A.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn Đề án
1.1.Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực, ăn sâu bám rễ trong
mọi chế độ xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, nước giàu hay nghèo, phát
triển hay kém phát triển. Một số nơi trên thế giới, tham nhũng làm suy kiệt cơ
thể xã hội, gây xáo trộn, mất ổn định chính trị. Phòng, chống tham nhũng là
công việc khó khăn, phức tạp, cần sự quyết liệt và kiên trì, là chính sách ưu tiên
của nhiều quốc gia và sự nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế.
Qua 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những
thành tự to lớn về mọi mặt. Những kết quả đạt được từ việc đổi mới hệ thống
chính trị, cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn
thiện hệ thống pháp luật và hội nhập quốc tế tạo tiền đề quan trọng cho việc thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Trong đó việc thực hiện công tác
phòng, chống tham nhũng đã góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, công
chức, nhân dân về tác hại của tham nhũng; công tác phòng, chống tham nhũng
đã đạt được những kết quả quan trọng, có những chuyển biến đáng ghi nhận trên
các phương diện xây dựng thể chế, công khai minh bạch trong hoạt động của
các cơ quan, tổ chức, đơn vị, xây dựng thục hiện tiêu chuẩn, chế độ định mức;
kiểm soát hiệu quả hơn việc sử dụng tài sản công....Việc tăng cường chỉ đạo,
phát hiện, điều tra xử lý các vụ án tham nhũng lớn được công luận đồng tình ủng
hộ, qua đó đã có tác dụng răng đe, góp phần ngăn chặn các hành vi tham nhũng,
bảo đảo duy trì trật tự, kỷ cương xã hội bước đầu củng cố niềm tin của nhân dân
vào vai trò lãnh đạo của Đảng, nhà nước đối với công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng.
Tuy nhiên cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, công tác phòng chống
tham nhũng chưa đạt mục tiêu và yêu cầu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi
tham nhũng. Tham nhũng không hề giảm bớt mà trái lại, dường như còn trầm
trọng hơn, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp diễn ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều
cấp, nhiều ngành, gây bức xúc, bất bình trong xã hội, là thách thức lớn đối với
1
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Tham những đang trở thành
nguy cơ chính đe dọa sự ổn định chính trị, sự tồn vong của chế độ, trật tự và an
toàn xã hội, xói mòn các thể chế, các giá trị dân chủ, các giá trị đạo đức, công lý
trong xã hội và cản trở đến việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, cũng
như là một trong những nguyên nhân tạo nên sự mất ổn định của đất nước chúng
ta. Tham nhũng tồn tại dưới nhiều dạng hành vi khác nhau, tham nhũng đã lan
tràn khắp nơi: Giáo dục, y tế, công – nông nghiệp, thương mại, giao thông vận
tải, tài nguyên, môi trường, thể thao văn hóa, thuế, hải quan, đầu tư, xây dựng
và bổ nhiệm cán bộ... Bất cứ cá nhân hay tập thể, hễ có chức, có quyền, khi
muốn, đều có thể lợi dụng chức vụ để trục lợi bất chính và để lại những hậu
quả nặng nề cho xã hội. Cùng với xu thế mở của và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng cũng tạo cơ hội phát sinh những vụ việc tham nhũng ngày càng tinh
vi, khó phát hiện do có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài.
Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đẩy mạnh các
hoạt động phòng, chống tham nhũng, từ xây dựng và hoàn thiện chính sách,
pháp luật đến việc chỉ đạo triển khai thực hiện công tác đấu tranh, phòng, chống
tham nhũng. Ban Chấp hành Trung ương khóa X, ngay đầu nhiệm kỳ đã ban
hành Nghị quyết Trung ương 3 về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Quốc hội
ban hành Luật phòng, chống tham nhũng; Đại hội lần thứ XI (nhiệm kỳ 20112015) Đảng ta khẳng định: Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm; Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI) xác định: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí ... Kiện toàn và tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu quả
hoạt động của cơ quan phòng, chống tham nhũng. Xét xử nghiêm những vụ án
tham nhũng, trước hết là những vụ nghiêm trọng, phức tạp, được nhân dân
quan tâm”; Nhà nước ta phê chuẩn Công ước Liên Hiệp quốc về phòng, chống
tham nhũng; Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham
nhũng đến năm 2020; ngoài ra, Chính phủ, các bộ ngành ở Trung ương và chính
quyền các địa phương đã ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật, chương
2
trình hành động để triển khai thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng,...
1.2.Nam Đông là một huyện mền núi nằm về phía Tây - Nam của tỉnh
Thừa Thiên Huế; có diện tích tự nhiên là 647,8 km2 chiếm 12,87% diện tích tự
nhiên toàn tỉnh Thừa Thiên Huế, dân số năm 2014 có 25.468 người, gồm hai dân
tộc Kinh và Cơ Tu cùng sinh sống, trong đó người người dân tộc thiểu số chiếm
41%, mật độ dân số 38,7 người/km 2. Toàn huyện có 10 xã và 01 thị trấn, thị
trấn Khe Tre là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội của huyện Nam
Đông, cách thành Phố Huế 50km. Địa bàn huyện là một thung lũng phía Đông
dãy Trường Sơn, có chiều dài 37km, nơi rộng nhất là 27km, hẹp nhất là 14km.
Phía Tây giáp huyện A Lưới, phía Đông giáp huyện Phú Lộc, phía Nam giáp
tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, phía Bắc giáp thị xã Hương Thủy. Nam
Đông có các thác nước đẹp (thác Mơ, thác Trượt), lễ hội truyền thống (lễ hội
đâm trâu) và di sản văn hóa đặc sắc của các dân tộc (nhà Gươl ), di tích lịch sử
kháng chiến (căn cứ địa của Tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế); có tài nguyên khoáng
sản (đá vôi, đá granit, đá pirit); Nam Đông là huyện đầu tiên của tỉnh Thừa
Thiên Huế được phong tặng danh hiệu Anh hùng trong thời kỳ đổi mới. Với yếu
tố địa lý-kinh tế nêu trên, Nam Đông được đánh giá là một trong những huyện
có điều kiện khá thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi kinh tế, văn hóa với các
huyện trong tỉnh, với các địa phương khác trong vùng và cả nước. Thời gian qua,
mặc dù trong điều kiện gặp nhiều khó khăn và thách thức như thiên tai khắc
nghiệt, một số dịch bệnh mới xuất hiện; tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu, song
nhờ sự nỗ lực phấn đấu, phát huy nội lực, đoàn kết nhất trí, kết hợp sức mạnh của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong huyện, đặc biệt có sự giúp đỡ của Trung
ương, của tỉnh, của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài huyện, tình hình kinh tếxã hội huyện Nam Đông vẫn tạo được những chuyển biến tích cực, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư kiến cố và
từng bước theo hướng đồng bộ; các ngành, lĩnh vực đều phát triển; văn hoá, xã
hội có tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện, giảm hộ nghèo, bộ mặt nông
thôn có nhiều khởi sắc; quốc phòng, an ninh được giữ vững....
Trong thời gian qua, được sự quan tâm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, cùng sự
3
nỗ lực của cấp ủy, chính quyền và sự sự ủng hộ của nhân dân trong quá trình
triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa cùng với đấu tranh mạnh mẽ, xử
lý kiên quyết các hành vi tham nhũng về cả hành chính và hình sự nên tình
hình tham nhũng trên địa bàn huyện đã có tác động tích cực, tạo ra chuyển biến
bước đầu trên một số lĩnh vực công tác, tham nhũng đã có bước được kiềm
chế; người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương bước đầu đã thể hiện vai
trò trách nhiệm của mình trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phòng, chống tham
nhũng ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế thời gian qua còn bộc lộ hạn
chế, yếu kém, đó là: tình hình tham nhũng vẫn còn diễn biến phức tạp với
nhiều thủ đoạn tinh vi, khó phát hiện, diễn ra trên nhiều lĩnh vực như: đất đai,
quản lý và sử dụng tài sản công, đầu tư xây dựng, giao dịch hành chính, tuyển
dụng cán bộ công chức, viên chức vẫn còn diễn biến phức tạp, gây bức xúc
trong nhân dân và doanh nghiệp,...
Tình hình trên, nếu không được ngăn chặn, kìm chế kịp thời sẽ trực tiếp
tác động đến sự phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội địa phương, làm giảm
sút hình ảnh của địa phương trong con mắt của các nhà đầu tư muốn đầu tư làm
ăn tại huyện. Nghiêm trọng hơn, nếu tham nhũng không được ngăn chặn sẽ làm
suy yếu bộ máy chính quyền, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước
sẽ bị giảm sút, đe dọa đến sự tồn vong của chế độ.
Vì vậy, việc xây dựng Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác phòng chống
tham nhũng ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế” là hết sức cần thiết và
cấp bách trong nhiệm vụ phòng chống tham nhũng hiện nay, để thực hiện có
hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, Chiến lược quốc gia về phòng,
chống tham nhũng đến năm 2020 trên địa bàn huyện Nam Đông, tỉnh Thừa
Thiên Huế. Với những giải pháp tích cực, thiết thực mà đề án đưa ra sẽ giúp cho
cấp ủy và chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa
phương vận dụng để thực hiện có kết quả công tác phòng, chống tham nhũng
trong từng cơ quan, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
4
2. Mục đích, nhiệm vụ của Đề án
2.1. Mục đích
Góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng ở huyện
Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế
2.2. Nhiệm vụ
-Đề án hệ thống hóa những vấn đề cơ bản, cốt lõi về lý luận, chính trị pháp lý, thực tiễn về công tác phòng chống tham nhũng
-Phân tích thực trạng công tác phòng chống tham nhũng ở huyện Nam
Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế thời gian qua
-Đề xuất các giải pháp thực hiện hiệu quả hơn công tác phòng, chống tham
nhũng góp phần từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, tiêu cực,
lãng phí ở từng cơ quan, đơn vị địa phương mình, củng cố lòng tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo đúng đắng của Đảng ta trong tình hình mới.
-Tổ chức thực hiện Đề án
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Đề án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề án tập trung nghiên cứu việc triển khai, thực hiện công tác phòng,
chống tham nhũng của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-Không gian: Huyện Nam Đông tỉnh Thừa Thiên Huế
-Thời gian: Đề án đánh giá công tác phòng chống tham nhũng của huyện
Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2011 -2014, đề xuất giải pháp đến
2020.
4.Ý nghĩa của đề án
Với những giải pháp Đề án đưa ra sẽ góp phần giúp cho cấp ủy và chính
quyền, đặc biệt là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương vận dụng để
thực hiện có kết quả công tác phòng, chống tham nhũng trong từng cơ quan, đơn
vị do mình quản lý, phụ trách.
5.Kết cấu đề án
5
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và kiến nghị, Danh mục tài liệu tham
khảo, Nội dung cơ bản của Đề án gồm 4 phần:
- Phần thứ nhất: Cơ sở lí luận, cơ sở chính trị - pháp lí và cơ sở thực tiễn
về công tác phòng chống tham nhũng ở Huyện Nam Đông, Tỉnh Thừa Thiên
Huế
- Phần thứ hai: Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng ở Huyện Nam Đông, Tỉnh Thừa
Thiên Huếtrong thời gian tới.
- Phần thứ ba: Tổ chức thực hiện Đề án
- Phần thứ 4: Dự kiến kết quả
6
B.NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ
VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM
NHŨNG Ở HUYỆN NAM ĐÔNG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng đã và đang xảy ra phổ biến trong xã hội, trở
thành quốc nạn chung của các quốc gia, làm tổn hại đến chính phủ, làm mất uy tín của
cơ quan công quyền và có ảnh hưởng rất lớn đối với người nghèo.
Theo Điều 1 của Pháp lệnh phòng chống tham nhũng số 03/1998/PLUBTVQH10, ngày 26/02/1998: Tham nhũng là “hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm
trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể
và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”. [ , tr ]
CHÚ THÍCH THEO QUY ĐỊNH
Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 qui định:“Tham nhũng là hành
vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó vì vụ
lợi”. [ , tr ] CHÚ THÍCH THEO QUY ĐỊNH
Theo từ điển Luật học Việt Nam năm 2006: “Tham nhũng là hành vi lợi
dụng chức vụ quyền hạn hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt hại cho
tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ
quan, tổ chức”. [ , tr ] CHÚ THÍCH THEO QUY ĐỊNH
Đây là một khái niệm tương đối bao quát, đủ để xác định bản chất của
hành vi tham nhũng phổ biến trong xã hội Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Nguồn gốc tham nhũng
Tham nhũng xuất hiện từ rất sớm từ khi có sự phân chia quyền lực và hình
thành nhà nước. Có ý kiến cho rằng tham nhũng bắt nguồn từ nền văn hóa độc
tài đề cao cá nhân, coi trọng biếu xén. Ý kiến khác cho rằng: xã hội thay đổi các
chuẩn mực về đạo đức, xã hội biến đổi liên tục, nền kinh tế biến đổi mạnh sinh
7
ra tham nhũng.
Tham nhũng thường xuất hiện nhiều hơn từ các nước có nền kinh tế kém
phát triển hoặc có mức thu nhập bình quân đầu người thấp. Tại các nước này
con người thường có ý đồ nắm các cương vị cao trong hàng ngũ lãnh đạo để
tham nhũng. Đối với một số nước kinh tế phát triển, có mức thu nhập bình quân
đầu người cao, các cá nhân có sở hữu tài sản lớn mới bắt đầu tham gia chính
trường để làm lãnh đạo.
Tham nhũng là căn bệnh muôn thuở, và cội nguồn của nó là thuộc tính tự
nhiên của con người. Khi xây dựng một lý luận, một tiêu chuẩn trong lĩnh vực tư
tưởng hay đạo đức xã hội, một khuynh hướng thường thấy là người ta không
hoặc cố tình không nhìn nhận những gì đang tồn tại trong thực tế với đầy đủ các
khuyết tật tự nhiên của nó. Nếu nhìn nhận một cách tỉnh táo, chúng ta không thể
không thừa nhận sự tồn tại của những mặt khuyết tật, cái mà chúng ta thường
gọi là các căn bệnh xã hội. Trong vấn đề đang nghiên cứu, chúng ta buộc phải
thừa nhận rằng tham nhũng tồn tại trong mọi xã hội. Mọi thời đại, mọi hệ thống
chính trị và mọi dân tộc ở mọi nơi trên thế giới đều phải đối mặt với tham nhũng
với nhiều biến thái tinh vi. Thậm chí nếu nhìn nhận một cách nghiêm khắc,
người ta sẽ thấy rằng tham nhũng còn diễn ra dưới cả các mái nhà ít nhiều yên
ấm, nơi các bậc gia trưởng dựa vào quyền của mình để phân phối vật chất và
tinh thần một cách không bình đẳng.
Mặc dù là một hiện tượng muôn thuở, tham nhũng ở mỗi quốc gia, mỗi
thời đại lịch sử, chịu tác động của những nhân tố kinh tế - chính trị - xã hội khác
nhau. Để chống tham nhũng hiệu quả cần phải dựa trên cơ sở phân tích khoa học
những nhân tố đó. Dưới đây đưa ra những phân tích sơ bộ:
1.1.2.1. Về mặt chính trị, tham nhũng là kết quả của hệ thống chính trị
thiếu khả năng tự kiểm soát.
Một hệ thống chính trị không xây dựng được các tiêu chuẩn, không tự
kiểm soát được, để cho quyền lực bị đánh cắp đại trà trên quy mô xã hội, dưới
mọi hình thức, mọi mức độ sẽ tạo cơ hội tốt cho tham nhũng phát triển. Hệ
thống chính trị thiếu khả năng tự kiểm soát sẽ làm xuất hiện sự nhập nhằng
8
trong nhận thức và những cơ cấu không được pháp chế hóa. Tất cả những yếu tố
này giải thích tại sao trong thời đại chúng ta, tham nhũng lại nở rộ tại những
quốc gia có nền chính trị không chuyên nghiệp, hay nói một cách giản dị, tại
những quốc gia trong đó nền chính trị tuột khỏi tầm kiểm soát của xã hội.
Tham nhũng là kết quả của tình trạng thiếu dân chủ trong sinh hoạt chính
trị. Tham nhũng gắn liền với bản chất con người, nhưng không phải bất kỳ ai
cũng tham nhũng và cũng có thể tham nhũng. Để tham nhũng phải có quyền
hoặc quyền lực. Ngoài ra, tham nhũng phụ thuộc vào các cơ chế xã hội có nhiệm
vụ ức chế hành vi tham nhũng.
Khi một quốc gia lâm vào tình trạng thiếu dân chủ trong sinh hoạt chính
trị, những người thoát khỏi sự ức chế của các cơ chế xã hội sẽ lợi dụng, lạm
dụng quyền lực, địa vị, uy tín xã hội để thực hiện hành vi tham nhũng. Cùng với
tình trạng thiếu dân chủ trong sinh hoạt chính trị, sự thiếu công khai trong đời
sống chính trị cũng tạo ra không gian đen tối cho hiện tượng tham nhũng phát
sinh và phát triển.
1.1.2.2. Về mặt kinh tế, Tham nhũng là hậu quả của môi trường kinh tế
thiếu minh bạch
Môi trường kinh tế thiếu minh bạch là mảnh đất tốt cho các hành vi tham
nhũng sinh sôi nảy nở. Điều này lý giải tại sao tham nhũng tại các nước đang
phát triển trầm trọng hơn nhiều so với các nước phát triển, nơi có môi trường
kinh tế minh bạch hơn. Tại những nước có môi trường kinh tế kém minh bạch,
việc trốn thuế diễn ra tràn lan, lý do đơn giản là tại đó hành vi này dễ dàng thực
hiện trót lọt hơn tại các quốc gia khác.
Trong môi trường kinh tế thiếu minh bạch, sự can thiệp thái quá và nhiều
khi thô bạo của các cơ quan nhà nước vào hoạt động kinh doanh làm méo mó
các quan hệ kinh tế - xã hội. Đó là tình trạng thích hợp, là cơ hội vàng để các
quan tham dễ bề trục lợi.
1.1.2.3. Về mặt Nhà nước, tham nhũng là con đẻ của những thể chế
tồn tại bất hợp lý và bị độc quyền lũng đoạn.
Chúng ta đã thấy tham nhũng phát triển cả về hình thức lẫn quy mô cùng
9
với sự phát triển của xã hội, nhưng điều đó không có nghĩa là có một sự tương
quan tỷ lệ nào đó giữa tham nhũng và phát triển. Quy mô tham nhũng lệ thuộc
nhiều vào tính chất của thể chế nhà nước. Chẳng hạn tại các quốc gia nghèo khổ
Châu Phi, nơi tập trung nhiều thể chế lạc hậu và phi dân chủ, các quyền lực nhà
nước, quyền lực chính trị bị phân chia một các tùy tiện hoặc không được bảo vệ
và sử dụng cẩn trọng, tức là các quyền lực này dễ bị tham nhũng để mở đường
cho nạn tham nhũng tràn lan trong xã hội. Các thể chế này không đủ năng lực để
tự kiểm soát, nhưng lại ra sức ngăn cản việc xây dựng một thể chế mới có thể
quản lý xã hội hữu hiệu hơn. Tình trạng bất hợp lý của thể chế có thể thấy rõ ở
những quốc gia mà một bộ phận nhân lực quan trọng của nó được trả lương quá
thấp so với nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Thể chế bất hợp lý đã buộc nhiều
người phải tham nhũng để sống, để tồn tại.
1.1.2.4. Về mặt pháp luật, tham nhũng là kết quả của tình trạng các
quyền và lợi ích cá nhân bị hạn chế hoặc chưa được hợp pháp hóa
Khi quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân bị hạn chế không được hợp
pháp hóa đã đẩy nhiều người vào vòng xoáy tham nhũng để thỏa mãn các khát
vọng thật ra là chính đáng của họ. Điều nguy hiểm là ở chỗ tình trạng này sẽ tạo
ra sự nhập nhằng về nhận thức. Việc thay thế các quy định của pháp luật bằng
những thỏa thuận ngầm trên quy mô xã hội hoặc đạo đức xã hội khiến các nhóm
lợi ích luôn chèn ép, chen lấn lẫn nhau trên cùng một cá nhân. Nếu chúng ta tạo
cho cá nhân một không gian sống tốt, nếu chúng ta hợp pháp hóa các quyền cá
nhân chính đáng để mỗi cá nhân có thể phát huy tối đa sức sống, sức sáng tạo
của họ trong khuôn khổ pháp luật, chắc chắn rất nhiều người bình thường sẽ
sống và ứng xử theo những chuẩn mực được chấp nhận rộng rãi trong xã hội.
1.1.2.5. Về mặt văn hóa xã hội, tham nhũng bắt nguồn từ sự đạo đức
giả của hệ thống chinh trị - xã hội.
Hệ thống xã hội được xây dựng trên nền tảng đạo đức giả này đã đẩy
nhiều người phải sống với bộ mặt giả tạo. Chẳng hạn, việc trả công chủ yếu
không theo hình thức tiền lương mà dưới hình thức các tiêu chuẩn hưởng thụ là
cơ sở kinh tế của một lối sống đạo đức giả. Một ví dụ khác có thể thấy ở nhiều
10
nền kinh tế chuyển đổi, khi người ta thủ tiêu chế độ đặc quyền đặc lợi, nhưng lại
không có biện pháp cân bằng các lợi ích bị đột ngột xóa đi ấy, dẫn đến kết quả là
một số người tìm đến những biện pháp phi pháp để giành lại những gì đã mất.
Với cách nhìn như vậy, chúng ta thấy rằng đôi khi các vị quan tham vừa là
thủ phạm, vừa là nạn nhân của một hệ thống xã hội xa lạ với bản chất con người.
Tham nhũng còn được hỗ trợ bởi những yếu tố tiêu cực trong nền văn hóa, chẳng
hạn tính gia trưởng vốn là một đặc điểm rất rõ nét tại nhiều nước Châu Á.
1.1.2.6. Về mặt nhân văn, tham nhũng là hậu quả của quan niệm lệch
lạc và thái độ thiếu tôn trọng các giá trị cá nhân.
Các giá trị cá nhân không được tôn trọng sẽ dẫn đến sự xâm hại các giá trị
công cộng. Điều này có vẻ ngược đời nhưng thực ra rất hợp lô gích. Trên thực
tế, việc chống chủ nghĩa cá nhân một cách thái quá luôn luôn dẫn đến một tình
trạng cực đoan trong đời sống tinh thần của xã hội. Tâm lý xem nhẹ, nếu không
muốn nói là bài bác các giá trị cá nhân khiến người ta tìm mọi cách tối thiểu hóa
không gian sống của cá nhân, làm cho con người thiếu ý thức trách nhiệm về
hành vi của mình, dễ dàng bằng lòng với thực tại, dễ dàng tham nhũng, tiếp tay
hoặc ít nhất là mặc nhiên thừa nhận tham nhũng. Sự ngộ nhận về giá trị cá nhân
và giá trị tập thể còn dẫn đến cả hiện tượng tham nhũng mang tính tập thể, nghĩa
là có sự kết cấu, đồng tình để tiến hành hành vi tham nhũng trên quy mô lớn
hơn. Đó là gì nếu không phải là mầm mống của tội phạm có tổ chức? Còn nếu
cá nhân nào không chịu tham nhũng, họ sẽ không còn là người của tập thể, họ sẽ
bị loại khỏi cuộc chơi. Điều này giải thích tại sao tham nhũng tại những nước có
sự nhìn nhận sai lạc về cá nhân và tập thể lại càng trầm trọng và khó đẩy lùi hơn
nhiều nước khác.
1.1.3. Các hình thức tham nhũng
1.1.3.1. Nhìn nhận dưới góc độ kinh tế
Tham nhũng gắn với những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến những hoạt
động kinh tế, tài chính ở khu vực công như mua sắm công, xây dựng các công
trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội sử dụng vốn ngân sách. Ở những lĩnh vực
này, tham nhũng thường là việc lợi dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý, điều
11
hành, nhưng cũng có liên quan đến sự chi phối của yếu tố quyền lực, tạo nên
nhiều cách “bòn rút” công quỹ, hệ quả của loại hình tham nhũng này thường là
làm giảm hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng,
hạn chế số lượng các dịch vụ công cộng được cung cấp, qua đó tác động nhiều
mặt đến phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Tham nhũng xuất hiện dưới dạng lợi dụng sức mạnh “quyền lực” để
mưu toan lợi ích kinh tế cho cá nhân hoặc cho một nhóm người nhất định.
Hành vi này thường xảy ra ở những cơ quan công quyền và được thực hiện
bởi những người nắm quyền lãnh đạo, điều hành các cơ quan công quyền,
hoặc có ảnh hưởng quyết định đến các thiết chế vận hành của hệ thống.
Thông thường, với loại hình tham nhũng này, cái mất trước mắt là thiệt hại
kinh tế cho mục tiêu, chiến lược phát triển chung của cộng đồng, nhưng
nguy hại hơn là làm mất lòng tin của người dân đối với bộ máy lãnh đạo,
đối với chủ trương, đường lối của bộ máy Nhà nước và điều đó nếu để phát
triển rộng, thì nguy cơ mất ổn định xã hội là khá rõ ràng và định hướng xã
hội chủ nghĩa có lẽ chỉ còn là ước nguyện xa vời.
1.1.3.2. Nhìn nhận dưới góc độ chính trị
Tham nhũng qua việc bổ nhiệm hay bầu chọn quan chức thông thường
được thực hiện dưới hình thức người có quyền lực chính trị cao hơn, tạo ra các
cơ hội, các ưu tiên riêng cho các đối tượng họ muốn được lựa chọn, để có được
những đặc ân này, các đối tượng được lựa chọn phải “chăm lo” cho các quan
chức cấp trên dưới nhiều hình thức quà biếu, quà tặng hay những cơ hội có
tiền, có lợi khác nhau và hứa hẹn tiếp tục duy trì nguồn lợi này cho người tiến
cử khi đã được đắc cử. Có thể nói, về mặt chính trị xã hội, thiệt hại và nguy
hại lại vô cùng lớn bởi loại hình tham nhũng này vô hình chung đang tiếp tay
tạo dựng một xã hội phe phái, cơ hội. Điều này đồng nghĩa với việc hình thành
những mâu thuẫn xã hội, tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn chính trị và rối ren hệ
thống chính trị xã hội và như vậy nhân tố tiêu cực sẽ chi phối, điều chỉnh các
hành vi xã hội.
1.1.4. Đối tượng tham nhũng và các hành vi tham nhũng
12
1.1.4.1. Đối tượng tham nhũng
Theo quan điểm chung, đối tượng tham nhũng phải là người có chức vụ,
quyền hạn trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức, đơn vị
khác theo quy định của pháp luật.
Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 quy định 04 nhóm người có
chức vụ, quyền hạn bao gồm:
a. Cán bộ, công chức, viên chức;
b. Sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ
quan, hạ sỹ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan đơn vị thuộc Công an
nhân dân;
c. Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh
đạo, quản lý người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;
d. Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi
thực hiện nhiệm vụ công vụ đó.
Nhóm thứ nhất nêu tại điểm a là cán bộ, công chức, viên chức được quy
định cụ thể trong Luật cán bộ, công chức năm 2010. Đây là nhóm đối tượng chủ
yếu, chiếm tỷ lệ lớn về số lượng trong số người có chức vụ, quyền hạn thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, cán bộ,
công chức, viên chức cũng là nhóm đối tượng thường nắm giữ những vị trí,
công việc liên quan đến vốn, tài sản nhà nước hoặc tiếp xúc trực tiếp, giải quyết
công việc của công dân, doanh nghiệp, có nhiều cơ hội để thực hiện hành vi
tham nhũng nên cần được thể chế hóa và giám sát chặt chẽ để giảm thiểu nguy
cơ tham nhũng.
Nhóm thứ hai gồm những người có chức vụ, quyền hạn nêu tại điểm b là
nhóm đối tượng có địa vị pháp lý tương đối đặc thù, thuộc các lực lượng vũ
trang nhân dân và được quy định cụ thể tại Luật Quốc phòng và Luật Công an
nhân dân.
Nhóm thứ ba nêu tại điểm c có thể được chia thành hai loại: thứ nhất,
những cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước, theo đó,
13
doanh nghiệp của Nhà nước được hiểu là doanh nghiệp một trăm phần trăm vốn
Nhà nước; thứ hai, cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của
Nhà nước tại các doanh nghiệp khác.
Nhóm thứ tư là những người nêu tại điểm d cũng đã được quy định là
người được giao nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm
vụ, công vụ đó cũng được coi là người có chức vụ, quyền hạn và thuộc phạm
vi điều chỉnh của Luật Phòng chống tham nhũng.
1.1.4.2. Các hành vi tham nhũng
Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Người có chức vụ là người do bổ
nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương
hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có
quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”.
Luật Phòng chống tham nhũng đã quy định bổ sung người có chức vụ
quyền hạn còn bao gồm: "Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có
quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”, nghĩa là khái niệm chức
vụ, quyền hạn được mở rộng không chỉ trong phạm vi thực hiện công vụ, mà
còn cả trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Theo Điều 3 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 thì các hành vi sau
đây là hành vi tham nhũng: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì
vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi;
Giả mạo trong công tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi
người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn
vị hoặc địa phương vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài
sản của Nhà nước vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Không thực hiện nhiệm vụ,
công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành
vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
1.1.5. Nguyên nhân tham nhũng
14
Trong thời gian qua cuộc đấu tranh tham nhũng của Đảng và Nhân dân ta
diễn ra rất quyết liệt và đã thu được kết quả bước đầu song đến nay có thể nói nạn
tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi một cách cơ bản. Tình hình vẫn diễn ra phức
tạp, có nơi có chiều hướng gia tăng với những thủ đoạn hết sức tinh vi, có trường
hợp câu kết, móc nối ngang dọc giữa các phần tử thoái hoá biến chất trong các cơ
quan Nhà nước và ngoài xã hội, rất khó phát hiện làm cho cuộc đấu tranh chống
tham nhũng hết sức khó khăn. Vậy do những nguyên nhân chủ yếu nào?
Nguyên nhân đầu tiên có tính sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột
người sinh ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là
những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư tự lợi, ích kỷ hại nhân mà ra, nó
do chế độ người bóc lột người mà ra”. Một đặc điểm nổi bật của sự vận động xã
hội, khác với mọi sự vận động vật chất khác trong giới tự nhiên ở chỗ con người
hành động đều tính đến lợi ích hoặc mục đích. Mọi hành vi tham nhũng đều là
nhằm thực hiện một mục đích tư lợi ích kỷ nào đó. Bởi vậy chế độ tư hữu chính
là cơ sở tư tưởng của các hành vi tham nhũng. Không có tư tưởng tư lợi ích kỷ
sẽ không có tham nhũng thiệt người lợi mình.
Nguyên nhân thứ hai, do không ít cấp ủy, tổ chức đảng chính quyền và
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa thực hiện tốt trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Năng lực và sức chiến
đấu của nhiều tổ chức cơ sở đảng còn mờ nhạt, yếu kém.
Nguyên nhân thứ ba, do cơ chế chính sách về kinh tế - xã hội trên nhiều
lĩnh vực vẫn còn sơ hở, bất cập, một số quy định thiếu nhất quán, thiếu chặt chẽ,
vẫn còn tình trạng "Xin - cho".
Nguyên nhân thứ tư, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành,
kể cả cấp trung ương chưa chưa nêu gương về đạo đức, lối sống, giảm sút sức
chiến đấu và thiếu kiên quyết phòng chống tham nhũng lãng phí mà còn kéo bè
kéo cánh của các giới nắm giữ guồng máy quyền lực, họ bao che nhau, họ ủng
hộ và chạy tội cho nhau, đây là một thực tế đang sảy ra ở rất nhiều nước.
Nguyên nhân thứ năm, bản chất của nền kinh tế thị trường, của việc tự do
hoá cạnh tranh đã tạo ra.
15
Nguyên nhân thứ sáu, nhiều nơi việc thực hiện, chấp hành các quy định về
phòng ngừa tham nhũng không nghiêm, còn mang tính chiếu lệ, hình thức. Sự
tham gia, giám sát của các cơ quan dân cử, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các
Đoàn thể và của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ.
Nguyên nhân thứ bảy, do tổ chức và hoạt động của cơ quan, đơn vị chuyên
trách về phòng chống tham nhũng chưa đủ mạnh, có mặt chưa hợp lý.
1.1.6. Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể khái quát những tác hại chủ yếu của tham
nhũng ở những điểm chính sau:
1.1.6.1. Tác hại về chính trị
Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói
mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng
đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tinh thần đổi mới đất nước một cách toàn diện đã mang đến cho đất nước
ta thế và lực mới. Những điều chỉnh đúng đắn về chiến lược và sách lược đã
phát huy tác dụng của nó và tạo đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
tình trạng tham nhũng lại là một trở lực lớn đối với quá trình này. Quan điểm và
tư duy đổi mới cùng với cơ chế, pháp luật đúng đắn, phù hợp đã bị tệ tham
nhũng làm cho méo mó. Đối tượng tham nhũng đã lợi dụng sự thông thoáng của
cơ chế, chính sách để thực hiện hành vi tham nhũng. Ngược lại, kẻ tham nhũng
lại lợi dụng yêu cầu tăng cường kiểm tra, giám sát và các biện pháp khác để doạ
dẫm, đòi hối lộ của các đối tượng bị thanh tra, kiểm tra. Cơ chế, chính sách đã
trở thành công cụ để thực hiện những lợi ích cá nhân. Trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài, tham nhũng sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư nếu chúng ta không có
biện pháp kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi mặc dù Việt Nam được coi là quốc gia
ổn định, an toàn về chính trị, xã hội. Nhìn vào những thành quả của việc đổi mới
có thể nhận thấy chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng luôn đúng đắn,
kiên quyết và mạnh mẽ nhưng khi thực hiện thì bị cản trở rất nhiều do người
thực hiện xuất phát từ mưu lợi cá nhân. Mặc dù cải cách hành chính tiến bộ
16
bước đầu nhưng cho đến nay, cần thừa nhận rằng, tính phục vụ và tính công tâm
nhìn chung vẫn còn là một điều xa lạ của nền hành chính nước ta.
Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả của việc thực hiện chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội hoặc một
nhiệm vụ quản lý nhất định của Nhà nước. Tổng quát hơn, sự nghiệp cách mạng
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn
dân. Nhân dân chính là động lực, chủ thể, mục đích của cách mạng. Để nhân dân
mất niềm tin, tức là chúng ta đã đánh mất một sức mạnh vô cùng to lớn, thậm
chí có tính chất quyết định đối với sự nghiệp cách mạng.
1.1.6.2. Tác hại về kinh tế
Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và
của công dân. Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền
của, thời gian, công sức của nhân dân. Hàng loạt vụ tham nhũng lớn, nghiêm
trọng đã bị phát hiện và Tòa án đưa ra xét xử như: vụ Dệt Nam Định; vụ Lã Thị
Kim Oanh, vụ án Dương Chí Dũng và đồng phạm; vụ án Huyền Như và đồng
phạm; vụ án Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm, vụ án xảy ra tại Ngân hàng
NN&PTNT chi nhánh 7, TP HCM), vụ Vinasin, Vinaline… Giá trị tài sản bị thiệt
hại, bị thất thoát liên quan tới tham nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng
trăm, thậm chí là hàng ngàn tỉ đồng. Đó là những con số lớn và đáng lo ngại so
với số thu ngân sách hằng năm của nước ta. Hậu quả của hành vi tham nhũng
không chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc của cá nhân bị
biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng, mà nguy hiểm
hơn, hành vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất thoát, lãng phí một lượng lớn
tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân. Ở mức độ thấp hơn, việc một số
cán bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân trong khi thực thi công
vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân phải mất
rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để có thể thực hiện được công việc của
mình như: xin cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ
khác...
17
1.1.6.3. Tác hại về mặt xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực
đạo đức xã hội, tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi
tham nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của
người cán bộ cách mạng, không phục vụ nhân dân mà hướng tới các lợi ích bất
chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức
nghề nghiệp. Vì vậy, tham nhũng không chỉ phát sinh ở trong các lĩnh vực kinh
tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai… mà còn có
xu hướng lan sang các lĩnh vực từ trước tới nay ít có khả năng xảy ra tham
nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao... Thậm chí, cả những lĩnh
vực lẽ ra không thể có tham nhũng, cả dưới góc độ đạo đức và pháp luật, như
lĩnh vực phúc lợi xã hội hay bảo vệ pháp luật. Hành vi tham nhũng xảy ra không
ít trong các chương trình trợ cấp cho thương binh, liệt sĩ, các gia đình chính
sách; tham nhũng tiền, hàng hoá cứu trợ xã hội, trong cả xét duyệt công nhận di
tích lịch sử, văn hoá, thi đua khen thưởng. Thậm chí tham nhũng còn xảy ra
trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Điều đáng báo động là việc tham nhũng dường như đã trở thành bình
thường trong quan niệm của một số cán bộ, công chức. Đó chính là biểu hiện
của sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức một cách nghiêm trọng. Hơn thế, tham
nhũng còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, khi người
thực hiện hành vi tham nhũng có khi là giáo viên, bác sĩ, những người hoạt động
trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội - những người xây dựng đời sống,
nền tảng tinh thần cho xã hội.
1.3. CƠ SỞ CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ:
Đề án được xây dựng trên cơ sở nhận thức đầy đủ các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, Chương trình hành động của Tỉnh ủy, Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân tỉnh, Kế hoạch của UBND tỉnh và của Huyện ủy, từ Nghị
quyết của Đảng đến Luật của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, các văn bản
của bộ, ngành Trung ương, của tỉnh và địa phương là khá toàn diện và tương đối
18
hoàn chỉnh, cụ thể là:
Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21 tháng 8 năm 2006 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Qui định 115-QĐ/TW, ngày 7/12/2007 của Bộ Chính trị về những điều
đảng viên không được làm.
Kết luận số 21-KL/TW ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Hội Nghị lần thứ V
ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ III Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2012 của Hội nghị lần thứ
IV Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)về một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay.
Luật Phòng, chống tham nhũng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực
thi hành từ ngày 1/6/2006. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng,
chống tham nhũng Quốc hội thông qua ngày 04/8/2007. Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng Quốc hội thông qua
ngày23/11/2012.
Nghị định số 107/2006/NĐ-CP, ngày 22/9/2006 của Chính phủ qui định về
xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
Nghị định số 211/2013/NĐ-CP, ngày 19/12/2013 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 107/2006/NĐ-CP, ngày 22/9/2006 của Chính phủ qui
định về xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra
tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
Nghị định 47/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ qui định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai
trò, trách nhiệm của xã hội .
Nghị định 59/2013/NĐ-CP ngày 17/6/2013 của Chính phủ qui định chi tiết
19
một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng.
Nghị định số 158/2007/NĐ-CP, ngày 27/10/2007 của Chính phủ qui định
về danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác
đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Nghị định số 150/2013/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định số 158/2007/NĐ-CP,ngày 27/10/2007 của Chính phủ qui định về danh mục
các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ,
công chức, viên chức.
Nghị quyết số 21/NQ-CP, ngày 12/5/2009 của Chính phủ ban hành Chiến
lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020.
Quyết định số 59/2007/QĐ-TTg, ngày 7/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ
về ban hành Qui định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng phương
tiện đi lại trong cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, công ty nhà nước.
Quyết định số 64/2007/QĐ-TTg, ngày 10/5/2007 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành Qui định về việc tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng
của cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách Nhà nước và của cán bộ công
chức, viên chức.
Quyết định số 179/2007/QĐ-TTg, ngày 26/11/2007 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành Qui chế tổ chức mua sắm tài sản, hàng hóa từ ngân sách Nhà
nước theo phương thức tập trung.
Chương trình hành động số 05-CTr/TU, ngày 26/10/2006 của Tỉnh ủy
Thừa Thiên Huế thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Kế hoạch số 56/KH-UBND ngày 11/8/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Thừa Thiên Huế thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng,...
Kế hoạch số 50-KH/TU, ngày 02/10/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực
hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) “về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”.
Nghị quyết 5c/2007/NQ-HĐND, ngày 25/4/2007 của Hội đồng Nhân dân
20
tỉnh Thừa Thiên Huế về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Kế hoạch số 12-KH/HU, ngày 25/10/2013 của Ban Thường vụ Huyện ủy
thực hiện Kế hoạch số 50-KH/TU, ngày 02/10/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy.
1.3.CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.3.1. Khái quát thực trạng về phòng, chống tham nhũng ở Thừa Thiên
Huế
Trong thời gian qua, với quyết tâm cao của toàn Đảng bộ, chính quyền, sự
nỗ lực triển khai của các cấp, các ngành; sự tham gia của cả hệ thống chính trị
và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, công tác Phòng chống tham nhũng đã có
những chuyển biến tích cực, tham nhũng đã có bước được kiềm chế. Ý thức, vai
trò trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu các cơ quan,
đơn vị, địa phương trong công tác đấu tranh Phòng chống tham nhũng ngày
càng được nâng cao. Phần lớn cán bộ, đảng viên đều giữ vững phẩm chất đạo
đức cách mạng, tiên phong gương mẫu trong Phòng chống tham nhũng tạo lòng
tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên,
tình hình tham nhũng, lãng phí trên địa bàn tỉnh vẫn còn diễn biến phức tạp,
diễn ra ở nhiều lĩnh vực, đó là hiện tượng sự sa sút phẩm chất, nhũng nhiễu gây
phiền hà của một bộ phận cán bộ, công chức trong thi hành công vụ chậm được
khắc phục; tình trạng tham nhũng “vặt”, chưa được quan tâm và xử lý đúng
mức. Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức xảy ra tham
nhũng được thực hiện nhiêm túc. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ
án tham nhũng còn hạn chế. “Có biểu hiện hữu khuynh, nể nang, lạm dụng việc
bồi thường, khắc phục hậu quả để xử lý hành chính. Một số vụ việc có dấu hiệu
tham nhũng qua công tác thanh tra chậm được xem xét, kết luận". Những hạn
chế, yếu kém trên được cho là đã gây tâm lý hoài nghi của một bộ phận nhân
dân đối với các cơ quan tư pháp, tính nghiêm minh của pháp luật và hiệu quả
của cuộc đấu tranh chống tham nhũng...
Để công tác lãnh đạo, chỉ đạo về Phòng chống tham nhũng đi vào thực
chất, sát với tình hình địa phương; trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị, chương
21
trình công tác trọng tâm của Ban Chấp hành Trung ương, của Ban Chỉ đạo
Trung ương và của Ban Nội chính Trung ương về PCTN, căn cứ Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 3 (khoá X) và Chương trình hành động số 05-CTr/TU, ngày
26/10/2006 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa X) “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Tỉnh ủy đã cụ thể hóa, ban hành
nhiều văn bản để thực hiện: Xây dựng Kế hoạch 50-KH/TU ngày 02/10/2013
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa
XI) “về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí”.
Tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục về Phòng chống tham nhũng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Từ đầu
năm 2014 đến nay, toàn tỉnh đã tổ chức 154 lớp tuyên truyền với 11.724 cán
bộ, công chức, viên chức và nhân dân tham gia, các đơn vị, địa phương đã phát
hành 960 tài liệu, Sở Tư pháp đã phát hành 1.000 quyển sách và 13.000 tờ rơi
để tuyên truyền. Công tác kê khai, công khai tài sản thu nhập của cán bộ, đảng
viên đã được các cấp ủy, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh thực hiện nghiêm
túc theo tinh thần Chỉ thị 33-CT/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị 33-CT/TU của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Trong năm 2014, trên địa bàn toàn tỉnh có 8.353 cán
bộ, công chức phải kê khai đã thực hiện kê khai và 73/73 cấp ủy, đơn vị đầu
mối đã hoàn thành việc công khai bản kê khai tài sản, thu nhập. Bên cạnh đó,
Tỉnh thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, công khai minh bạch trình tự
thủ tục, đơn giản hoá thủ tục hành chính. Từ năm 2014 đến nay, các đơn vị, địa
phương đã tiến hành rà soát 731 quy trình và bãi bỏ 49 thủ tục không còn phù
hợp. Nhờ làm tốt công tác cải cách hành chính, nên năm 2014, chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh PCI của Thừa Thiên Huế được xếp hạng 02 trên toàn quốc.
Việc chỉ đạo, triển khai thực hiện chuyển đổi vị trí công tác đã mang lại hiệu
quả trong việc phòng ngừa tham nhũng, lãng phí trên địa bàn tỉnh. Từ năm
2014 đến nay, đã chuyển đổi được 336 cán bộ, công chức trên các lĩnh vực
22
nhạy cảm như: Đầu tư xây dựng, quản lý tài chính, ngân sách, tài sản nhà
nước, tuyển dụng cán bộ công chức, tài nguyên môi trường,…
Cùng với tăng cường các biện pháp quản lý để chủ động phòng ngừa tham
nhũng, lãng phí, Tỉnh hết sức coi trọng chỉ đạo hoạt động thanh tra, kiểm tra để
phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm. Trong năm 2014, ngành thanh tra đã tiến
hành 1.208 cuộc thanh tra, kiểm tra, phát hiện vi phạm về kinh tế 46,346 tỷ đồng
và 510.123m2 đất. Chuyển 03 vụ việc có dấu hiệu tham nhũng qua cơ quan điều
tra công an tỉnh để xử lý. Tỉnh ủy thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan
điều tra, kiểm sát, toà án tăng cường phối hợp, nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết
vụ án đúng thời gian luật định, đúng người, đúng tội. Từ năm 2013 đến nay, cơ
quan công an đã khởi tố điều tra 05 vụ/05 bị can có dấu hiệu tham nhũng; tòa án
nhân dân các cấp đã đưa ra xét xử 05 vụ/05 bị cáo phạm tội tham nhũng. Mặc dù,
có vụ án phức tạp, quá trình xảy ra trong thời gian dài gây khó khăn cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử; nhưng nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo, đồng bộ nên các vụ án
được nhanh chóng đưa ra xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật như: Vụ Thái
Ngọc Hùng, cán bộ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Phong
Điền đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt trên 1,2 tỷ đồng,
tòa đã tuyên phạt với mức án là 15 năm tù giam; vụ Lê Thị Châu, nguyên là Phó
Chủ tịch công đoàn ngành giáo dục tỉnh đã lợi dụng chức vụ được giao để chiếm
đoạt trên 660 triệu đồng, tòa đã tuyên phạt với mức án là 16 năm tù giam,…
Trong quá trình thực hiện công tác phòng chống tham nhũng, Tỉnh luôn gắn
chặt công tác phòng chống tham nhũng với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XI) và Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị nhằm
nâng cao hiệu quả của việc Phòng chống tham nhũng. Trong năm 2014, Thừa
Thiên Huế tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp đã được nêu trong Nghị quyết
Trung ương 4; đồng thời, đã thực hiện các giải pháp khắc phục yếu kém, khuyết
điểm trong năm 2013, cụ thể: Đã xây dựng Kế hoạch số 32-KH/TU, ngày
23/4/2014 để tập trung khắc phục 11 vấn đề lớn còn tồn tại bằng những giải pháp
có tính chất cơ bản; tập trung chỉ đạo khắc phục các vụ việc còn tồn tại, hạn chế
đã được kiểm điểm, phê bình như: Chỉ đạo xem xét, xử lý và giải quyết cơ bản
23
hoàn thành các nội dung kiến nghị của Đoàn kiểm tra giám sát Bộ Chính trị và
Kết luận của Thanh tra Chính phủ; Vụ việc ở Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Tỉnh ủy đã kiểm tra, xem xét và ra quyết định xử lý kỷ luật khiển trách đối
với 01 đồng chí Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở; vụ việc ở Sở Xây dựng, đã tổ chức
kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với tập thể, cá nhân tham mưu không đúng việc
bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước theo Nghị định 61/CP của Chính phủ,…
1.3.2. Thực trạng và kết quả công tác phòng, chống tham nhũng ở
huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế
1.3.2.1.Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Nam
Đông
a) Điều kiện tự nhiên, .....................................
b)Dân số, dân tộc
c) Kinh tế - xã hội................................
1.3.2.2.Tình hình và kết quả công tác phòng, chống tham nhũng ở
huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế
a)Tình hình xây dựng chương trình, kế hoạch về phòng, chống tham
nhũng
Quán triệt Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/5/2012 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XI) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng
phí”, và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Chính phủ, Tỉnh ủy, UBND tỉnh,
Thường vụ Huyện ủy. Trong giai đoạn từ năm 2011-2015, hàng năm UBND huyện
ban hành Chương trình số về công tác phòng, chống tham nhũng; chỉ đạo các phòng,
ban thuộc UBND huyện và các xã, thị trấn trên địa bàn huyện xây dựng chương
trình công tác phòng, chống tham nhũng hàng năm của đơn vị, địa phương mình để
tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ theo chỉ đạo của UBND huyện. Đồng thời,
xây dựng Kế hoạch kiểm tra công tác phòng, chống tham nhũng ở các cơ quan, đơn
vị theo chương trình phòng, chống tham nhũng hàng năm nhằm chỉ đạo, đôn đốc
công tác phòng, chống tham nhũng trên địa bàn huyện. Trong đó, đã chú trọng triển
khai thường xuyên công tác cải cách hành chính và công khai, minh bạch trong hoạt
24
động, gắn với triển khai thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở để nhân dân
tham gia giám sát, góp phần phòng ngừa, hạn chế các hành vi tiêu cực, tham nhũng.
Chỉ đạo các ban, ngành có liên quan rà soát, kiến nghị bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, ban
hành mới các văn bản có liên quan đến công tác phòng chống tham nhũng. UBND
huyện đã ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham
nhũng đến năm 2020; kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định trên các lĩnh vực:
quản lý đất đai, sử dụng ngân sách nhà nước, quản lý tài sản và phân cấp quản lý tài
sản, đầu tư xây dựng, minh bạch tài sản và thu nhập, chuyển đổi vị trí công tác, cải
cách hành chính,...
Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức tổng kết công tác phòng,
chống tham nhũng hàng năm để tổng kết kinh nghiệm, gắn với việc tổ chức để
cán bộ, đảng viên cam kết không tham nhũng và thực hiện cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” về cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư; về nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi
đôi với làm; về trung thực, trách nhiệm; gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh góp phần đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống và tệ tham nhũng trong cả hệ thống chính trị và toàn
xã hội.
b) Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt pháp luật về phòng,
chống tham nhũng
UBND huyện giao trách nhiệm cho phòng Tư pháp huyện chủ trì, phối hợp với
Đài truyền thanh huyện, Thanh tra huyện xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến
Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi; và các văn bản liên quan gắn với việc triển
khai cuộc vận động, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đến toàn
thể cán bộ, công chức và nhân dân trên địa bàn huyện nhằm nâng cao ý thức của đội
ngũ cán bộ, công chức từ huyện đến cơ sở và nhân dân trong công tác phòng, chống
tham nhũng. Trong giai đoạn từ năm 2014-2015, đã xây dựng được 58 chuyên mục
phổ biến pháp luật với 95 tin, 54 bài về công tác phòng, chống tham nhũng; tổ chức
04 cuộc tuyên truyền với 244 lượt cán bộ, công chức, viên chức và 183 người dân
tham gia về các quy định liên quan đến công tác Phòng chống tham nhũng.
25