
lần.
Trong khi giai đoạn từ đòng-trỗ đến trước lúc bộ lá đòng
ngả vàng, thì quá trình nội hấp và lưu dẫn rất cao. Bởi vì khi bộ
lá lúa còn màu xanh thì nó còn có khả hấp thụ các thuốc nội
hấp rất tốt. Đồng thời giai đoạn này quang hợp diễn ra mạnh
mẽ, cây lúa hút nhiều nước, dinh dưỡng và quá trình vận
Trang 2 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
chuyển các chất ở cường độ cao. Nên khản năng lưu dẫn của
các dòng thuốc nội hấp lưu dẫn thuận lợi hơn.
- Chú ý ở các ruộng sâu trũng, xanh mướt, ruộng có tiền sử
nhiễm rầy các vụ trước và các ruộng gieo cấy giống nhiễm.
Phun phòng trừ khi mật độ rầy trên 500-700 con/m2.
- Trong các trường hợp: Mật độ thấp nhưng có nhiều rầy chửa
(bụng to béo, di chuyển chậm), hoặc có nhiều vết rách thâm
nhỏ trên bẹ lá (ổ trứng rầy - mỗi ổ có 15-30 trứng).
Hoặc nhiều rầy cánh ngắn, thì cũng nên phòng trừ vì nguy
cơ bùng phát dịch cao.
- Không nên sử dụng các thuốc trừ rầy không chọn trong 45
ngày đầu sau gieo cấy
- Nếu bộ lá lúa vẫn còn màu xanh, hạt lúa chưa chín sinh lý
(phôi nhũ đã cứng) nên sử dụng các thuốc nội hấp, lưu dẫn và
hiệu lực kéo dài để tăng hiệu quả phòng trừ và giảm số lần
phun thuốc.
- Khi dùng thuốc tiếp xúc thì bắt buộc phải rẽ lúa giai đoạn
này, sau 5-7 ngày kiểm tra ruộng, nếu thấy lứa rầy mới thì tiến
hành phun lại.
- Nên sử dụng các loại thuốc vừa có đặc tính tiếp xúc vừa nội
hấp lưu dẫn mạnh như Chess 50WG (2 gói 7,5g/sào), Actara
25WG (4 gói 1 gam/sào), ....
Pha 15g Chess 50WG, hoặc 4g Actara 25WG với 16-25 lít
nước. Phun 16-25 lít/sào, tùy giai đoạn sinh trưởng của lúa,
Trang 3 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
2. BỆNH ĐẠO ÔN (Chỉ trong vụ Đông Xuân)
Nguồn gốc Bệnh đạo ôn hay còn gọi là bệnh cháy lá, do
nấm Pyricularia oryzea gây ra, là một đối tượng bệnh nguy
hiểm trên cây lúa. Bệnh có từ lâu đời, được phát hiện lần đầu
tiên ở Italia năm 1560, sau đó là Trung Quốc vào năm 1637, ở
Nhật năm 1704. Ở nước ta bệnh được phát hiện năm 1951 ở
Bắc Bộ bởi Roger (người Pháp).
Khi cây lúa bị nhiễm bệnh đạo ôn, người nông dân rất khó
phát hiện bệnh ở giai đoạn vết bệnh cấp tính (chưa hình thành
bào tử), khi phát hiện bệnh thì vết bệnh đã chuyển sang giai
đoạn mãn tính (đã phóng thích bào tử). Mỗi vết bệnh mãn tính
có thể phóng thích từ 2.000 - 6.000 bào tử trong 1 ngày đêm và
kéo dài 15 ngày và có nguy cơ hình thành nên hàng nghìn vết
bệnh mới chỉ sau 5-7 ngày.
Bởi vậy, việc phòng trừ thường tốn kém, độc hại, phải xử
lý nhiều lần và hiệu quả thấp. Quá trình phát triển của vết bệnh
đạo ôn (theo thứ tự 1, 2, 3, 4) Để phòng trừ hiệu quả bệnh đạo
ôn gây hại trên lúa cần nắm vững các đặc điểm quan trọng sau
của bệnh đạo ôn:
Bệnh gây hại nhiều bộ phận trên cây lúa như lá (đạo ôn lá),
cổ bông (đạo ôn cổ bông), cổ gié, đốt thân của cây lúa. Vết
bệnh ban đầu là chấm kim nhỏ màu nâu, sau đó vết bệnh lớn
dần có hình bầu dục, màu nâu nhạt, kích thước khoảng ½ mm.
Trang 4 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
Trong điều kiện ẩm độ không khí cao, bão hòa (trời âm u,
có sương, mưa) thì trên vết bệnh cấp tính có một lớp mốc màu
nâu xám, sũng nước, đó là các sợi nấm bệnh đang phát triển.
Sau đó vết bệnh chuyển thành dạng hình thoi (hình mắt én) ở
giữa có màu nâu sáng, xung quanh có quầng vàng. Lúc này vết
bệnh ở giai đoạn mãn tính, đã sản sinh và phóng thích bào tử
vào không khí.
Bệnh đạo ôn phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt độ
từ 20 - 28 oC, thuận lợi nhất từ 24 - 28 oC, ẩm độ không khí
trên 90% (trời có mưa, mưa phùn, sương mù). Tuy nhiên thực
tế đồng ruộng cho thấy nếu nhiệt độ ban ngày cao (trên 30 oC)
và ban đêm lạnh, có sương mù thì bệnh cũng phát triển rất
mạnh.
Thời gian ủ bệnh (thời gian từ khi bào tử nảy mầm, xâm
nhiễm đến biểu hiện ra vết bệnh bên ngoài) của nấm bệnh đạo
ôn khoảng 5-6 ngày, tùy theo điều kiện nhiệt độ, cụ thể như
sau:
Nhiệt độ từ 9-10oC thời gian ủ bệnh 13-18 ngày; 1718oC thời gian ủ bệnh 7-9 ngày; 20-25oC thời gian ủ bệnh 5-6
ngày; 26-28oC thời gian ủ bệnh 4-5 ngày.
Ngoài ra các điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển của
bệnh đạo ôn như đất đai, phân bón, giống nhiễm. Những chân
ruộng nhiều mùn, trũng, ẩm, khó thoát nước, những vùng đất
mới vỡ hoang, đất nhẹ, giữ nước kém, khô hạn...
Trang 5 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
Phân đạm ảnh hưởng nặng nhất đến tốc độ phát triển của
bệnh, việc bón đạm cao làm tế bào ít được silic hóa làm thành
vách trở nên mềm nấm bệnh dễ xâm nhập và gây hại. Ảnh
hưởng của lân không lớn tuy nhiên phân lân cũng có một vài
tác dụng sau: Phân kali tác dụng không rõ, tuy nhiên việc bón
nhiều phân kali trên nền đạm cao không làm giảm bệnh. Kích
thích tố và các nguyên tố vi lượng: Các chất kích thích như
Biotin,Thiamin và các nguyên tố vi lượng như kẽm, mangan,
molipden giúp cho cây lúa phát triển tốt và cũng tạo điều kiện
cho bệnh phát triển.
Dọn sạch tàn dư (rơm rạ) ở các chân ruộng có tiền sử bệnh
đạo ôn và tiêu hủy. Hạn chế gieo trồng các giống lúa mẫn cảm
với bệnh đạo ôn. Bón phân N:P:K hợp lý, theo từng giai đoạn
(giai đoạn mạ, giai đoạn đẻ nhánh, giai đoạn làm đòng, giai
đoạn trỗ - chín).
Không bón đạm tập trung vào thời kỳ cây lúa dễ nhiễm
bệnh. Khi bệnh xuất hiện cần phải dừng việc bón thúc đạm,
tuyệt đối không phun các loại phân bón lá và tiến hành các biện
pháp phòng trừ.
Khi phát hiện bệnh cần tiến hành phòng trừ sớm và nhanh
ngay giai đoạn vết bệnh cấp tính. Nếu phát hiện muộn vết bệnh
đã chuyển sang giai đoạn mãn tính (hình mắt én) thì cần tiến
hành phun lại lần 2 sau phun lần 1 từ 5-7 ngày.
Trang 6 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
Đối với đạo ôn cổ bông, cần tiến hành phun phòng trước
khi lúa trỗ 7-10 ngày, chậm nhất là khi trỗ le te (một vài bông
trên ruộng). Một số thuốc hóa học có hiệu quả cao có thể sử
dụng để phòng trừ như Filia 525SE, Amistar Top 325SC,
Vistar 72.5WP....
Filia 525SE, pha 1 chai 20ml với 16-20 lít nước, phun 2025 lít nước thuốc cho sào 500 m2 (tương đương 0,4-0,5 lít
thuốc/ha).
Amistar Top 325SC, pha 20-25 ml thuốc với 16-20 lít
nước phun cho 500 m2 (tương đương 0,4-0,5 lít thuốc/ha.
3. SÂU CUỐN LÁ NHỎ
Có ba loài sâu cuốn lá nhỏ hại lúa ở Việt Nam:
Cnaphalocrocis medinalis, Marasmia exigua và Marasmia
patnalis. Phân bố rộng trên thế giới, tại Việt Nam loài
Cnaphalocrocis medinalis là phổ biến.
Quy luật gây hại của SCLN như sau: Trứng được đẻ rải rác
trên lá, thường là mặt dưới và cạnh gân chính giữa của lá.
Sâu non nhả tơ cuốn dọc lá lúa thành một bao thẳng đứng
hoặc bao tròn gập lại.
Sâu nằm trong bao tổ ăn phần biểu bì mặt trên và diệp lục
và không ăn biểu bì mặt dưới lá, dọc theo gân lá tạo thành
những vệt trắng dài, các vệt này có thể nối liền nhau thành từng
mảng.
Trang 7 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
Sau khi qua giai đoạn sâu non, sâu hóa nhộng kéo dài 5-7
ngày rồi vũ hóa thành trưởng thành. Đặc điểm của trưởng
thành SCLN có tính hướng sáng mạnh, thường bay vào đèn.
Ngoài ra, ngài cái thường bay đến các ruộng gần bờ mương,
đường đi, vườn, nhà ở, vì thế việc phát hiện SCLN không khó.
SCLN thường xuất hiện trong điều kiện thời tiết nắng mưa
xen kẽ, nhiệt độ 24-29oC, ẩm độ trên 80%.
Mỗi con sâu non có thể gây hại từ 5-9 lá, chúng có thể di
chuyển từ lá này sang lá khác, thời gian di chuyển thường diễn
ra từ 17-21 giờ. Sâu có thể phá hại suốt ngày đêm, nên tốc độ
gây hại rất nhanh, nếu chủ quan sẽ không kịp cứu vãn.
Thường thì việc phun thuốc trừ CLCN của nông dân hiệu
quả không cao. Ngoài thói quen phòng trừ muộn, đến khi đã
thấy trắng lá mới phun (tuổi 3-5) thì một quan điểm sai lầm mà
người nông dân thường mắc phải là xử lý các nhóm thuốc
không chọn lọc ở gian đoạn lúa đẻ nhánh đã làm giảm mật độ
thiên địch
Hoặc sử dụng các thuốc dòng tiếp xúc khi sâu đã chui vào
tổ hoặc đã tự cuốn tổ (tuổi 2-3), thuốc không tiếp xúc được với
sâu, nên hiệu quả thấp.
Vì vậy để xác định chính xác thời điểm xử lý cần biết vòng
đời SCLN kéo dài trong khoảng từ 25-30 ngày. Sau khi thấy
trưởng thành ra rộ trên đồng ruộng thì sau từ 4-5 ngày sẽ có sâu
tuổi 1.
Trang 8 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
Mỗi tuổi kéo dài khoảng 3 ngày, nghĩa là sau khi thấy
trưởng thành ra rộ thì sau 4-7 ngày là thời điểm phòng trừ thích
hợp nhất. Nếu xác định được ngày xuất hiện lứa trước, thì lứa
sau sẽ xuất hiện sau 25-30 ngày sau đó.
Ở giai đoạn đẻ nhánh nếu đã bị hại trắng lá (sâu đã tuổi 45) thì không nên phòng trừ nữa mà sau đó 2 tuần phòng trừ là
thích hợp nhất.
Xử lý khi sâu tuổi 1-2, vì tuổi lớn hơn phòng trừ sẽ không
hiệu quả do lúc đó sâu đã vào tổ thuốc sẽ không tiếp xúc được
với sâu, mặt khác sâu ở tuổi 3-4 thì cơ bản lá lúa đã bị trắng,
mất hết phần biểu bì chỉ còn lại gân lá thì kể cả các thuốc nội
hấp lưu dẫn cũng không thể hấp thụ và lưu dẫn được.
Trong một vụ lúa, SCLN thường xuất hiện ở 3 thời điểm:
giai đoạn đẻ nhánh, giai đoạn bắt đầu làm đòng và giai đoạn
lúa trỗ. Giai đoạn cây lúa làm đòng là thời điểm quan trọng
nhất, lúc này cây lúa sẽ không mọc thêm lá, nên nếu mất đi lá
nào nghĩa là mất đi lá đó, có thể mất trắng mùa vụ.
Một đặc tính quan trọng của SCLN là gối lứa, khi mật độ
cao trong một thời điểm có thể có nhiều pha phát dục khác
nhau.
Vì vậy chỉ nên sử dụng các loại thuốc có tính nội hấp, lưu
dẫn và hiệu lực kéo dài để giảm số lần phun, tăng hiệu quả.
Nếu mật độ chỉ mới đến ngưỡng phải xử lý thì (50 con/m2) có
Trang 9 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
thể sử dụng các dòng thuốc tiếp xúc, nên phun sau trưởng
thành ra rộ 4-7 ngày.
Nếu sử dụng các dòng tiếp xúc như Ebamectin benzoate
(Proclaim 1.9EC), Lamda-cyhalothrin (Karate 2.5EC)… nên
phun khi sâu mới nở đến tuổi 2.
Liều lượng Proclaim 1.9EC từ 0,15-0,2 lít/ha, Karate
2.5EC từ 0,4-0,5 lít/ha. Lượng nước phun phải đảm bảo 400 500 lít/ha
Nên sử dụng các thuốc có tính nội hấp lưu dẫn hiệu quả
cao hiện nay như Chloratraniliprole, Flubendiamide, Fipronil…
Trong đó Chloratraniliprole (có trong các thuốc như
Voliam Targo 063SC, Virtako 40WG) phòng trừ hiệu quả
cùng lúc cả sâu cuốn lá, sâu đục thân và nhiều loài sâu khác.
Hiệu lực của Voliam Targo 063SC, Virtako 40WG kéo dài
2-3 tuần, nên chống được gối lứa và khung thời gian xử lý từ
sau khi bướm ra rộ (tắt bướm) đến sâu tuổi 3.
Đối với các vùng có áp lực rầy nên sử dụng Virtako
40WG, các vùng có áp lực nhện gié nên sử dụng Voliam Targo
063SC để tiết kiệm chi phí phòng trừ rầy và nhện gié.
Liều lượng khuyến cáo: Pha 3 gam (2 gói) Virtako 40WG
hoặc 10ml (1 chai 10ml) Voliam Targo 063SC với bình 16-20
lít, phun ướt đều trên lá, khoảng 16-25 lít nước thuốc/sào
500m2. Tùy từng giai đoạn sinh trưởng của cây lúa.
Nên phun buổi sáng khi ráo sương mù, hoặc chiều im mát
Trang 10 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
4. SÂU ĐỤC THÂN BƯỚM HAI CHẤM (SĐT)
Vòng đời SĐT khoảng 32-42 ngày, sâu non trải qua 5 tuổi,
mỗi tuổi 4-5 ngày.
Bướm SĐT có tính hướng sáng mạnh, hay vào đèn, khi
đậu cánh cụp hình mái nhà, trên mỗi cánh có 1 chấm đen gần
phía đuôi cánh, đối xứng nhau. Bướm đẻ trứng thành từng ổ,
mỗi ổ thực tế có từ 100-600 trứng, trứng được đẻ xếp chồng lên
nhau (kiểu xếp chồng của trứng ốc bươu vàng). Trên trứng có
một lớp lông màu vàng nhạt. Lớp lông này là do bướm SĐT
sau khi đẻ xong dùng lông bụng chúng phủ lên.
Sâu non tuổi 1 chưa đục vào thân mà chỉ treo lơ lửng đầu
ngọn lúa. Sang tuổi 2 sâu bắt đầu đục vào thân, thông thường
sâu cắn từ đỉnh thân cây lúa và ăn dần xuống dưới. Sau khi trải
quả 5 tuổi, sâu hóa nhộng dưới gốc. Mỗi con SĐT chỉ gây hại
một dảnh lúa duy nhất. Vì vậy phải phòng trừ SĐT trước khi
sâu non bước sang tuổi 2. Nghĩa là phải phòng trừ từ sau khi
thấy bướm rộ (đã đẻ trứng xong) 7-12 ngày sau đó. Nếu đã quá
thời gian này thì không nên phun thuốc.
Về nguyên lý, các thuốc trừ SĐT nội hấp lưu dẫn vẫn có
thể tiêu diệt được sâu non khi mới xâm nhập vào trong thân cây
lúa nhưng phản tác dụng.
Vì khi sâu non đục vào thân, chúng sẽ cắn hỏng đỉnh thân,
đỉnh đòng trước, nên cây lúa đó dù có sống cũng không cho
bông. Nếu cây lúa sống không cho bông thì chẳng khác nào
Trang 11 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
cây cỏ, cạnh tranh dinh dưỡng, ánh sáng với các cây còn lại mà
hiệu quả chỉ để lấy rơm cho trâu bò.
Khi sâu non đã qua các tuổi 3, 4, 5 thì sâu đã cắn hỏng
mạch dẫn trong thân cây lúa. Nên dù có sử dụng thuốc nội hấp
lưu dẫn cũng không có tác dụng.
Về đặc điểm gây hại, SĐT có thể gây hại trên cây lúa từ
giai đoạn mạ đến đòng trỗ, tuy nhiên trong một vụ lúa chúng
chỉ gây hại mạnh ở giai đoạn cây lúa kết thúc đẻ nhánh và làm
đòng.
Ý nghĩa như tên gọi sâu đục thân, hiểu đơn giản là nó đục
khi có thân. Mà cây lúa bắt đầu có thân khi kết thúc đẻ nhánh
và làm đòng trở về sau. Thời điểm này lại trùng vào lứa sâu
cuốn lá thứ 2 của vụ Hè Thu.
- Phòng trừ SĐT sử dụng các thuốc Voliam Targo 063SC,
Virtako 40WG như đối với sâu cuốn lá.
Nếu các lứa sâu đục thân trùng hoặc cách nhau trong
khoảng 1 tuần vơi các lứa sâu cuốn lá thì nếu đã sử dụng các
thuốc này để phòng trừ sâu cuốn lá, thì không cần phải phun
thuốc sâu đục thân nữa. Vì các loại thuốc này phòng trừ được
cả sâu đục thân.
- Cuối vụ thu hoạch, nếu điều kiện thủy lợi cho phép thì cho
nước ngập gốc rạ, để tiêu diệt nhộng SĐT trong gốc rạ. Giảm
nguy cơ tích lũy mật độ cho vụ kế tiếp.
Trang 12 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
5. CÁC BỆNH GÂY VÀNG LÁ LÚA
Bệnh do một số nguyên nhân chính gây ra như ngộ độc
hữu cơ, ngộ độc phèn, do virus, do nấm, do vi khuẩn và do điều
kiện khí hậu bất lợi.
- Vàng lá do virus
Thường thì khi thấy vàng lá, cơ quan chuyên môn gửi mẫu
đi test virus. Tuy nhiên ở miền Bắc có thể loại trừ khản năng
bệnh vàng lá do virus (vàng lùn). Do bệnh vàng lùn phải có sự
phối trộn của 3 loại virus Lùn lúa cỏ, Lùn xoăn lá do rầy nâu
truyền bệnh và bệnh Tungro do rầy xanh đuôi đen truyền bệnh.
Trong những năm gần đây việc đồng thời xuất hiện dịch rầy
nâu và rầy xanh đuôi đen không đáng kể.
- Vàng lá do ngộ độc hữu cơ, ngộ độc phèn
Triệu chứng biểu hiện giống bệnh vàng lùn, cây lúa bị
vàng và lùn. Khi gặp trường hợp này, chúng ta chỉ cần nhổ
khóm lúa lên, rửa sạch rễ và kiểm tra. Nếu thấy rễ đen (ngộ độc
hữu cơ), đỏ vàng (ngộ độc phèn) kèm theo rễ bị thối, ít hoặc
không có rễ trắng (rễ mới), cây không hút đủ nước và dinh
dưỡng gây nên hiện tượng vàng và lùn xuống.
Khuyến cáo người dân ngừng bón đạm, rút nước ra khỏi
ruộng nếu điều kiện thủy lợi cho phép (ngộ độc phèn cần thay
nước nhiều lần). Bón khoảng 400kg/ha vôi bột đã và để ruộng
khô nứt chân chim sau đó cho nước vào ruộng.
Trang 13 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
Trường hợp lá lúa dày quá, không thể bón vôi thì nên rút
nước ra khỏi ruộng, sau đó đắp bờ và hòa vôi bột đầu dòng
nước chảy vào ruộng. Phun phân bón lá có hàm lượng lân cao
(siêu lân). Sau 1 tuần bón thêm khoảng 200kg/ha Super Lân.
Có thể phun phòng trừ các nấm bệnh bằng các thuốc như Nevo
300EC, Tilt Super 300EC, Anvil 5SC nếu cần.
- Vàng lá do nấm gây ra
Tác nhân chính là nấm Gonatophragmium sp, bắt đầu giữa
lá lúa xuất hiện một chấm vàng nhỏ. Sau đó chấm vàng to dần
lên, lan ngược đỉnh lá lúa, sọc vàng nhỏ dần khi hướng lên
chóp lá. Bệnh nặng nửa trên có thể bị vàng hết. Phòng trừ bằng
các thuốc như Ridomil Gold 68WG, Nevo 330EC, Tilt Super
300EC, Amistar Top 325SC, Score 250SC.
- Vàng lá do vi khuẩn gây ra
Phổ biến trên lúa Đông Xuân toàn miền Bắc, do vi khuẩn
Xanthomonas oryzae và Xanthomonas oryzicola gây ra. Cơ
quan chỉ đạo và nông dân đang lúng túng và thấy như một căn
bệnh lạ.
Triệu chứng ban đầu phía bìa lá chuyển vàng trước, sau đó
phần chóp vàng và hóp lại như mo cau, vết bệnh lan dần vào
trong theo đường gợn sóng màu vàng, mô bệnh xanh tái, vàng
lục.
Giữa mô bệnh và mô khỏe có ranh giới rõ ràng, giới hạn
theo đường gợn sóng màu vàng, có khi chỉ một đường viền
Trang 14 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
màu nâu đứt quãng, rất dễ nhầm lẫn với bệnh vàng lá và khô
đầu lá do sinh lý.
Thông thường chúng ta nghĩ rằng bệnh bạc lá, là phải gây
nên bạc trắng lá ngay. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào thời
tiết, giống lúa. Triệu chứng lá bạc là giai đoạn cuối của bệnh
bạc lá, lúc này các mô lá nhiễm bệnh đã chết. Nếu ẩm độ cao,
tế bào trương nước chúng ta ít bắt gặp giai đoạn lá chuyển vàng
và chỉ thấy lá bị khô trắng lúc nắng lên.
Ngoài ra cây lúa có thể nhiễm bệnh đốm sọc vi khuẩn
(Xanthomonas oryzicola). Triệu chứng là những sọc nhỏ ngắn
khác nhau, chạy dọc theo các gân lá. Lúc đầu vết sọc xanh
trong giọt dầu, lúc đầu chuyển màu nâu, xung quanh sọc màu
nâu có các quầng vàng. Nếu lá bị nhiều đốm sọc tập trung thì
các quầng vàng liên kết nhau làm lá lúa bị vàng.
Các loài vi khuẩn xâm nhiễm chủ yếu qua vết thương cơ
giới. Do mưa, gió các lá lúa cọ xát vào nhau gây tổn thương. Vì
thế phần hai mép lá thường bị tổn thương trước và nhiễm bệnh
trước (người ta gọi bệnh cháy bìa lá).
Có thể phòng trừ bằng kháng sinh như kasugamicin, không
nên dùng thuốc có chứa streptomincin vì kháng sinh này là
thuốc chữa bệnh cho người, nếu ăn thực phẩm nhiễm kháng
sinh này rất nguy hiểm. Hoặc có thể sử dụng nhóm thuốc sát
trùng như Bronopol (Xantocin 40WP), Totan 200WP...
Trang 15 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
Kinh nghiệm của nông dân: Phun phòng bằng Nevo
330EC hoặc Tilt Super 300EC lúc làm đòng thì rất ít bị hoặc
không bị bệnh bạc lá. Nhưng bị rồi mới phun không có thuốc
nào hiệu quả.
Trong điều kiện thời tiết bất lợi như mưa nắng bất thường,
nhiệt đổi thay đổi đột ngột, gió lào, các chân đất sâu trũng,
đọng nước, đất cát dễ nhiễm vàng lá sinh lý.
Cần quan sát kỹ các đặc điểm triệu chứng vàng lá, để xác
định đúng nguyên nhân và cách phòng trừ.
6. BỆNH LEM LÉP HẠT
Lem lép hạt là thuật ngữ chung để chỉ triệu chứng hạt lúa
bị lép, lửng không cho năng suất. Biểu hiện 3 dạng là lép trắng,
lép xanh và lép đen.
- “Lép trắng” là hiện tượng hạt lép màu trắng khi mới trỗ ra.
Nguyên nhân chính của lép trắng là do tế bào mẹ hạt phấn
không được hình thành, vỏ trấu không được silic hóa và không
hình thành chất diệp lục. Nên khi lúa trỗ thấy những hạt lép
màu trắng, thực tế là hoa đó không được hình thành đầy đủ.
- “Lép xanh” là hiện tượng có 2 nguyên nhân, trỗ ra đẽ lép
sẵn do quá trình hoàn thành hạt phấn gặp sự cố, tuy vỏ trấu đã
hình thành chất diệp lục, nhưng hoa không hoàn thiện. Nên khi
trỗ ra vấn thấy màu xanh. Hoặc do điều kiện bất lợi hoa không
thụ phấn, thụ tinh được và hạt không được hình thành.
Trang 16 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
- “Lép đen” là hiện tượng hạt lép có màu đen, nâu đen, do tác
nhân bên ngoài như nấm bệnh, vi khuẩn và cả nhện gié. Người
ta thường gọi là “bệnh đen lép hạt”, có thể nhiều đối tượng
nấm bệnh, vi khuẩn khác nhau gây nên.
Lem lép hạt lúa gây thiệt hại năng suất rất lớn, có thể lên
đến trên 70% năng suất. Thực tế 1 khóm lúa có 5-7 dảnh hoặc
10-15 dảnh hoặc cao hơn. Mỗi bông có khoảng 200-350 hạt,
trọng lượng trung bìnhc1000 hạt các giống lúa lai >25 gam, lúa
thuần >20 gam. Nếu mỗi bông lúa có 200 hạt chắc, mỗi khóm
lúa có 7 bông, thì năng suất lúa thuần sẽ đạt hơn 11 tấn/ha, lúa
lai sẽ đạt hơn 14 tấn/ha. Song thực tế chỉ đạt tối đa khoảng 2/3
năng suất đó.
Có 3 yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lúa giai đoạn đòngtrỗ: Dảnh vô hiệu, lem lép hạt, bộ lá đòng. Cả 3 yếu tố đều dẫn
đến lép, lửng hạt.
- Hạn chế tối đa dảnh vô hiệu: Dảnh vô hiệu là các dảnh
không cho bông, hoặc cho bông nhưng trỗ sau và chín muộn
không cho năng suất. Dảnh vô hiệu được sinh ra do bón phân
sai khoa học và điều tiết nước. Trong điều kiện ruộng có nước,
bón nhiều phân đạm và lân giai đoạn cuối đẻ nhánh, thúc đòng
quá sớm, sẽ kích thích bộ lá và rễ phát triển.
Bón đạm làm bộ lá xanh non, chồi non là nơi tổng Auxin,
là chất kích thích ra rễ. Mặt khác lân có tác dụng kích thích rễ
phát triển, rễ là nơi tổng hợp Cytokinin, là chất làm trẻ hóa tế
Trang 17 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
bào. Vì vậy làm cây lúa đẻ thêm các dảnh vô hiệu. Ngoài ra có
thể hạn chế số dảnh bằng việc cắt nước cuối đẻ nhánh đến lúc
lúa phân hóa đòng nếu điều kiện thủy lợi cho phép.
- Hạn chế lem lép hạt: Bộ lá lúa xanh non, dảnh vô hiệu
nhiều, ảnh hướng đến quá trình tổng hợp Giberelin (GA), là
chất kích thích phân hóa mầm hoa, nếu thiếu nó có thể dẫn đến
lép trắng và lép xanh. Vì GA giai đoạn này được tổng hợp chủ
yếu từ các lá bánh tẻ (bộ lá đòng).
Do đó cần bón đón đòng và điều tiết nước hợp lý. Thời
gian bón đón đòng tốt nhất là ở bước thứ 2 của quá trình phân
hóa đòng (hình thành gié cấp 1). Tuy nhiên nông dân sẽ khó
biết đâu là bước thứ 2.
Có một kinh nghiệm thực tế giúp nhận diện như sau: Khi
cây lúa bắt đầu phân hóa đòng bộ lá chuyển vàng sáng, tròn
mình. Bước 2 là lúc mắt lá cờ (lá cạnh bông sau này) trùng với
mắt lá kế bên hoặc bóc dảnh lúa ra và thấy cây lúa có thân thật,
trên đỉnh thân bắt đầu có phần lông trắng.
Nếu phải phòng trừ các bệnh như khô vằn, vàng lá, thối
thân thì nên chọn các thuốc thuộc nhóm Triazole như Anvil
5SC, Nevo 330EC, Tilt Super 300EC…vì ngoài phòng trừ
bệnh, còn có cơ chế ức chế sinh trưởng ngọn ( không nên dùng
nhóm này cho cây họ bầu bí), giúp kìm hãm tổng hợp Auxin.
- Bảo vệ bộ lá đòng: Bộ lá đòng bao gồm 4 lá trên cùng là bộ
lá quyết định năng suất lúa. Khi cây lúa phân hóa đòng, bộ lá
Trang 18 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ
Tài liệu hướng dẫn phòng trừ một số sâu bệnh quan trọng trên cây lúa
đòng được cố định, lúc này cây lúa không thể mọc thêm được
lá nào nữa. Bộ lá đòng cần phải khỏe, đứng, sạch bệnh để tăng
hiệu suất quang hợp và hạn chế tối đa việc tích lũy nguồn bệnh
và lây lan sang hạt gây nên lép xanh và lép đen.
Phòng trừ, cắt nguồn bệnh tích lũy gây ra lép hạt và bảo vệ
bộ lá đòng bằng các thuốc như Anvil 5SC (0,8 lít/ha) giai đoạn
cuối đẻ nhánh, Tilt Super 300EC, Nevo 330EC (0,3-0,4 lít/ha)
giai đoạn từ làm đòng- trước trỗ, sau trỗ 1 tuần.
Nếu có áp lực đạo ôn, trước trỗ có thể dùng Amistar Top
325SC (0,4 lít/ha) để phòng đạo ôn cổ bông, cả khô vằn, vàng
lá, lem lép hạt.
7. MỘT SỐ ĐIỀU CẦN LƯU Ý
Tuân thủ nguyên tắc 4 đúng trong bảo vệ thực vật
Đúng thời điểm (của dịch hại)
Vd: Phun SCLN thời điểm tuổi 1, 2
Đúng thuốc
Vd: đúng thuốc Virtako 40WG, Voliam Targo 063SC
Đúng nồng độ, liều lượng
Vd: Pha 3g Virtako 40WG hoặc 10-15ml Voliam Targo
063SC với 16-20 lít nước.
Đúng cách
Vd: Lắc kỹ trước lúc mở nắp, bỏ thuốc bột vào chai lọ để
hòa tan trước, tráng chai nhiều lần để lấy hết thuốc,…
“Chỉ áp dụng biện pháp hóa học khi thực sự cần thiết”
Trang 19 - ThS. Phan Anh Thế
Lưu hành nội bộ