A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu:
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, vai trò của rừng không
những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ
quan trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, duy trì tính ổn định và
độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ
sức tàn phá khốc liệt của thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm
không khí. Vấn đề quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng hiện nay được coi
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam.
Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế trọng điểm
của miền Trung với diện tích vùng đồi núi chiếm 72% diện tích tự nhiên. Địa hình
tỉnh Quảng Nam tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông, hình thành ba
vùng sinh thái: vùng núi cao, vùng trung du, vùng đồng bằng và ven biển; bị chia
cắt theo các lưu vực sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ có mối quan hệ bền chặt về
kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái đa dạng với các hệ sinh thái đồi núi, đồng
bằng, ven biển.
Trong những năm qua, cấp uỷ và chính quyền tỉnh Quảng Nam đã ban hành
nhiều văn bản, chỉ thị, nghị quyết đề cập đến công tác chỉ đạo và tổ chức quản lý
khai thác, sử dụng tài nguyên rừng một cách hợp lý và hiệu quả (chủ yếu là gỗ).
Ngoài ra, rừng đã cung cấp một lượng lâm sản lớn cho nhu cầu tiêu dùng và xây
dựng của tỉnh, cũng như góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội và
nâng cao đời sống nhân dân trong tỉnh.
Chính vì nguồn lợi từ tài nguyên rừng là rất lớn, cho nên rừng trở thành mục
tiêu tấn công phá hoại của các loại tội phạm. Thời gian qua, lực lượng Cảnh sát
nhân dân Công an tỉnh Quảng Nam đã có nhiều cố gắng trong công tác đảm bảo an
ninh trật tự và đấu tranh kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm, trong đó có
nhóm tội phạm Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Tuy nhiên, thực
1
tế cho thấy, tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã và đang
là vấn đề bức xúc ở địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Theo số liệu thống kê từ năm 2010 đến năm 2014 cho thấy, tình hình vi
phạm pháp luật liên quan đến vấn đề lâm sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam xảy ra
hơn trăm vụ việc mỗi năm, trong đó chủ yếu là các hành vi phá rừng trái phép;
mua bán, cất giấu, chế biến, kinh doanh gỗ và lâm sản trái phép; khai thác và vận
chuyển gỗ trái phép…. Thực trạng đó đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đến tình
hình an ninh trật tự nói chung và tình hình tội phạm hình sự nói riêng của địa bàn
tỉnh Quảng Nam.
Nguyên nhân tình trạng trên xuất phát từ việc thực hiện chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, chính quyền địa phương đã cho phép các doanh nghiệp lập
dự án đầu tư phát triển nông, lâm nghiệp liên quan đến việc sử dụng rừng và đất
rừng; quá trình triển khai, một số chủ dự án thiếu trách nhiệm, một số không đủ
năng lực trong việc bảo vệ để rừng bị phá, đất lâm nghiệp bị lấn chiếm trái pháp
luật.
Việc xử lý các vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng và quản lý đất đai chưa
nghiêm, số vụ đưa ra truy tố xét xử thấp so với vụ việc được phát hiện (đạt 11,1%),
cơ quan có thẩm quyền ở tỉnh Quảng Nam lúng túng trước tệ nạn chặt phá rừng và
khai thác lâm sản trái pháp luật hiện nay.
Trước tình trạng vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng diễn biến ngày một
phức tạp, nạn phá rừng trái pháp luật diễn ra trên diện rộng, xảy ra thời gian dài,
nhiều đối tượng ngang nhiên coi thường pháp luật để thực hiện các hành vi phá
rừng mà chính quyền chưa có biện pháp để ngăn chặn một cách có hiệu quả. Mặt
khác, xuất phát từ những đặc điểm riêng của loại tội phạm này nên hoạt động
phòng ngừa cũng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc do đó cần phải được nghiên
cứu một cách tổng thể để đề ra những giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt
động phòng ngừa, góp phần giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Ở góc độ lý luận cho thấy, đến nay tuy đã có một số công trình nghiên cứu về
nhóm tội phạm Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và hoạt động
phòng ngừa loại tội phạm này. Tuy nhiên, hầu hết các đề tài trên mới chỉ đi sâu
2
nghiên cứu một số mặt, một số khía cạnh trong công tác điều tra đấu tranh phòng,
chống tội phạm Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, một số vấn đề
cụ thể về sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an cũng như mối quan
hệ phối hợp trong điều tra vụ án. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam chưa có
một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về
hoạt động phòng ngừa tội phạm Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu lý luận, đánh giá thực tiễn về hoạt động phòng
ngừa tội phạm Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ở một địa bàn cụ
thể, qua đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng
ngừa loại tội phạm này đang đặt ra như một nhu cầu bức xúc.
Việc tìm những giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội Vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam tuy không phải là vấn đề
mới, nhưng là vấn đề cấp bách mang tính thời sự “nóng bỏng” hiện nay. Nếu có sự
đầu tư thỏa đáng, một loạt các giải pháp căn cơ, đồng bộ với một tinh thần quyết
liệt, kiên trì, bền bỉ của cả hệ thống chính trị thì nhất định tình hình vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng ở tỉnh Quảng Nam ngày càng giảm và
tiến tới việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường một cách bền vững.
Nhận thức như vậy, tôi đã chọn đề tài: “Phòng, ngừa tội phạm vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng của Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ Công an tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên
cứu Đề án tốt nghiệp chương trình cao cấp lý luận chính trị năm học 2015 - 2016.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề án:
2.1. Mục đích
- Mục đích nghiên cứu của đề án là trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý
luận và thực tiễn liên quan đến công tác phòng ngừa tội phạm Vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; qua đó đề xuất các
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm này ở địa bàn tỉnh
Quảng Nam.
2.2. Nhiệm vụ
3
- Để đạt được mục đích nêu trên, đề án nghiên cứu đặt ra và giải quyết
những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích lý luận để làm rõ khái niệm, đặc điểm tội phạm vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng; làm rõ lý luận cơ bản về công tác phòng ngừa
loại tội phạm này ở địa bàn tỉnh Quảng Nam.
+ Phân tích làm rõ thực trạng tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và công tác phòng ngừa loại tội phạm
này của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
Công an tỉnh Quảng Nam.
+ Dự báo tình hình tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa
loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề án:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
+ Những vấn đề lý luận về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng;
+ Thực trạng tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và kết quả hoạt động điều tra của loại tội phạm này.
+ Những đánh giá, kết luận khoa học để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Nghiên cứu về công tác phòng ngừa tội phạm vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
+ Phạm vi về đối tượng, thời gian: Chỉ nghiên cứu hoạt động phòng ngừa
tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam xảy ra trong 05 năm, từ năm 2010-2014; đề xuất giải pháp giai đoạn 2016 –
2020 và tầm nhìn 2025
+ Chủ thể tiến hành: Công tác phòng ngừa của lực lượng Cảnh sát điều tra
tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ Công an tỉnh Quảng Nam đối với tội
4
phạm Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Phương pháp luận
Đề án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
– Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, hệ thống các chính
sách, pháp luật của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng và đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Trên cơ sở phương pháp luận, đề án còn áp dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể sau:
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê.
- Phương pháp tọa đàm, trao đổi cán bộ thực tiễn.
- Phương pháp chuyên gia để thu thập tài liệu.
5. Ý nghĩa khoa học của đề án:
- Đề án có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn; tổng kết đánh giá thực trạng tình
hình phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam, từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp điều tra,
phòng ngừa loại tội phạm này ở địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Kết quả nghiên cứu của đề án sẽ được áp dụng trong thực tế phòng ngừa
tội phạm Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu của đề án có thể làm tài liệu tham khảo cho hoạt
động nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các trường Công an nhân dân.
6. Kết cấu của đề án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề án
được kết cấu thành 04 phần :
Phần 1: Cơ sở khoa học, chính trị - pháp lý và thực tiễn về hoạt động
phòng ngừa của lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và
chức vụ Công an tỉnh Quảng Nam.
Phần 2: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng
ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng lực lượng Cảnh
5
sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ Công an tỉnh Quảng
Nam.
Phần 3: Tổ chức thực hiện
Phần 4: Dự kiến kết quả
.
6
B. NỘI DUNG
PHẦN 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC, CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ,THỰC TIỄN VỀ HOẠT
ĐỘNG PHÒNG NGỪA CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỘI
PHẠM VỀ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CHỨC VỤ CÔNG AN
TỈNH QUẢNG NAM.
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC
1.1.1. Nhận thức chung về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng.
Tại Điều 175 của Bộ Luật hình sự năm 1999 (sửa đổi năm 2009) quy định: Tội
vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng:
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá
án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng,
cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a. Khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của
Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại
Điều 189 của Bộ luật hình sự.
b. Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép, nếu không thuộc trường hợp quy định
tại Điều 153 và Điều 154 của Bộ luật hình sự.
2. Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì
bị phạt tù từ hai năm đến mười năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu
đồng. [1].
Như vậy, trên cơ sở quy định của điều luật này và qua nghiên cứu các tài liệu
khác, chúng ta nhận thức về tội Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng như sau: Tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Điều 175 của Bộ luật hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm vào những quy
định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng.
7
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là tội cấu thành vật chất
do lỗi cố ý và vô ý, bao gồm các yếu tố cấu thành như sau:
- Khách thể tội phạm:
Tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng xâm phạm đến
các quan hệ xã hội bảo đảm cho sự ổn định và phát triển kinh tế quốc dân trong lĩnh
vực về tài nguyên của đất nước, “xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý và bảo vệ
rừng của Nhà nước”.
- Khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm này được thể hiện ở các hành vi:
* Khai thác trái phép cây rừng, cụ thể:
- Khai thác cây rừng ở rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng mà không
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép trong trường hợp pháp luật quy
định việc khai thác đó chỉ được thực hiện khi đã được cấp giấy phép và giấy phép
còn trong thời hạn;
- Khai thác cây rừng ngoài khu vực cho phép;
- Khai thác cây rừng không có búa bài cây (bài chặt) trong các trường hợp theo
quy định của pháp luật phải có búa bài cây;
- Khai thác cây rừng vượt quá giới hạn cho phép (phần vượt quá khối lượng).
* Vận chuyển buôn bán gỗ trái phép là hành vi vận chuyển, buôn bán gỗ không
đúng các quy định của Nhà nước (như vận chuyển gỗ không có thủ tục, buôn bán gỗ
không có giấy phép kinh doanh hoặc có giấy phép nhưng đã hết hiệu lực).
+ Về hậu quả tác hại:
Các dấu hiệu khác: gây hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu cấu thành cơ bản của
tội này. Trường hợp chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người có hành vi trên phải
thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi nêu trên hoặc đã bị kết án về
tội này nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội này.
* Gây hậu quả nghiêm trọng khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Gây thiệt hại về lâm sản (trừ động vật rừng) từ trên mức độ tối đa bị xử phạt
vi phạm hành chính đến hai lần mức tối đa bị xử phạt hành chính quy định cho mỗi
hành vi vi phạm.
8
- Khai thác, vận chuyển, buôn bán trái phép từ hai loại gỗ trở lên (gỗ thông
thường với gỗ quý hiếm nhóm IIA) mà khối lượng của mỗi loại gỗ chưa vượt quá
mức tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng tổng khối lượng gỗ trong vụ vi
phạm đó vượt mức tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính đến hai lần mức tối đa bị
xử phạt vi phạm hành chính quy định đối với gỗ thông thường quy định cho hành vi
tương ứng đó;
- Khai thác gỗ quý hiếm nhóm IA ở rừng sản xuất đến 2 m 3; ở rừng phòng hộ
đến 1,5 m3; ở rừng đặc dụng đến 1m3;
- Khai thác thực vật rừng nguy cấp nhóm IA ở rừng sản xuất có giá trị đến 3
triệu đồng, ở rừng phòng hộ đến 2 triệu đồng, ở rừng đặc dụng đến 1 triệu đồng;
- Vận chuyển, buôn bán gỗ quý hiếm nhóm IIA đến 2m3.
- Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là bất
kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự khi có hành vi phạm tội thể hiện ở
mặt khách quan của tội này.
- Mặt chủ quan:
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, mục đích và động cơ phạm tội.
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô
ý.
Người phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được thực
hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp.
- Về hình phạt:
Mức hình phạt của tội này được chia thành hai khung, cụ thể như sau:
+ Khung 1 (khoản 1): Có mức phạt tiền từ 5 triệu đồng đến năm mươi triệu
đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Được áp
dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách
quan.
+ Khung 2 (khoản 2): Có mức phạt tù từ 2 năm đến 10 năm. Được áp dụng
trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
9
* Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng khi thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
- Gây thiệt hại về lâm sản (trừ động vật rừng) từ trên hai lần mức độ tối đa bị
xử phạt vi phạm hành chính đến bốn lần mức tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính
quy định cho mỗi hành vi vi phạm;
- Khai thác, vận chuyển, buôn bán trái phép từ hai loại gỗ trở lên (gỗ thông
thường với gỗ quý hiếm nhóm IIA) mà tổng khối lượng trong vụ vi phạm từ trên hai
lần đến bốn lần mức tối đa bị xử phạt hành chính đối với gỗ thông thường quy định
cho hành vi tương ứng đó;
- Khai thác gỗ quý hiếm nhóm IA, thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm nhóm IA
trên mức độ tối đa của hậu quả nghiêm trọng đến hai lần mức tối đa của hậu quả
nghiêm trọng tương ứng đó;
- Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép nhóm IA trên mức độ tối đa của hậu quả
nghiêm trọng đến hai lần mức độ tối đa của hậu quả nghiêm trọng tương ứng đó;
- Gây hậu quả nghiêm trọng như nêu ở trên và còn được thực hiện một trong
các hành vi sau: chống người thi hành công vụ; gây thương tích cho người thi hành
công vụ, đập phá nơi làm việc, trang thiết bị, phương tiện của cơ quan có trách
nhiệm quản lý và bảo vệ rừng mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội độc lập;
* Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khi thuộc một trong các
trường hợp sau:
- Gây thiệt hại về lâm sản (trừ động vật rừng) trên bốn lần mức độ tối đa bị xử
phạt vi phạm hành chính quy định cho mỗi hành vi vi phạm;
- Khai thác, vận chuyển, buôn bán trái phép từ hai loại gỗ trở lên (gỗ thông
thường với gỗ quý hiếm nhóm IIA) mà tổng khối lượng gỗ trong vụ vi phạm từ trên
bốn lần mức độ tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính đối với gỗ thông thường quy
định cho hành vi tương ứng đó;
- Khai thác gỗ quý hiếm nhóm IA, thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm nhóm IA
trên mức tối đa của hậu quả rất nghiêm trọng;
- Vận chuyển, buôn bán gỗ nhóm IA trên mức tối đa của hậu quả rất nghiêm
trọng;
10
- Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng như trên và còn thực hiện một
trong các hành vi sau: chống người thi hành công vụ; gây thương tích cho người thi
hành công vụ, đập phá nơi làm việc, trang thiết bị, phương tiện của cơ quan có trách
nhiệm quản lý và bảo vệ rừng mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội độc lập.
Hình phạt bổ sung (khoản 3): Ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt
chính nêu trên, thì tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền
từ 5 triệu đồng đến 20 triệu đồng (chỉ áp dụng khi hình phạt chính không phải là
phạt tiền).
1.1.2. Nhận thức về công tác phòng, ngừa tội phạm vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
quản lý kinh tế và chức vụ:
Tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là vi phạm
nghiêm trọng đến các quy định của nhà nước về quản lý khai thác và sử dụng tài
nguyên, xâm phạm đến quyền quản lý thống nhất của nhà nước đối với tài nguyên
rừng, đến trật tự quản lý kinh tế. Tình trạng này không chỉ gây lãng phí, thất thoát
nguồn tài nguyên rừng, làm mất cân bằng hệ sinh thái, gây ra lũ lụt, hạn hán, mất
đi cảnh quan thiên nhiên, gây ô nhiễm môi truờng. Giải pháp đấu tranh có hiệu quả
nhất đối với loại tội phạm này là phòng ngừa để không cho tội phạm xảy ra. Bởi
khi tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng xảy ra, đã và không
những gây thiệt hại to lớn cho nên kinh tế; cho tài sản của nhà nước, cho trật tự
quản lý kinh tế và tính nghiêm minh của pháp luật, chưa kể đến những thiệt hại khi
tiến hành điều tra, xử lý và khắc phục hậu quả của tội phạm này. Vì vậy có thể nói
hoạt động phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng,
được coi là hoạt động cơ bản của công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm
này. Phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng dưới
góc độ của Tội phạm học “là tổng thể các hoạt động của các ngành các cấp, các lực
lượng trong xã hội trong việc sử dụng đồng bộ, tổng hợp các biện pháp kinh tế,
giáo dục, pháp luật và các biện pháp nghiệp vụ nhằm khắc phục, loại trừ những
nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội và vi phạm pháp luật”.
11
Phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là
hoạt động mang tính tổng hợp, do nhiều cơ quan tổ chức, lực lượng tiến hành phối
hợp dưới sự chỉ đạo thống nhất của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của các
cấp chính quyền. Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và
chức vụ với chức năng nhiệm vụ của mình luôn giữ vai trò lòng cốt trong phòng
ngừa tội phạm.
Theo Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự số 23/2004/PL-UBTVQH11 ngày
20 tháng 8 năm 2004 và thông tư số 12/2004/TT- BCA (V19) của Bộ Công an
hướng dẫn một số quy định của pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 trong
Công an nhân; Quyết định số 189/2005/QĐ- BCA của Bộ trưởng Bộ Công an ngày
02 tháng 03 năm 2005 về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Cục Cảnh sát điều tra
tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ được tiến hành hoạt động phòng
ngừa, điều tra, xử lý tội phạm về kinh tế, trong đó có tội phạm vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng; Thông tư 28/2014/TT-BCA ngày 07/7/2014 của
Bộ Công an quy định công tác điều tra hình sự trong Công an nhân dân. Tổ chức,
nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức
vụ trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và tội phạm vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng, được xác định theo các quy định về tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản
lý kinh tế và chức vụ. Căn cứ vào hệ thống các văn bản quy định đó, có thể xác
định là chủ thể chính trong đấu tranh phòng, chống tội phạm vi hạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng.
1.1.3. Vai trò, vị trí, chức năng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ trong công tác phòng ngừa tội phạm vi
phạm về khai thác và bảo vệ rừng
- Vai trò, vị trí:
Đấu tranh phòng chống tội phạm về trật tự quản lý kinh tế, bảo vệ tài sản
của nhà nước của tập thể và cá nhân, chống buôn lậu, buôn bán hàng cấm, chống
sản xuất và buôn bán hàng giả, kinh doanh trái phép, chống thất thu thuế, nhằm
mục đích bảo đảm cho tài sản của nhà nước của tập thể và cá nhân được an toàn,
12
không bị thất thoát, không bị chiếm đoạt; mọi hoạt động kinh tế, nền tài chính quốc
gia phát triển ổn định... Là một trong những công tác lớn của toàn Đảng, toàn dân,
là nhiệm vụ quan trọng của Quốc gia.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân và lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật
tự quản lý kinh tế và chức vụ nói riêng là lực lượng lòng cốt, chủ công trong công
tác đó. Hoạt động chống tham nhũng, chống buôn lậu, chống các loại tội phạm về
kinh tế thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận Kinh tế - Xã hội. Cuộc
đấu tranh này nhằm bảo vệ tài sản của quốc gia, bảo vệ cơ sở vật chất kỹ thuật của
nhà nước đã đề ra trong công cuộc đổi mới hiện nay, xây dựng một nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, một xã hội văn minh, công bằng dân chủ.
Công tác của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế
và chức vụ là một bộ phận công tác quan trọng trong toàn bộ mọi hoạt động nhằm
tăng cường quản lý kinh tế; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đấu tranh
phòng chống các loại tội phạm về kinh tế, phát hiện và loại trừ các nguyên nhân,
yếu tố tạo điều kiện hoạt động cho các loại tội phạm tham ô tham nhũng, buôn lậu
và gian lận thương mại... chính là hoạt động trực tiếp xóa bỏ các yếu tố tiêu cực
trong hoạt động kinh tế, góp phần bảo vệ đội ngũ cán bộ nói chung, và cán bộ quản
lý kinh tế nói riêng, chống suy thoái trong các đơn vị cơ quan nhà nước. Là hoạt
động trực tiếp bảo vệ pháp luật, buộc các cơ quan, tổ chức cá nhân (nhất là trong
các lĩnh vực sản xuất và kinh doanh dịch vụ) phải hoạt động trong khuôn khổ của
pháp luật, các quy định cụ thể của nhà nước, của ngành. Đồng thời đây cũng là
công tác góp phần lập lại kỷ cương trong quản lý bảo vệ nền kinh tế của đất nước.
Thông qua hoạt động thực tiễn lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản
lý kinh tế và chức vụ tổng kết và đánh giá, tham mưu đưa ra những kiến nghị, đề
xuất với nhà nước, với cơ quan chức năng cần phải bổ sung, sửa đổi, hoặc hủy bỏ
những văn bản, giấy tờ có liên quan đến công tác bảo vệ tài sản, phòng chống tội
phạm kinh tế ở các lĩnh vực kinh tế khác nhau.
- Đặc điểm công tác của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
quản lý kinh tế và chức vụ:
13
Hoạt động của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế
và chức vụ bao gồm các mặt hoạt động công tác được pháp luật cho phép là hoạt
động nghiệp vụ cơ bản, hoạt động điều tra theo tố tụng hình sự và hoạt động hành
chính công khai nhằm phát hiện, điều tra, xử lý vi phạm và tội phạm.
+ Về hoạt động nghiệp vụ cơ bản.
Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý
kinh tế và chức vụ được tiến hành các hoạt động nghiệp vụ Theo Chỉ thị số
05/CT-BCA ngày 6/6/2003 Bộ trưởng Bộ Công an về việc chấn chỉnh, tăng
cường công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng CSND trong tình hình mới.
Quyết định số 360, 361, 362, 363/QĐ-BCA quy định về công tác nghiệp vụ cơ
bản của lực lượng CSND. Chỉ thị số 02/CT-BCA ngày 01/4/2013 và các Thông
tư số 18,19,20,21,22/TT-BCA-C41 ngày 01/4/2013 của Bộ Trưởng Bộ Công an
quy định về công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng CSND. Theo đó, lực lượng
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ có thể sử dụng linh
hoạt các biện pháp công tác của ngành theo tính chất mức độ nhiệm vụ được
giao. Có thể sử dụng các hình thức bí mật hoặc công khai, song để phát huy hiệu
lực tích cực của từng biện pháp và hạn chế mặt yếu của chúng thì cần phải sử
dụng một cách đồng bộ và kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp với nhau: Như
sưu tra, xác minh hiềm nghi, chuyên án trinh sát, xây dựng và sử dụng cộng tác
viên bí mật, đồng thời sử dụng các phương pháp hoạt động nghiệp vụ trinh sát,
trinh sát xác minh, trinh sát trực tiếp, trinh sát ngoại tuyến, trinh sát liên hoàn để
phục vụ công tác phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng.
+ Về hoạt động nghiệp vụ điều tra theo tố tụng hình sự.
Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
được hình thành trên cơ sở tổ chức lại lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật
tự quản lý kinh tế và chức vụ và chuyển giao bộ phận điều tra án kinh tế của lực
lượng Cảnh sát điều tra trước đây. Đây là một bước cụ thể hóa các quy định mới
về tổ chức cơ quan điều tra của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh tổ
14
chức điều tra hình sự năm 2004. Theo Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm
2004, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra được tiến hành phát hiện và điều tra tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế và chức vụ cho đến khi kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ
đề nghị truy tố đến Viện Kiểm Sát cùng cấp. Như vậy theo quy định của pháp luật,
lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ được tiến
hành phát hiện, điều tra tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
được bố trí ở 3 cấp:
Ở cấp Bộ là Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức
vụ trực thuộc cơ quan cảnh sát điều tra, Bộ Công an thuộc Tổng cục Cảnh sát, có
nhiệm vụ, quyền hạn tiến hành điều tra các vụ án về những tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng, phức tạp về khai thác và bảo vệ rừng có liên quan đến nhiều địa
phương hoặc người nước ngoài thuộc thẩm quyền của Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ cấp tỉnh, nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra,
tiếp nhận điều tra tố tụng những vụ do các đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra chuyển giao theo quy định của pháp luật và của Bộ
trưởng Bộ Công an.
Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là Phòng Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, trực thuộc cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn tiến hành điều tra các vụ án vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, tức là các vụ án vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2, Điều 175 của BLHS năm 1999 hoặc tội
phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra cấp huyện, nhưng
xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Ở cấp huyện, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh là Đội Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp
huyện có nhiệm vụ, quyền hạn tiến hành điều tra các vụ án vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp
15
huyện, tức là các vụ án vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng thuộc
trường hợp quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Điều 175 của BLHS năm 1999.
+ Về hoạt động hành chính công khai.
Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng, ngoài chức năng, nhiệm vụ triển khai các mặt công tác
nghiệp vụ cơ bản, điều tra theo tố tụng còn được tiến hành kiểm tra và xử lý vi
phạm hành chính. Trong hoạt động nghiệp vụ nếu phát hiện những vụ việc vi phạm
hành chính có thể điều tra, xác minh, kết luận và xử lý hoặc đề xuất xử lý theo quy
định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Cơ sở pháp lý cho hoạt động này
là: Luật xử lý vi phạm hành chính 15/2012/QH13 ngày 20/06/2012; Nghị định số
157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Theo Điều 29, Nghị định số 157/2013/NĐ-CP quy định: Người có thẩm
quyền xử phạt thuộc lực lượng Công an nhân dân quy định tại Điều 39 Luật xử lý
vi phạm hành chính có thẩm quyền kiểm tra, lập biên bản vi phạm hành chính, xử
phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành
vi vi phạm hành chính quy định tại Nghị định này thuộc lĩnh vực ngành mình quản
lý theo quy định tại Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính. Như vậy, trong lĩnh
vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ nếu phát hiện vi phạm hành chính thì có nhiệm
vụ, quyền hạn: lập hồ sơ vi phạm hành chính, tạm giữ tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính, xử phạt hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả
đối với hành vi vi phạm [5]
1.1.4. Nội dung, biện pháp phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng
Phòng ngừa tội phạm là sự vận dụng tổng hợp những biện pháp liên quan
với nhau của lực lượng Công an nói chung và của lực lượng Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ nói riêng. Việc nhận thức đúng đắn mục
đích là ngăn chặn và loại trừ nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội chứ không phải là trừng trị những kẻ phạm tội. Căn cứ vào chức
16
năng nhiệm vụ của mình lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý
kinh tế và chức vụ tiến hành nhiều biện pháp nghiệp vụ để làm tốt công tác phòng
ngừa đối với loại tội phạm này
Theo lý luận của tội phạm học về phòng ngừa tội phạm được hiểu là tổng thể
các hoạt động của các ngành, các cấp, các lực lượng trong xã hội trong việc sử dụng
đồng bộ, tổng hợp các biện pháp kinh tế, giáo dục, pháp luật và các biện pháp nghiệp
vụ nhằm khắc phục loại trừ những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng tội phạm vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có thể chia thành hai nhóm; các biện
pháp phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội) và phòng ngừa riêng (phòng ngừa
chuyên môn).
1.1.4.1. Các biện pháp phòng ngừa xã hội.
Phòng ngừa xã hội đối với tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng được xác định là trọng tâm, cơ bản được tiến hành bằng nhiều biện
pháp như: vận động quần chúng, kinh tế và pháp luật. Mỗi biện pháp có đối tượng
tác động riêng, nhằm đến mục tiêu riêng song chúng có tác động, bổ sung, hỗ trợ
cho nhau tạo nên hiệu quả chung của hoạt động phòng ngừa xã hội. Hiệu quả tác
động của các biện pháp trên đối với xã hội là rất lớn. Xuất phát từ thực tế một
trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng là đời sống nhân dân ở vùng rừng núi rất khó khăn, không có
việc làm, trình độ dân trí thấp, nhận thức về pháp luật khai thác và bảo vệ rừng hạn
chế, vì cuộc sống họ đã trở thành lực lượng làm thuê, hoặc trực tiếp tham gia khai
thác với mục đích là kiếm tiền. Qua việc thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa
xã hội sẽ làm giảm tối thiểu các nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm các quy
định về quản lý khai thác và bảo vệ rừng.
Nội dung hoạt động phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng bao gồm những biện pháp chính sau:
- Biện pháp kinh tế:
Đây là biện pháp tập trung vào phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn về
kinh tế như: Mâu thuẫn về cung-cầu, giữa sản xuất và tiêu dùng, sự chênh lệch
trong phát triển kinh tế giữa các vùng miền, sự mất cân đối giữa các ngành kinh
17
tế... kịp thời có chính sách kinh tế phù hợp điều chỉnh hoạt động quản lý, khai thác,
chế biến và bảo vệ rừng trong vòng kiểm soát của Nhà nước, qua đó ổn định trật tự
quản lý kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, lành mạnh hóa đời sống
kinh tế, hạn chế đi đến loại trừ những yếu tố tiêu cực làm phát sinh, tồn tại tội
phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Biện pháp kinh tế còn
thực hiện bằng kích thích kinh tế nâng cao đời sống của tầng lớp xã hội đặc biệt là
đời sống kinh tế của người dân ở vùng rừng núi cao, vùng sâu vùng xa, tạo thêm
việc làm kích thích phát triển kinh tế nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Làm tốt công tác quản lý khai thác và bảo vệ rừng, kịp thời phát hiện và
sửa chữa những sơ hở thiếu sót, và xử lý nghiêm minh những người vi phạm các
quy định về khai thác, quản lý bảo vệ rừng. Đây là cơ sở quan trọng loại trừ
nguyên nhân điều kiện của tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng.
- Biện pháp pháp luật:
Pháp luật là công cụ hữu hiệu trong quản lý kinh tế, xã hội có tác động điều
chỉnh hành vi của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ minh bạch, quá trình tổ chức thực hiện pháp
luật nghiêm minh sẽ có tác dụng tích cực trong phòng ngừa các loại tội phạm nói
chung và tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng nói riêng. Sử
dụng biện pháp pháp luật trước hết là phát hiện và khắc phục những hạn chế trong
hệ thống pháp luật về quản lý Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng. Biện pháp
pháp luật còn được thể hiện ở việc hoàn thiện cơ chế pháp lý mà biểu hiện cụ thể là
xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy định về chức năng nhiệm vụ của các chủ
thể, trách nhiệm của họ cũng như mối quan hệ của họ với các chủ thể khác tham
gia trong hoạt động phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng. Biện pháp pháp luật chỉ đạt được hiệu quả khi hành vi vi phạm trong khai
thác, mua bán, vận chuyển, quản lý, bảo vệ rừng trái phép kịp thời phát hiện và xử
lý nghiêm minh, có tính răn đe các đối tượng chưa hoặc có ý định vi phạm.
- Biện pháp vận động quần chúng, tuyên truyền và giáo dục pháp luật:
18
Biện pháp này nhằm tác động vào nhận thức và thái độ của quần chúng, các
cơ quan tổ chức xã hội đối với việc tham gia vào hoạt động đấu tranh phòng chống
tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Mục tiêu biện pháp
tuyên truyền, vận động quần chúng là nâng cao nhận thức của toàn xã hội về chủ
trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quản lý tài nguyên rừng,
vai trò của tài nguyên rừng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, về hậu quả
việc khai thác tài nguyên trái phép sẽ gây tác hại đến môi trường, đến tình hình trật
tự an toàn xã hội. Từ đó nâng cao ý thức tích cực, tự giác tham gia của toàn xã hội
vào phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng. Tuyên truyền vận động quần chúng còn có nhiệm vụ hướng dẫn quần
chúng tham gia vào phòng ngừa và đấu tranh hành vi khai thác, mua bán và vận
chuyển lâm sản trái phép. Biện pháp tuyên truyền vận động quần chúng phải có
hình thức và nội dung phù hợp. Tùy từng đặc điểm tình hình dân cư mà có biện
pháp tuyên truyền pháp luật thích hợp.
Hoạt động phòng ngừa xã hội đối với tội phạm vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ các biện pháp nêu trên. Hoạt
động phòng ngừa xã hội không chỉ do một cấp, một ngành, một lực lượng đảm
nhiệm mà nó phải tiến hành đồng bộ của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ
quan ban ngành có liên quan. Trong đó, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật
tự quản lý kinh tế và chức vụ có vai trò quan trọng trong việc tham mưu các biện
pháp phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
1.1.4.2. Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ.
Phòng ngừa nghiệp vụ là việc áp dụng đồng bộ các biện pháp, phương tiện;
lực lượng tham gia phải có sự thống nhất, nhằm loại bỏ nguyên nhân điều kiện đối
với từng đối tượng cụ thể, mà đối tượng cụ thể này có biểu hiện đang hoặc sẽ phạm
tội.
Hoạt động phòng nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật
tự quản lý kinh tế và chức vụ đối với tội phạm vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng được thực hiện qua các biện pháp công tác nghiệp vụ cụ thể như:
19
công tác điều tra cơ bản, sưu tra, xác minh hiềm nghi, xây dựng, sử dụng cộng tác
viên bí mật, đấu tranh chuyên án.
- Hoạt động điều tra cơ bản
Công tác điều tra cơ bản có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động
phòng ngừa các tội phạm về kinh tế nói chung và tội phạm vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng nói riêng
Thông qua công tác điều tra cơ bản, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ có được những thông tin toàn diện về các mặt liên
quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng. Đó là những thông tin khái quát tình hình chung, thông tin phản ánh
tình hình, đặc điểm của tuyến, địa bàn và đối tượng. Đây là những thông tin phản
ánh tính quy luật hoạt động của các đối tượng vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng, đồng thời cũng là những thông tin phản ánh quá trình tổ chức đấu
tranh phòng chống tội phạm này của các cấp, các ngành, các lực lượng trong đó có
lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ. Những
thông tin thu được qua công tác điều tra cơ bản, sau khi phân tích có tác dụng định
hướng cho hoạt động phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng như: xác định hệ đối tượng cần tập trung đấu tranh, tính chất đặc điểm
của tội phạm, những sơ hở thiếu sót trong công tác quản lý và những nguyên nhân
điều kiện làm nảy sinh tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Từ đó, làm cơ sở để lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế
và chức vụ đề ra biện pháp phòng ngừa cụ thể phù hợp, hiệu quả.
Công tác điều tra cơ bản là bước cơ bản mở đầu cho các hoạt động nghiệp
vụ của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ.
Hiệu quả công tác điều tra cơ bản sẽ hỗ trợ cho công tác sưu tra, xác minh hiềm
nghi và sử dụng cộng tác viên bí mật, đấu tranh chuyên án; thông qua đó tác động
đến hiệu quả của hoạt động phòng ngừa. Do đó, trong phòng ngừa tội phạm vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng không được coi nhẹ công tác điều
tra cơ bản mà phải chú trọng, tập trung chuyên sâu công tác này.
-Hoạt động sưu tra đối tượng
20
Sưu tra là việc điều tra nghiên cứu về những người có điều kiện khả năng
phạm tội hoặc có biểu hiện nghi vấn phạm tội. Công tác sưu tra đối tượng vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là việc tiến hành điều tra nghiên cứu về
người có khả năng, điều kiện hoặc có biểu hiện nghi vấn hoạt động khai thác, mua
bán và vận chuyển lâm sản trái phép nhằm chủ động nắm tình hình diễn biến hoạt
động của những người đó, chủ động phát hiện và ngăn chặn vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng. Đồng thời, tìm ra sơ hở thiếu sót trong quản lý Nhà
nước về khai thác và bảo vệ rừng để đề xuất những biện pháp đấu tranh ngăn chặn
tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có hiệu quả.
Đối tượng sưu tra về khai thác, mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép
được quy định trong danh mục đối tượng sưu tra về kinh tế. Đó là, những con
người cụ thể có điều kiện khả năng hoặc có biểu hiện nghi vấn khai thác, mua bán,
vận chuyển lâm sản trái phép thuộc các tuyến, địa bàn mà lực lượng Cảnh sát điều
tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ chú ý.
Nội dung công tác sưu tra đối tượng vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng là tiến hành các biện pháp nghiệp vụ nắm bắt về đối tượng sưu tra. Cụ
thể nắm bắt về lý lịch, nhân thân của đối tượng, quan hệ xã hội, gia đình, hoàn
cảnh kinh tế, nắm vững đặc điểm tâm lý, điều kiện khả năng của đối tượng có thể
dẫn đến hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Tiến hành phân
loại đối tượng sưu tra theo định kỳ, kịp thời phát hiện những hành hành vi vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, có biện pháp ngăn chặn thích hợp với
đặc điểm và mức độ biểu hiện hoạt động của từng đối tượng. Nắm bắt quy luật
hoạt động, thời gian, địa điểm diễn ra hoạt động khai thác, mua bán và vận chuyển
lâm sản trái phép. Qua công tác sưu tra đối tượng trong khai thác, mua bán và vận
chuyển lâm sản trái phép để tìm ra những sơ hở thiếu sót trong quản lý Nhà nước
về khai thác và bảo vệ rừng nói riêng, về kinh tế xã hội nói chung, tìm những
nguyên nhân, điều kiện cụ thể làm phát sinh, phát triển những hành vi khai thác,
mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép.
- Hoạt động xác minh hiềm nghi
21
Xác minh hiềm nghi về tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng là quá trình thu thập thông tin, tài liệu để làm rõ bản chất của vụ việc, biểu
hiện của con người, hiện tượng có dấu hiệu nghi vấn liên quan đến tội phạm vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Đối tượng của xác minh hiềm nghi về tội phạm vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng là người, là vụ việc và các hiện tượng. Đối tượng hiềm
nghi về người khai thác, huỷ hoại rừng, mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép
là người mà lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức
vụ có căn cứ nghi vấn về hoạt động khai thác, huỷ hoại rừng, mua bán và vận
chuyển lâm sản trái phép nhưng chưa có đủ căn cứ, tài liệu để kết luận ngay người
đó có phạm tội hay không. Đối tượng hiềm nghi là vụ việc, hiện tượng khai thác,
huỷ hoại, mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép; là những vụ việc và hiện
tượng xảy ra bất thường được nghi có biểu hiện hoạt động của các đối tượng khai
thác, huỷ hoại, mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép nhưng chưa đủ căn cứ để
kết luận vụ việc, hiện tượng đó có phải do hoạt động khai thác huỷ hoại, mua bán
và vận chuyển lâm sản trái phép gây ra hay không cần phải được xác minh làm rõ.
Mục đích của việc xác minh hiềm nghi về về khai thác, mua bán và vận chuyển
lâm sản trái phép là đưa ra các kết luận dứt khoát có hay không có hành vi về khai
thác, huỷ hoại rừng, mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép xảy ra, con người
nào thực hiện hành vi đó.
-Hoạt động xây dựng, sử dụng Cộng tác viên bí mật.
Hoạt động xây dựng và sử dụng Cộng tác viên bí mật (CTVBM) là một hoạt
động nghiệp vụ cơ bản quan trọng nhất trong phòng ngừa, chống tội phạm vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ. CTVBM phục vụ công tác phòng ngừa đấu
tranh chống tội phạm; cơ sở bí mật, đặc tình, cộng tác viên danh dự... được xây
dựng và sử dụng rộng rãi dưới sự điều khiển thống nhất của cán bộ trinh sát, các
lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ.
Việc xây dựng CTVBM phục vụ phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng phải đảm bảo yêu cầu nghiệp vụ của ngành. Sử dụng
22
CTVBM có khả năng đi sâu tìm hiểu được hoạt động của các đối tượng, tích cực
chủ động, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động tội phạm vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng ngay từ giai đoạn chuyển bị, để không gây ra hậu quả cho xã
hội.
Xây dựng và sử dụng CTVBM tập trung vào những người có khả năng, điều
kiện hoàn thành nhiệm vụ được giao. Như phải có khả năng trinh sát, khả năng tiếp
cận thu thập thông tin theo yêu cầu cán bộ trinh sát, hiểu biết về lĩnh quản lý, khai
thác và bảo vệ rừng, hoạt động khai thác, mua bán và vận chuyển lâm sản trái
phép, có ý thức tổ chức kỷ luật, biết giữ gìn bí mật.
1.1.5. Mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, với các cơ quan chức năng trong phòng
ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
Xuất phát từ quan điểm phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong phòng ngừa tội phạm nói
chung, trong phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng nói riêng không chỉ với một lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
quản lý kinh tế và chức vụ mà còn phải tiến hành với các lực lượng, các cơ quan
chức năng khác cũng là chủ thể đấu tranh với loại tội phạm này.
Một trong những điều kiện cần thiết để hoạt động phòng ngừa tội phạm vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có hiệu quả là phải thường xuyên
phối hợp hoạt động của các chủ thể phòng ngừa tội phạm, sự tham gia của các
ngành, các lực lượng trong xã hội trong đó lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ là lòng cốt.
Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
chủ động thiết lập, duy trì phát huy sức mạnh tổng hợp thông qua công tác tuyên
truyền, ký kết văn bản phân công nhiệm vụ và trách nhiệm của các ngành, các cấp,
định kỳ có kế hoạch giao ban tổng kết nhằm kịp thời khắc phục những hạn chế,
thiếu sót trong thực hiện nhiệm vụ phối hợp phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng. Bên cạnh đó lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của mình chủ
23
động tham mưu, hướng dẫn các ngành, các cấp, cơ quan, tổ chức tiến hành loại trừ
các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng.
Quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý
kinh tế và chức vụ với các cơ quan chuyên ngành trong phòng ngừa vi tội phạm vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là quan hệ mang tính pháp lý, được
thực hiện dựa trên cơ sở pháp luật và yêu cầu của thực tiễn công tác phòng ngừa
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Mối quan hệ phối hợp là cơ sở, điều kiện để kết hợp hài hoà giữa các biện
pháp trinh sát với biện pháp công khai, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong phòng
ngừa tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Cụ thể lực lượng phối hợp:
- Phối hợp với các cơ quan, lực lượng ngoài ngành như: Chi cục Quản lý thị
trường, Sở tài nguyên môi trường, Kiểm lâm, Thanh tra giao thông.
- Phối hợp với các lực lượng trong ngành như : Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự xã hội, Cảnh sát 113, Công an phụ trách xã, Cảnh sát giao thông, Lực lượng
kỹ thuật hình sự, Lực lượng An ninh kinh tế, Lực lượng Cảnh sát quản lý hồ sơ,
thông tin nghiệp vụ cảnh sát. Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của từng chủ thể
phối hợp, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
xác định nội dung và phương pháp phối hợp, hình thức phối hợp.
- Nội dung phối hợp:
+ Phối hợp trong việc thực hiện các biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp
luật, vận động quần chúng chấp hành các quy định của pháp luật khai thác và bảo
vệ rừng.
+ Phối hợp trong thực hiện các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ đối với các
hành vi vi phạm về khai thác, mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép. Phối hợp
trong tiến hành các hoạt động nghiệp vụ chuyên sâu như: điều tra cơ bản, sưu tra
và xác minh hiềm nghi.
+ Phối hợp trong điều tra nghiên cứu, trao đổi thông tin, nắm tình hình, thu
thập tài liệu và cung cấp thông tin về tình hình vi phạm các vi phạm các quy định
24
về khai thác và bảo vệ rừng. Chủ trương đường lối chính sách quy định của các
ngành chức năng về quản lý nhà nước về pháp luật nói chung và những quy định
của pháp luật về khai thác và bảo vệ rằng nói riêng.
+ Phối hợp trong kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn, xử lý VPPL nói chung và
những vi phạm trong quản lý khai thác và bảo vệ rừng nói riêng.
+ Phối hợp hỗ trợ trong việc bảo vệ, tăng cường lực lượng, các biện pháp,
phương tiện trong xử lý các vụ việc có tính chất phức tạp.
+ Phối hợp trong tiến hành các hoạt động hoạt động hành chính công khai;
Điều tra cơ bản, bắt, tạm giữ đối tượng, tang vật phương tiện vi phạm... Đây là
những nội dung cơ bản mà quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ với các cơ quan chuyên ngành cần phải
thực hiện trong quá trình tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
1.2.CƠ SỞ CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ
1.2.1. Các văn bản của Trung ương liên quan đến công tác phòng ngừa
tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
- Luật Bảo Vệ Phát Triển Rừng năm 2004.
- Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 được Quốc hội ban hành
năm 2012, có hiệu lực từ ngày 01/07/2013, quy định về xử phạt hành chính và các
biện pháp xử lý hành chính.
- Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ Quy định
xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng,phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản
lý lâm sản.
- Nghị định 74/2010/NĐ-CP ngày 12/07/2010 của Chính phủ quy định về
phối hợp hoạt động giữa lực lượng dân quân tự vệ với lực lượng công an xã,
phường, thị trấn, lực lượng kiểm lâm và các lực lượng khác trong công tác giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự.
- Nghị định số 48/2007/NĐ-CP về nguyên tắc và phương pháp xác định giá
các loại rừng.
25