Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Tìm hiểu hoạt động marketing của công ty cổ phần TACN thái dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.21 KB, 78 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là một tất yếu. Sự cạnh tranh làm cho sản
phẩm hàng hóa đa dạng về số lượng, chủng loại, mẫu mã, chất lượng sản phẩm, mở rộng
phạm vi lựa chọn ngày càng cao của người tiêu dùng. Đối với doanh nghiệp cạnh tranh
tạo ra nhiều cơ hội song cùng lắm thách thức trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tạo cơ
hội cho doanh nghiệp có thể mở rộng và phát triển sản xuất chiếm lĩnh thị trường nhưng
doanh nghiệp đó phải nhạy bén thích ứng được với biến động của thị trường, luôn đổi mới
sản phẩm, có những chiến lược kinh doanh thích hợp. Thách thức với mỗi doanh nghiệp
chính là “thương trường là chiến trường” doanh nghiệp nào không thích ứng được với sự
cạnh tranh gay gắt của thị trường sẽ tự bị tụt hậu, bị loại và đào thải ra khỏi thị trường cạnh
tranh dẫn tới thất bại. Chính vì vậy muốn tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp không
ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất TACN công nghiệp có đặc thù riêng là gắn liền
với sự phát triển của ngành chăn nuôi. Ngành chăn nuôi càng phát triển, trình độ chuyên
môn hóa càng cao thì càng đòi hỏi ngành chăn nuôi cũng phải phát triển theo kịp. Với nhu
cầu ngày càng tăng về số lượng và chất lượng khi nền kinh tế ngày càng phát triển nhu
cầu người dân dược nâng cao thì chăn nuôi thủ công nhỏ và lẻ của gia đình theo kiểu tận
dụng không thể đáp ứng được nhu cầu trên. Muốn ngành chăn nuôi phát triển thì không
còn giải pháp nào hữu hiệu hơn bằng cách đầu tư nguồn thức ăn chăn nuôi đầy đủ cả về
lượng và chất dinh dưỡng cho vật nuôi. Từ đó nghành chế biến TACN ra đời nhanh chóng
thu hút được sự quan tâm, tin dùng của các nhà chăn nuôi và đến nay sản phẩm TACN đã rất
phổ biến và gần gũi với hộ gia đình, trang trại chăn nuôi, nó đã trở thành người bạn đồng
hành với người chăn nuôi.
Kinh doanh mặt hàng TACN cũng như vô vàn các loại hàng hóa và dịch vụ khác
trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong cơ chế thị trường một sản phẩm muốn khẳng
định uy tín của mình thì nó phải mang đầy đủ sức cạnh tranh về giá cả, mẫu mã và đặc
biệt là về chất lượng. Nhưng để làm được điều đó đòi hỏi công ty phải có những chiến
lược, sách lược maketing sắc bén. Marketing xác định rõ họ cần phải thực hiện những vấn
đề cơ bản: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Để làm cho sản phẩm
của mình luôn thích ứng với nhu cầu thị trường. Việc hiểu biết và vận dụng tri thức


marketing vào thực tiễn kinh doanh trở thành một đòi hỏi bức xúc và đó còn là mối quan

1


tâm không chỉ của các doanh nghiệp mà là của toàn xã hội. Bởi như người ta nói
“Marketing đụng chạm tới lợi ích của tất cả từ người sản xuất tới nguười tiêu dùng.
Công ty TNHH Thái Dương - Hưng Yên là công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực
Sản xuất TACN đã gặp phải rất nhiều sự cạnh tranh nên vấn đề thị trường tiêu thụ rất được
quan tâm. Thị trường TACN của công ty là tất cả các tỉnh từ Quảng Bình trở Bắc. Trong
đó thị trường của công ty chủ yếu tập trung ở Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, Thái Bình,
Thanh Hoá, Hưng Yên, đây là những tỉnh có ngành chăn nuôi phát triển mạnh, và cũng có
nhu cầu về TACN, công ty dễ dàng phân phối và vận chuyển. Hiện nay công ty đã mở
rộng phân phối lượng thức ăn chăn nuôi cho 54 tỉnh thành. Tuy vậy công ty cũng gặp
không ít khó khăn trong việc mở rộng thị trường đó là có quá nhiều các công ty cạnh
tranh. Trên thị trường cả nước ta tới 300 công ty TACN và riêng huyện Văn Lâm có tới
gần 4 công ty thức ăn chăn nuôi, hơn nữa Thái Dương là công ty còn non trẻ, việc chiếm
lĩnh thị trường sau đã khiến công ty bị bất lợi trong việc gây danh tiếng đến người tiêu
dùng. Do thị trường TACN phức tạp và sự phân bố các hàng trên thị trường khá hợp lý
khiến cho Thái Dương không có kẽ hở trong phân phối sản phẩm cho các thị trường trên
địa bàn mình. Hơn nữa sự cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm cạnh tranh cộng thêm hạn
chế của người tiêu dùng về mặt hàng chăn nuôi, họ chỉ biết nhận hàng cung ứng từ các đại
lý mà không nhận thức loại cám nào của hàng nào tốt cho vật nuôi. Vì thế mà nhãn hiệu
trẻ TACN Thái Dương khó khăn trong việc xâm nhập thị trường.
Maketing là đề tài hay và khó. Tuy nhiên nó vẫn là đề tài hấp dẫn cho chúng ta đi
sâu và tìm hiểu nghiên cứu.
Từ những lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu hoạt động
marketing của công ty Cổ phần TACN Thái Dương”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung

Thông qua tìm hiểu hoạt động marketing của công ty Thái Dương tìm hiểu thực
trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của công ty. Đề xuất một số
giải pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác marketing góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh
của công ty.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
+ Hệ thống những lý luận cơ bản của marketing Thức ăn chăn nuôi
+ Phân tich thực trạng hoạt động marketing của công ty tìm ra những điểm mạnh
và những vấn đề còn hạn chế trong quá trình hoạt động của công ty.

2


+ Đề xuất một số giải pháp cho hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm của công
ty
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác tổ chức, các hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm TACN
của công ty. Hệ thống các đại lý bán TACN và người chăn nuôi.
1.3.2.Phạm vi nghiên cứu
Không gian: đề tài tập trung nghiên cứu tại công ty TNHH TACN Thái Dương.
Thời gian: tập hợp số liệu trong 3 năm(2007, 2008, 2009)
Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng sản xuất kinh doanh,tiêu thụ TACN
của công ty. Phân tích một số chỉ tiêu về kinh tế, tài chính dưa ra các giải pháp thích hợp
nâng cao hiệu quả hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm cho công ty.

3


PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG MARKETING

2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Khái niệm về marketing
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu tên gọi marketing không phải mới nhưng
khoảng 30 năm gần đây nó có những thay đổi lớn. Marketing là một thuật ngữ đặc biệt có
nội dung rộng. Có nhiều nghiên cứu về marketing khẳng định vai trò, vị trí và tác dụng
của nó chưa được định nghĩa thống nhất cụ thể ở đây là một số định nghĩa tiêu biểu:
- Theo Hiệp hội Marketing: Marketing là quá trình kế hoạch hóa và thực hiện các
vấn đề về sản phẩm, định giá bán và phân phối cho sản phẩm dịch vụ và thị trường tạo sự
trao đổi để thỏa mãn các mục tiêu của cá nhân và tổ chức.
- Định nghĩa của nhà quản trị marketing Mỹ Philip Kotter: “Marketing là sự phân
tích, tổ chức kế hoạch hóa và kiểm tra những khả năng câu khách của công ty cũng như
những chính sách và hoạt động với quan điểm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của
khách hàng đã chọn”.
- Định nghĩa của ủy ban hiệp hội marketing (Anh): “Marketing là chức năng quản
lý công ty về mặt tổ chức và quản lý toàn bộ các hoạt động kinh doanh từ việc phát hiện
ra và biến sức mua của người tiêu dung thành nhu cầu thực hiện về một mặt hàng cụ thể
đến việc đưa hàng hóa tới người tiêu dùng cuối cùng nhằm bảo đảm cho công ty thu được
lợi nhuận dự kiến”.
- Định nghĩa của các nhà nghiên cứu marketing Việt Nam: “Marketing là một dạng
hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của họ thông qua trao đổi”.
Marketing trong ngành sản xuất TACN: Tập hợp tất cả các hoạt động từ khâu thu
mua nguyên vật liệu để sản xuất đến khâu hoàn thành sản phẩm TACN công nghiệp để tung
ra thị trường, nhằm thỏa mãn nhu cầu của người chăn nuôi. Từ đó thông qua quá trình trao
đổi giúp công ty đạt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Tư tưởng chủ đạo của hoạt động marketing trong ngành sản xuất TACN chăn nuôi:
- Coi trọng khâu tiêu thụ TACN hay ưu tiên dành cho nó vị trí cao nhất trong
chiến lược kinh doanh.
4



- Chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái mình đã có.
- Phải nghiên rõ thị trường tiêu thụ TACN để hiểu người tiêu dùng.
2.1.1.2. Vai trò của marketing
Trong nền kinh tế thị trường marketing là công cụ hoạch định các chiến lược phát
triển, giúp các doanh nghiệp thích ứng được sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường và
không ngừng nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Bất kỳ doanh nghiệp sản xuất TACN nào muốn gia nhập thị trường, muốn sản
xuất ra sản phẩm và được thị trường chấp nhậ đều phải trả lời các vấn đề sau: Sản xuất cái
gì? Sản xuất như thế nào? Bán cho ai? Marketing hướng cho nhà doanh nghiệp, đặt cơ sở
kết nối và phạm vi hoạt động sản xuất của doanh nghiệp với thị trường.
Sự đánh giá vai trò của marketing trong ngành sản xuất TACN đã có nhiều thay
đổi cùng với sự phát triển của nó được thể hiện:
a. Các nhà kinh doanh lúc ban đầu cho rằng các yếu tố quyết định đến sự thành
công của doah nghiệp là: Sản xuất, tài chính, nhân sự và marketing, các yếu tố này có vai
trò như nhau (1.a)
b. Cùng với sự phát triển và thực tế kinh doanh nhiều nhà doanh nghiệp đã thấy
vao trò của marketing quan trọngu hơn các yếu tố khác (1.b)
c. Do sản xuất phát triển nhanh tiêu thụ ngày một khó khăn hơn, kéo theo đó chính
là sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt của các đối thủ và thị trường đã gây ảnh hưởng tới sự
sống còn của doanh nghiệp, marketing đã được coi là hoạt động trung tâm chi phối các
hoạt động sản xuất, tài chính và lao động (1.c)

5


Tài chính Sản xuất
Marketing
Marketing


Nhân sự

Sản
xuất

Sản xuất
Tài chính

Nhân sự

a. Marketing là 1

b. Marketing quan trọng hơn

trong 4 chức năng

Tài Marketing
chính

các nhức năng khác

c. Marketing là chức
năng trung gian

Sản
xuất

Tài
chính


Sản
xuất

Nhân
sự

Marketing
Khách
hàng

Marketing

Khách
hàng

Tài
chính
Nhân
sự

Nhân sự

d. Khách hàng là khâu trung

e .Khách hàng là khâu trung tâm

tâm

và marketing giữ vai trò liên
kết các hoạt động

Vai

trò

của

marketing

trong

doanh nghiệp
Sơ đồ 2.1: Vai trò của marketing trong kinh doanh
d. Tiêu thụ sản phẩm là khả năng thuyết phục có tính chỉ đạo, khiến khách hàng
mua sản phẩm hoặc dịch vụ. nghĩa là toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp phải hiểu biết

6


sâu sác về thị trường, nhu cầu khách hàng và khả năng chiêu hàng. Sự thành công trong
kinh doanh chỉ có thể đạt được khi hiểu rõ khách hàng. Do vậy nhiểu doanh nghiệp xem
khách hàng là thượng đế là khâu trung tâm, yếu tố quyết đinh chi phối sản xuất, tài chính,
lao động và hoath động marketing (1.d)
e.Theo quan niệm mới nhất hiện nay thì marketing được coi là yếu tố quyết định
thành công trong sự liên kết phối hợp cùng với các yếu tố con người với sản xuất tài
chính (1.e)
Như vậy marketing TACN là kết nối các hoạt động sản xuất kinh doanh của công
ty với thị trường, bảo đảm cho hoạt động của doanh nghiệp hướng tới thị trường, biết lấy
thị trường làm nhu cầu và ước muốn của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi
quyết định của doanh nghiệp. Marketing cho ngành sản xuất TACN đã mang lại nhiều
thắng lợi cho nhà kinh doanh trong cuộc chiến trên thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt

này.
2.1.1.3 Chức năng của Marketing
* Chính trị tư tưởng:
Những người bảo vệ CNTB độc quyền và những nhà chính trị kinh tế học tư sản
cho rằng marketing là một thành quả có tính quyết định đây là triết học mới chữa cho
XHTB những căn bệnh hiểm nghèo là khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp. Họ cũng cho
rằng marketing là thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống khủng hoảng, là bằng
chứng cho thấy CNTB có khả năng biến đổi nhất định trong chuyển hóa thành một xã hội
tiêu thụ, một xã hội sung sướng và họ cũng hy vọng rằng marketing tạo được một không
khí thân mật và tin tưởng lẫn nhau giữa người của các giai cấp giữa nhà tư sản và người
tiêu dùng. Đó là nội dung cơ bản của chức năng chính trị tư tưởng của marketing
* Kinh tế:
Đây là chức năng có thể nói là quan trọng nhất trong marketing của ngành sản
xuất TACN công nghiệp. Chức năng này được thực hiện ngay từ đầu khi marketing
TACN ra đời và ngày càng được bổ sung nhiều nội dung và kỹ thuật mới. Nội dung cơ
bản của chức năng này là làm công cụ phục vụ cho việc sinh lời (hay lợi nhuận). Chức
năng này bao gồm tất cả các hoạt động có mục đích kinh tế (có lợi về kinh tế) liên quan
trực tiếp đến dòng chuyển động hàng hóa và dịch vụ từ người sản xuất TACN tới người
chăn nuôi.
Chức năng này của marketing được thể hiện qua các nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu thị trường:

7


Thị trường trong ngành chăn nuôi rất phức tạp bao gồm nhiều loại khách hàng với
nhiều nhu cầu tiêu dùng đa dạng, phong phú có nhu cầu xuất hiện có nhu cầu tiềm ẩn, có
nhu cầu đang tàn lụi. Thông qua chức năng nghiên cứu thị trường, marketing phát hiện ra
nhu cầu và tìm ra biện pháp thích hợp để khai thác định hướng phát triển thị trường.
+ Chức năng thích ứng sản phẩm:

Marketing có thể thâu tóm phối hợp các hoạt động của các bộ phận kỹ thuật, tiêu
chuẩn hóa sản phẩm sản xuất, nghiên cứu thị trường các doanh nghiệp sản xuất. Để tăng
tính hấp dẫn của các sản phẩm thỏa mãn tốt nhu cầu thị trường. Từ đó tăng tính khả năng
thích ứng của các doanh nghiệp tạo thế chủ động, tăng cường hiệu quả kinh doanh.
+ Chức năng tổ chức và hoàn thiện hệ thống phân phối sản phẩm:
Sản phẩm được sản xuất ra thông qua hệ thống tiêu thụ, hệ thống đại lý, cửa hàng
giới thiệu sản phẩm. Tới người tiêu dùng với chi phí thấp nhất thời gian ngắn nhất.
+ Chức năng tiêu thụ hàng hóa:
Chức năng này thể hiện ở việc kiểm soát giá và nghệ thuật bán hàng. Nhờ đó làm cho
việc tiêu thụ hàng hóa được nhanh chóng sẽ kích thích trực tiếp sản xuất phát triển, đẩy nhanh
vòng quay của vốn và chống mọi rủi ro.
+ Chức năng tăng cường hiệu quả và vốn sản xuất kinh doanh.
Nguyên tắc hoạt động marketing TACN là hướng tới hiệu quả trong hoạt động sản
xuất kinh doanh bao gồm: Lợi nhuận của doanh nghiệp phải nằm trong quan hệ với lợi
ích của của người chăn nuôi.
Ngoài ra trong ngành nông nghiệp có đặc thù riêng còn có thêm một số chức năng
khác:
- Tiêu chuẩn hóa và phân loại:
Là việc tuyển chọn các yếu tố đầu phù hợp với sản xuất như tiêu chuẩn hóa sản
phẩm sản xuất ra theo yêu cầu của người tiêu dùng
Còn phân loại là việc lựa chọn các sản phẩm có chất kượng tính năng khác nhau
tạo điều kiện cho việc định giá cả sản phẩm phù hợp thúc đẩy quá trình tiêu thụ
- Chức năng dự trữ:
Ngành nông nghiệp phụ thuộc nhiều yếu tố tự nhiên, dự trữ có tác dụng điều hòa
được các quá trình cung ứngdcác thời vụ
Vậy thông qua các chức năng của marketing TACN người ta tìm cách hạn chế bớt
những dao động có tính chất không ổn định và tự phát của thị trường. Nhờ có một chương
trình marketing người ta có thể cản phá được những khả năng xấu có thể xảy ra có thể ảnh
hưởng tới việc kinh doanh của họ.
8



2.1.2 Mục tiêu và yêu cầu hoạt động của marketing
2.1.2.1 Mục tiêu của marketing
Thực tiễn cho thấy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới quyết định của người tiêu
dùng liên quan tới việc mua hàng, hành vi của người mua hàng rất phức tạp. Marketing
TACN được xem như là một công cụ, biện pháp giải quyết các mâu thuẫn giữa người
chăn nuôi và người bán thức ăn chăn nuôi trên thị trường. Nó đã tác dụng to lớn tới toàn
bộ nền sản xất của xã hội. Mục đích của hệ thống marketing có thể nhằm mục tiêu sau:
- tối đa hóa khối lượng sản phẩm tiêu thụ (đạt mức tiêu dùng cao nhất).
- tối đa hóa sự thỏa mãn của người tiêu dùng(đạt mức thỏa mãn của người tiêu dùng cao
nhất).
- Tối đa hóa sự lựa chọn (giới thiệu thật nhiều chủng loại hàng hóa để lựa chọn).
- Tối đa hóa chất lượng cuộc sống (góp phần nâng cao cuộc sống cho người chăn nuôi).
2.1.2.2 Yêu cầu của hoạt động marketing
- Tăng lợi nhuận: Hoạt động marketing đó chính là tăng lợi nhuận cho công ty.
- Tăng thị phần: Nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm mục đích tăng khối lượng hàng bán
ra
2.1.2.3 Hoạt động của marketing trong công ty
Các hoạt động marketing được thực hiện theo một trình tự nhất định gọi là quá
trình marketing
* Nghiên cứu khách hàng:
Nhìn chung có 4 yếu tố ảnh hưởng sau:
- Nhóm trình độ văn hóa: Gồm nền văn hóa, trình độ văn hóa địa vị văn hóa
- Nhóm yếu tố xã hội: Những tác đọng từ bên ngoài mang tính chất xã hội
- Nhóm yếu tố tam lý: Động cơ, tri giác, lĩnh hội, niềm tin, thái độ
Trước khi lập kế hoạch marketing cho công ty là tìm sản phẩm có thể thỏa mãn
nhu cầu phát triển sản phẩm cho nó được thể hiện qua sơ đồ:

9



Áp lực xã
hội

Ý thức có nhu cầu chưa
được thỏa mãn

Áp lực
tâm lý

Tìm kếm thông tin

Đánh giá các giải pháp
lựa chọn
Quyết định mua

Hành vi sau khi mua

Sơ đồ 2.2: Tổng quan về quá trình mua
Như vậy marketing chỉ có ích nhờ khám phá và hiểu biết nhu cầu của người tiêu
dùng, sau đó phát triển marketing hỗn hợp để thỏa mãn được nhu cầu đó
* Nghiên cứu sản phẩm:
Sản phẩm là sự tổng hợp của mọi sự thỏa mãn về vật chất của xã hội mà người
mua nhận được từ sự sở hữu tiêu dùng sản phẩm. Trong khi sáng tạo ra một mặt hàng
người nghiên cứu cần nhận thức được ý tưởng của sản phẩm.
Một chiến lược sản phẩm của hàng hóa đều phải chú ý thực tế là các sản phẩm đều có các
chu kỳ sống riêng của nó. Lịch sử thương mại sản phẩm hàng hóa điển hình có thể biểu hiện dưới

10



dạng sơ đồ gồm 5 giai đoạn:

Hình
thành
SP

Sơ đồ 2.3: Chu kỳ sống của một sản phẩm
Nghiên cứu thị trường:

11

Giới
thiệu
SP


Thị trường: Là tổng thể các khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong
muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong
muốn đó, thị trường chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm và tiền tệ nhằm thoả mãn yêu
cầu của hai bên cung và cầu về một loại saảnphẩm nhất định từ đó xác định rõ sản lượng
và giá cả trao đổi của sản phẩm.
Thị trường hiện tại của công ty: Là tập hợp khách hàng đang mua sản phẩm của doanh
nghiệp. Muốn nghiên cứu thị trường trước tiên ta phải:
- Phân khúc thị trường: Thị trường bao gồm rất nhiều loại người tiêu dùng và tồn
tại rất nhiều nhu cầu khác nhau về các loại sản phẩm, trong khi đó nguồn lực của doanh
nghiệp là có hạn mà chỉ phục vụ một khối lượng hạn chế. Để có thể đạt được lợi nhuận
cao ở cùng một mức nỗ lực nhất định doanh nghiệp phải cân nhắc thêm nên sản xuất sản
phẩm gì và phục vụ nhu cầu về các đối tượng nào? Muốn vậy doanh nghiệp phải phân

đoạn thị trường. Đó là quá trình phân chia người tiêu dùng thành từng nhóm trên cơ sở
những điểm khác biệt về nhu cầu, về tính cách hay hành vi. Tuy nhiên, không thể phân
khúc thị trường một cách vô điều kiện, sự phân khúc phải nhằm vào mục tiêu cụ thể và có
lợi ích với doanh nghiệp.
Yêu cầu đối với một khúc thị trường, nó phải là một nhóm người tiêu dùng có
cùng phản ứng như nhau đối với từng tập hợp kích thích marketing. Mặt khác việc phân
loại phải bảo đảm tính xác đáng và tính hiện thực. Thông thường người ta thường phân
khúc thị trường theo các mục tiêu sau:
+ Phân khúc thị trường theo nguyên tắc địa lý
Việc phân khúc thị trường này theo nguyên tắc thị trường này đòi hỏi phải chia cắt
thị trường thành các đơn vị địa lý khác nhau như: Các khu vực trên thế giới, các quốc gia,
các thành phố, các tỉnh, các huyện. Điều quan trọng trong nguyên tắc này là phải chú ý tới
điểm khác biệt về nhu cầu và sở thích do vùng địa lý quyết định.
+ Phân khúc thị trường theo nguyên tắc nhân khẩu
Là căn cứ vào các yếu tố giới tính, tuổi tác, quy mô ga đình, giai đoạn của chu kỳ
gia đình, thu nhập, loại nghề nghiệp, học vấn, tín ngưỡng.
+ Phân khúc thị trường theo nguyên tắc tâm lý
Căn cứ vào đặc điểm, giai tầng xã hội, đường lối của đảng và đặc tính nhân cách.
+ Phân khúc thị trường theo nguyên tắc hành vi
Dựa trên cơ sở những đặc điểm hành vi người mua được chia thành các nhóm
tùy theo kiến thức, thái độ của họ và phản ứng đối với những nhóm hàng.
- Lựa chọn thị trường mục tiêu
12


Sau khi tiến hành phân khúc thị trường tùy theo nhận thức các nhu cầu về sản
phẩm mà công ty lựa chọn thị trường mục tiêu cho mình. Công ty có thể lựa chọn ba
chiến lược chiếm lĩnh thị trường. Marketing không phân biệt, marketing có phân biệt và
marketing tập trung.
+ Marketing không phân biệt nghĩa là công ty có thể bỏ qua những điểm khác biệt

của các phần thị trường và chào hàng hàng loạt như nhau trên thị trường. Trong trường
hợp này công ty tập trung nỗ lực không phải vào chỗ nhu cầu của khách hàng khác nhau ở
điểm gì mà vào chỗ cái gì chung cho tất cả nhu cầu đó.
Ưu điểm: Chi phí sản xuất, chi phí quảng cáo thấp và có thể phục vụ được đông
đảo người mua. Cách này thường được dùng cho những khúc thị trường lớn.
+ Marketing phân biệt nghĩa là công ty có thể tham gia một số khúc thị trường và
chuẩn bị chào hàng riêng cho từng khúc thị trường đó.
Ưu điểm: Công ty có thể khai thác được lợi nhuận cao ở các giai đoạn thị trường
khác nhau và tránh được những rủi ro trong kinh doanh.
Nhược điểm: Công ty bị phân tán nguồn lực của mình trên các đoạn thị trường
+ Marketing tập trung nghĩa là công ty tham gia vào một số khúc thị trường và
chuẩn bị chào hàng riêng cho từng khúc thị trường đó. Thay vì tập trung nỗ lực vào phần
nhỏ của một thị trường lớn công ty tập trung vào phần lớn của một hay nhiều thị trường
nhỏ.
- Định vị sản phẩm trên thị trường
Sau khi quyết định tham gia khúc thị trường nào, công ty phải quyết định thâm
nhập khúc thị trường đó ra sao. Nếu phần thị trường đã ổn định thì có nghĩa là ở đó đã có
cạnh tranh. Trước khi giải quyết vấn đề xác định vị trí của mình, công ty cần phải xác
định vị trí của tất cả các đối thủ cạnh tranh hiện có.
Sau khi biết được vị trí của các đối thủ cạnh tranh thì công ty có thể dự kiến cho
mình vị trí nào? Họ có thể lựa chọn cho mình một trong hai hướng sau:
+ Xác định cho mình vị trí kế bên đối thủ cạnh tranh
+ Xác định cho mình một vị trí chưa hề có đối thủ cạnh tranh
Việc lựa chọn cho mình một vị trí nào là tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh, khả
năng phát huy thế mạnh của công ty, khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, khả năng
phát triển thị trường, khả năng thu được lợi nhuận mục tiêu và tùy thuộc vào nhiều yếu tố
khác nữa.
* Thiết lập chiến lược marketing - mix (marketing hỗn hợp)

13



Là một tập hợp các biến số mà công ty có thể kiểm soát được và nó được sử dụng
để cố gắng đạt tới những tác động, gây ảnh hưởng có lợi cho khách hàng mục tiêu hơn đối
thủ cạnh tranh. Các bộ phận cấu thành marketing hỗn hợp gồm:
- Chiến lược sản phẩm: khía cạnh sản phẩm của hỗn hợp marketing liên quan đến
những gì mà công ty đưa ra thị trường là hàng hóa hay dịch vụ. Khái niệm sản phẩm có
nghĩa là toàn bộ những thuộc tính công ty đưa ra để phục vụ một tập hợp khách hàng
tương lai. Nó bao gồm những khía cạnh vật chất như: Trọng lượng, thành phần dinh
dưỡng. Ngoài ra nó còn bao gồm những dịch vụ như bảo hảnh, đổi hàng và cuối cùng nó
bao gồm những dịch vụ bảo hành như: Hình ảnh, y tín và những kinh nghiệm trước đó.
Từ toàn bộ thuộc tính sản phẩm này, quản trị viên marketing lựa chọn ra một hoặc
hai thuộc tính mang tính chất quyết định trong việc định vị sản phẩm trên thị trường.
Những thuộc tính này sẽ được thể hiện nổi bật trong tất cả các hình thức thông tin mà
công ty sử dụng để thiết lập và tăng cường thông điệp gửi tới khách hàng. Nói một cách
lý tưởng thì những thuộc tính được lựa chọn này tương ứng với nhu cầu của thị trường
tiềm năng và chúng làm cho sản phẩm khác biệt rõ ràng với những sản phẩm cạnh tranh.
Nhiều sản phẩm được phát triển để có được những thuộc tính giúp cho chúng ta có được
vị thế mong muốn trên thị trường.
- Chiến lược giá
Yếu tố trong hỗn hợp marketing dường như là một khái niệm không rắc rối. Tuy
nhiên nó có quá nhiều khía cạnh dể xem xét. Đầu tiên giá thích hợp phải tương ứng với
toàn bộ những giá trị của các thuộc tính sản phẩm khi các khách hàng xem xét nó. Nếu
những thuộc tính này không phù hợp giá cao hoặc quá thấp so với giá trị mà khách hàng
hình dung nhà sản xuất đem lại thì hoặc là khách hàng sẽ mua sản phẩm, hoặc công ty
phải rời bỏ lợị nhuận mà công ty có thể được hưởng. Cân nhắc trong việc định giá có liên
quan đến điều kiện tín dụng, giảm giá so với số lượng mua lớn giá cả cho các kích cỡ,
kiểu dáng khác nhau.
Người tiêu dùng thường nghĩ giá cả là một chỉ dẫn tốt để biết chất lượng sản
phẩm. Vì vậy giá cả cũng có tác dụng chiêu thị tốt. Nội dung, kiểu dáng, cách trình bày

của quảng cáo, khuyến mãi, bao bì và những khía cạnh khác của hoạt động truyền thông.
Cần có sự hòa hợp quyết định về giá và chiêu thị là khuyến mãi. Hoạt động
khuyến mãi thường đưa đến các nhượng bộ với khách hàng về giá cả (ví dụ phiếu mua
hàng giảm giá). Hình thức giảm này nhằm bảo đảm trong thực tế người tiêu dùng được
hưởng giá thấp, các hình thức giảm giá như vậy được coi là tạm thời. Gía cả và chiêu
thị phải song song với nhau trong việc ra các quyết định chiến lược, nếu không thì
14


người tiêu dùng sẽ nhận thức sai lệch và biện pháp giá sẽ không đạt được hiệu quả
như mong muốn.
- Chiến lược phân phối
Phân phối liên quan đến việc lựa chọn các kênh phân phối và sự quyết định của
cả hai bên đấy chính là người sản xuất và cửa hàng phân phối. Mỗi bên lựa chọn hoặc bác
bỏ bên kia và chiêu thị đóng vai trò chính trong việc lựa chọn này.
Ví dụ: Nhà bán hàng chỉ chọn những nhãn hiệu được quảng cáo mạnh mẽ, cũng có
những nhà bán hàng lẻ thích đề cao những sản phẩm của họ mà họ chính là những nhà sản
xuất nhỏ thông qua thỏa thuận về nhãn hiệu riêng.
- Chiến lược xúc tiến
Chiến lược chiêu thị là tiến hành phát triển, duy trì một hỗn hợp thông tin sử dụng
các nguồn lực của công ty ở mức tối đa để thu hút một cách cạnh tranh các thị trường
tiềm năng khi đóng góp các mục đích marketing ngắn hạn hay dài hạn của công ty và mục
đích của tổ chức.
Mục đích của chiêu thị là thông báo, thuyết phục và nhắc nhở: Thông báo cho
người tiêu thụ về tính năng sẵn có của sản phẩm, thuyết phục họ rằng sản phẩm này tốt
hơn sản phẩm khác trên nhiều phương diện. Tất cả những điều này được tiến hành chống
lại những thông tin mang tính chất phi chiêu thị. Nếu không có một nỗ lực chiêu thị hiệu
quả thì những sản phẩm được công nhận là tốt, có giá cả thu hút nhất cũng sẽ nằm phơi
bụi trên các hàng tại các điểm bán. Nói một cách thực tế người tiêu dùng chỉ tiêu thụ sản
phẩm khi khách hàng phải được thông báo rằng có sự tồn tại của sản phẩm, những lý do

tại sao sản phẩm này tốt hơn sản phẩm cạnh tranh và phải thuyết phục được họ nên mua
hàng càng nhanh càng tốt.
Nỗ lực chiêu thị có thể đem lại những mặt thuận lợi. Lợi ích khi chiêu thị chính là
đã thông tin được những lợi thế của sản phẩm đến các khách hàng tiềm năng, giúp số
lượng bán của những sản phẩm hữu hiệu, thiết lập nhận thức và thái độ thuận lợi đối với
sản phẩm mới. Giúp tạo sự ưa thích nơi khách hàng và củng cố sự phân phối tại các điểm
bán lẻ giúp đạt được những sự hợp tác và hỗ trợ từ người trung gian, tạo ra được nỗ lực
lớn của lực lượng bán hàng, xây dựng một hình ảnh tốt cho công ty.
+ Quảng cáo
Quảng cáo trình bày một thông điệp mang tính thương mại theo những chuẩn mực
nhất định trong cùng một lúc đến một số người nhận và phân tán khắp nơi thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng.
+ Bán hàng trực tiếp
15


Bán hàng trực tiếp thì tương phản hoàn toàn với quảng cáo. Nó là sử dụng thông
tin được xác định rõ ràng mang tính chất trực tiếp. Bán hàng trực tiếp xảy ra thông tin tiếp
xúc trực tiếp giữa người bán và người mua, hoặc là thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng.
+ Khuyến mãi
Mục đích của khuyến mãi là tạo ra thêm động cơ cho khách hàng để ra quyết định
mua hàng.
* Hoạch định các trương trình marketing
Sau khi phân tích thị trường và đưa ra các chính sách marketing công ty cần có kế
hoạch thực hiện các chương trình đó. Trong bước này nhà quản trị marketing cần xem xét
đến các khả năng của từng thành viên cũng như các tiềm lực khác trong doanh nghiệp để
giao cho họ những công việc cụ thể trong kế hoạch hoạt động marketing đồng thời phải
thiết lập được một bộ phận giám sát, kiểm tra sẵn sàng cung cấp những thông tin cần thiết
trong quá trình thực hiện.

Trên đây là toàn bộ các hoạt động marketing mà bất cứ doanh nghiệp nào khi kinh
doanh theo triết lý của marketing đều phải thực hiện. Tuy vậy, sẽ rất thiếu sót nếu chúng
ta không nói đến môi trường marketing. Bởi vì, toàn bộ các hoạt động đó đều phải đặt
dưới môi trường kinh doanh chung của doanh nghiệp.
2.1.3 Môi trường kinh doanh
Khái niệm: Môi trường marketing là tổng hợp tất cả các yếu tố, những lực lượng
bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt
động hoặc ra các quyết định của bộ phận marketing trong doanh nghiệp, đến khả năng
thiết lập hoặcu duy trì mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng.
Môi trường marketing được chia thành hai loại: Các yếu tố bên trong và các yếu tố
bên ngoài
- Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
+ Mục tiêu của doanh nghiệp
+ Các nguồn lực của công ty
+ Cạnh tranh
- Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
+ môi trường chính trị và pháp luật
+ Môi trường văn hóa xã hội
+ Môi trường công nghệ
+ Môi trường kinh tế
16


Như vậy, đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cần nghiên cứu môi
trường hoạt động của mình và tiến hành đánh giá, nhận xét để xác định được các nhân tố
có ảnh hưởng từ thấp đến cao, từ đó các doanh nghiệp có những giải pháp nhằm tạo điều
kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh có nhiều thuận lợi hơn.
2.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thức ăn chăn nuôi trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có trên 3500 nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi, hàng năm

sản xuất trên 605 triệu tấn. Nhu cầu sử dụng thức ăn công nghiệp trong ngành chăn nuôi
trên thế giới hiện nay đã tăng do ngành chăn nuôi phát triển theo hướng công nghiệp, mô
hình chăn nuôi lớn và tập trung. Nhiều nước đặc biệt là các nước lớn đã có những công
nghệ sản xuất TACN hiện đại mang lại hiệu quả kinh tế lớn cho cả người sản xuất và
người chăn nuôi.
Ngành sản xuất thức ăn công nghiệp của Trung Quốc được bắt đầu từ cuối năm
1970. Sau 30 năm phát triển, hiện nay Trung Quốc đã xây dựng được một ngành sản xuất
thức ăn công nghiệp hoàn chỉnh bao gồm cả khâu sản xuất và phục vụ. Năm 1980 Trung
Quốc chỉ sản xuất được 1,1 triệu tấn thức ăn công nghiệp, đến năm 2007 Trung Quốc đã
sản xuất được 123,31 triệu tấn thức ăn công nghiệp (tăng 19,1%/năm), có 157 cơ sở có
công suất 100.000 tấn/năm, năm 2008 có 13 cơ sở có công suất 1000.000 tấn/năm. Các cơ
sở sản xuất thức ăn lớn của Trung Quốc: New hope Group, Tongwei Group, Guangdong
Henxing Group. Lượng thức ăn công nghiệp được tiêu thụ ở Trung Quốc năm 2007 qua
bảng 2.1 như sau:

Bảng 2.1 Lượng thức ăn công nghiệp tiêu thụ ở Trung Quốc
Tổng

Thức ăn
Lợn
Gà thịt
Gà trứng

Khác

Triệu tấn
40,01
36,61
25,18
13,27

1,84

Hỗn hợp
Đậm đặc
Premix
(triệu tấn)
(triệu tấn)
(triệu tấn)
24,11
13,12
2,78
32,70
3,36
0,55
18,20
5,96
1,02
12,87
0,15
0,25
1,08
0,39
0,37
(Nguồn: Tạp chí chăn nuôi số 7 – 2009)

%
34,22
31,31
21,54
11,35

1,57

2.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam
17


2.2.1.1 Tình hình chung về ngành chăn nuôi ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết thì ngành chăn nuôi đã đang và sẽ con giữ vai trò quan trọng
trong nền kinh tế của đất nước. Do đây là ngành gắn liền với đời sống vật chất của 80%
dân số Việt Nam. Sự hình thành và phát triển của ngành chăn nuôi gồm có những giai
đoạn sau:
- Thời kỳ nguyên thuỷ thì chăn nuôi không hề tồn tại mà chỉ đơn thuần là sự săn bắn
của các bộ lạc. Đay là thời kỳ mông muội của con người, họ chỉ biết sống dựa vào thiên
nhiên nên chưa có tiền đề cho nghành chăn nuôi ra đời.
- Thời kỳ sống bầy đàn tan rã, con người đã biết sống theo gia đình, hơn nữa do trí
thông minh của con người đã giúp con người biết nhận biết tự nhiên và biết đến việc chăn
nuôi để nuôi cuộc sống lâu dài. Kể từ đó mà ngành chăn nuôi đã ra đời. Nhưng ở thời kỳ
này chăn nuôi chỉ ở mức tự cung tự cấp nên kết quả nó đem lại chỉ là nuôi sống con người
mà không phải lao động dư thừa.
- Cho đến đầu thế kỷ thứ 19, mặc dù chăn nuôi có phát triển nhưng vẫn còn tình trạng
săn bắn ở một số vùng. Thời kỳ Pháp thuộc( 1884-1945) chăn nuôi nước ta có đủ các gia
súc, gia cầm, nhưng lợn vẫn là vật nuôi có số lượng đầu vào cao hơn và tập trung nhiều ở
đồng bằng sông Hồng
- Sau đó nhiều giống vật nuôi đã được đưa vào nước ta với mục đích là đem lại lợi ích
kinh tế cao hơn. Công tác khoa học và công nghệ chăn nuôi trong giai đoạn này hướng vào
nghiên cứu những vấn đề dinh dưỡng, giải pháp chăn nuôi. Bắt đầu năm 1981, công tác
này được phất triển theo chương trình khoa học và công nghệ có mục tiêu cấp nhà nước:
chương trình 02.03 về phát triển chăn nuôi Lợn,chương trình 02.08 về phát triển chăn nuôi
Bò, chương trình 0.2.09 về phát triển nguồn chất lượng TACN giai đoạn 1981-1985.
Số lượng gia súc, gia cầm của Việt Nam (2000-2010) được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.2 Bảng số lượng gia súc, gia cầm của Việt Nam( 2000-2010)
Đơn vị tính: triệu con
Loài vật

Năm

nuôi
Đàn trâu
Đàn bò
Đàn lợn
Đàn gia

2000
2.89
4.13
20.16
198.05

cầm
Đàn dê

0.544

Năm 2001
2.81
3.9
28.1
216.1

Năm 2002

2.81
4.06
23.02
233.28

Năm 2003

Năm

Năm 2010

2.83
4.4
24.88
254.3

2005
3
4.2
24
297

3
4.6
30
350

0.569
0.622
0.78

0.65
0.8
Nguồn: Cục khuyến nông - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn)

18


Theo số liệu thống kê, hiện cả nước có 241 nhà máy chế biến TACN(13.7% của
nước ngoài, 4.1% liên doanh và 82.2% trong nước). Chính phủ Việt Nam đang khuyến
khích của các công ty đầu tư vào ngành TACN trong nước. Số lượng các công ty tham gia
ngày càng nhiều trong đó khoảng 20-25 nhà máy đã được xây dựng được thương hiệu, số
tiền đầu tư từ 2-3 triệu USD. Khoảng 30 nhà máy đầu tư trên 10 tỷ đồng còn lại là các
xưởng nhỏ, mỗi tháng sản xuất từ 100-300 tấn TACN. Tổng số vốn đầu tư của các doanh
nghiệp Việt Nam khoảng 100 triệu USD, công suất khoảng 2 triệu tấn/năm. Hiện nay, có
khoảng 15 công ty nước ngoài đang hoạt động trong lĩnh vực sản xuất TACN ở Việt Nam
với tổng số nhà máy của họ lên tới 36-40 nhà máy công suất 3.6-4 triệu tấn/năm. Tính về
đánh giá đầu tư, các công ty nước ngoài chiếm 75%, các công ty trong nước chiếm 25% về
giá trị đầu tư cho ngành TACN.
Bảng 2.3 Phân loại các nhà máy sản xuất TACN của Việt Nam theo công suất
Năm 2008
Số lượng
249
145
57
28
19

Chỉ tiêu
Tổng số nhà máy
5 tấn

10 tấn
20 tấn
30 tấn

%
100
58.2
22.9
11.2
7.6

Năm 2009
Số lượng
%
234
100
115
49.1
62
26.4
32
13.6
25
10.6
Nguồn: Theo phương tiện thông tin

Tổng số lượng thức ăn hỗn hợp quy đổi sử dụng cho chăn nuôi năm 2009 là 9 triệu
tấn, mới đáp ứng khoảng 50% nhu cầu về thức ăn tinh (được dùng nhiều trong các trang
trại chăn nuôi qui mô lớn), tức là đáp ứng chưa đủ 50% nhu cầu trong nước. Theo quy
hoạch phát triển chăn nuôi, dự tính đến năm 2010 nhu cầu về thức ăn tinh cho ngành chăn

nuôi cần khoảng 18.6 triệu tấn và năm 2015 là 24.1 triệu tấn để đạt mục tiêu giảm tỷ lệ
nhập khẩu nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi xuống còn 50% vào năm 2010
ASEAN là thị trường cung cấp thức ăn gia súc và nguyên liệu chế biến TACN lớn
nhất cho Việt Nam (thường chiếm khoảng 47% lượng nhập khẩu), tiếp theo là thị trường
Trung Quốc (19%), thị trường EU (14%) và thị trường Hoa Kỳ (13%). Kim ngạch nhập
khẩu TACN và nguyên liệu sản xuất TACN đáp ứng nhu cầu trong nước 6 tháng đầu năm
2007 lên tới 547 triệu tấn.
Bảng 2.4 Sản lượng thức ăn chế biến của Việt Nam
Năm

2000
2005

Thức ăn chế biến Công Nghiệp
Thức ăn hỗn
Thức ăn đậm
Tổng
hợp
1.700
3.200

đặc
330
702

cộng
2.030
3.940
19


% thức ăn chế biến so với tổng
lượng chi phí SX
25
38.9


2006

4.300

747

5.118

44.8
Nguồn: Sách báo và tạp chí

Giá thức ăn chăn nuôi trong nước khá cao (chiếm tới 75% chi phí sản xuất),
nguyên nhân tình trạng này do thiếu khả năng thực hiện qui hoạch phát triển toàn diện các
nguồn nguyên liệu thô cũng được nhập khẩu. Vì vậy hiện nay hơn 50% lượng TACN đáp
ứng cho nhu cầu tiêu thụ trong nước vẫn nhập từ các nước khác về.
Qua bảng 2.4 nhìn chung tổng thể ngành chăn nuôi, gia súc hay gia cầm thì đặc
điểm chung cả nước vẫn là nuôi phân tán, chủ yếu là lấy công làm lời, chưa phải là một
nền chăn nuôi chuyên nghiệp, qui mô lớn để giảm giá thành, tăng mức cạnh tranh trên thị
trường. Việt Nam có thế mạnh về trồng trọt, là một quốc qia hàng đầu xuất khẩu gạo, cà
phê, hồ tiêu, hạt điều nhưng cây trồng làm nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi như
bắp, đậu nành lại rất thiếu phải nhập khẩu. Hầu hết giá nguyên liệu này đều cao, giá bắp
trồng trong nước đến 160 USD/TẤN, nếu nhập khẩu bắp từ Mỹ chỉ 135-145 USD/tấn, nên
chi phí đầu vào chăn nuôi cao hơn so với khu vực từ 10%-20%, nếu so với thế giới con số
này lên đến 20%-25%. Với những bất lợi này và sắp tới, khi mức thuế nhập khẩu thịt gia

súc và gia cầm phải giảm theo cam kết gia nhập WTO thì ngay cả thị trường trong nước
cũng sẽ bị cạnh tranh gay gắt trước những sản phẩm ngoại nhập khẩu, dẫn đến hệ quả mất
dần thị trường.
Theo quy hoạch ngành chăn nuôi đến năm 2010 nhu cầu về thức ăn tinh cần
khoảng 18.6 triệu tấn và năm 2015 là 24.1 triệu tấn. Vì vậy đến năm 2010 cần có 30% các
cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi áp dụng qui trình thực hành sản xuất tốt (GMP), 70% các
cơ sở có phòng phân tích chất lượng sản phẩm phải được phân tích, kiểm tra chất lượng để
đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước.
2.2.2.2. Một số chính sách của nhà nước về việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Sản xuất TACN gia súc được sản xuất đầu tiên ở Việt Nam bởi những xí nghiệp
quốc doanh do nhà nước xây dựng. Những xí nghiệp chuyên sản xuất thức ăn đó chỉ có
quy mô vừa và nhỏ với tổng công suất 600.000 tấn/ năm. Nhiệm vụ chủ yếu của các xí
nghiệp này mới chỉ là nghiền trộn chức ăn. Do xóa bỏ cơ chế quản lí củ, chịu sự chi phối
của thị trường nên các xí nghiệp trước kia chỉ hoạt động ở Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí
Minh là chủ yếu. Nhưng cho tới nay dưới những chính sách khuyến khích và hỗ chợ của
nhà nước, đường lối phát triển nông nghiệp - nông thôn từ khi có cơ chế thị trường, Sự
khuyến khích phát triển chăn nuôi với tốc độ ngày càng cao, hình thành các trang trại quy
mô lớn, các hộ gia đình chăn nuôi theo hướng sản suất nông nghiệp, nhu cầu thức ăn chăn
nuôi tăng nhanh.
20


Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Các liên doanh được hình thành và
phát triển ngày càng lớn cả về chất lượng và sản phẩm. Thức ăn chăn nuôi gia súc là loại
thức ăn mới khác với thức ăn truyền thống bước đầu đã được chấp nhận ở Việt nam trong
những năm gần đây có xu hướng ngày càng tăng về nhu cầu, do đó có khả năng đáp ứng
được nhu cầu dinh dưỡng cao có thể dự trữ lâu tạo sự ổn định về thức ăn.
Trong điều kiện ngành chăn nuôi đang phải đối mặt với dịch bệnh, đầu ra thì
ngành sản xuất, chế biến TACN cũng đã và đang gặp phải nhiều khó khăn và thách thức.
Gía buôn cao hơn 10% - 15% so với các nước trong khu vực nên tính cạnh tranh không

cao. Bên cạnh đó sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, hàng năm phải nhập khẩu
khoảng 20% - 30% về khối lượng, chiếm tới khoảng 45% tổng giá trị nguyên liệu sản xuất
TACN. Vì vậy nhà nước có nhính sách tăng cường năng lực cho ngành sản xuất TACN sẽ
làm tăng khả năng sản xuất trong nước đáp ứng tốt nhu cầu tiêu thụ của thị trường và ổn định
giá cả góp phần phát triển nhanh chóng ngành chăn nuôi Việt Nam.
Những năm qua, Nhà nước đầu tư rất nhiều tiền, qua nhiều năm để nghiên cứu
công nghệ sản xuất premix, nhưng đến nay kỳ vọng này vẫn còn đang ở phía trước. Chưa
thể có công nghệ để phổ biến và giúp cho các doanh nghiệp trong nước chủ động hạ giá
thành thức ăn chăn nuôi.
Các doanh nghiệp sản xuất TACN ở Việt Nam cũng có những lợi thế hơn các
doanh nghiệp nước ngoài ở chỗ họ là doanh nghiệp Việt Nam nên hiểu nền văn hóa Việt
cũng như hiểu nhu cầu tiêu dùng của người Việt hơn từ đấy sẽ có cơ hội phục vụ nhiều
hơn và tốt hơn. Nhưng nếu nhỉ dựa vào ưu thws này chưa đủ để đảm bảo cho doanh
nghiệp TACN Việt Nam cạnh tranh vì thế đòi hỏi họ cần làm hơn nữa để có thể tồn tại và
đứng vững trên thị trường.
2.2.2.3 Đánh giá về tình hình về hoạt động sản xuất và tiêu thụ thức ăn chăn
nuôi ở Việt Nam
Mỗi năm nước ta sản xuất được gần 6 triệu tấn thức ăn chăn nuôi công nghiệp cho gia súc,
gia cầm 2,4 triệu tấn thức ăn chăn nuôi thủy sản. Trong số khoảng 8,5 triệu tấn thức ăn
chăn nuôi công nghiệp sản xuất mỗi năm, các nhà máy chế biến phải nhập khẩu 3,7 triệu
tấn nguyên liệu/năm. Đây là số lượng nhập khẩu nguyên liệu rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển ngành công nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước và đẩy giá
thành thức ăn lên cao, trong khi nước ta là một nước xuất khẩu nông nghiệp nhất nhì thế
giới Việt Nam là một nước nông nghiệp, nhưng ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi không
chủ động được nguồn nguyên liệu. Ngành chế biến thức ăn chăn nuôi đang thiếu quy
hoạch phát triển nguồn nguyên liệu thô cũng như công nghiệp phụ trợ cho chế biến. Bởi
21


vậy, cung cầu đang mất cân đối trầm trọng, khiến giá bán thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam

luôn cao hơn 15-20% so với các nước khu vực.
Hàng năm, kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi của nước
ta khoảng 2 tỷ USD. Trong khi, thức ăn chăn nuôi không phải mặt hàng thiết yếu, nên mỗi
khi ngân hàng có biến động, doanh nghiệp thức ăn chăn nuôi không được ưu tiên vay vốn.
Nhìn chung công nghệ sản xuất thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam còn quá lạc hậu so
với nhu cầu thực tế. Ngoài các đề tài nghiên cứu tiêu hoá với quy mô nhỏ các Viện nghiên
cứu ở nước ta chưa có kết quả nghiên cứu nào thành quy trình công nghệ hoàn chỉnh để có
thể phổ biến đại trà vào sản xuất. Vì vậy, các doanh nghiệp phải nhập công nghệ từ nước
ngoài. Hầu hết các nhà máy đều có nhu cầu sử dụng hệ thống thiết bị có công suất 20-40
tấn/giờ, nhưng những máy móc thiết bị loại này trong nước chưa sản xuất được buộc
doanh nghiệp phải nhập khẩu từ châu Âu với chi phí rất đắt.
Đội ngũ cán bộ có tâm huyết với nghề hiện nay cũng rất thiếu, thiếu từ cán bộ
nghiên cứu đến cán bộ sản xuất, kinh doanh và thị trường. Lao động phổ thông thừa,
nhưng lao động chất lượng cao, biết bám thực tế sản xuất thì rất ít.
Hiện các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi ở Việt
Nam đang thu siêu lợi nhuận, trong khi người chăn nuôi phải mua thức ăn chăn nuôi với
giá quá đắt. Các doanh nghiệp trong nước quản lý yếu, thiếu vốn, thiếu công nghệ, nên
không thể cạnh tranh được với các công ty 100% vốn nước ngoài.

PHẦN III
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Công ty Cổ phần TACN Thái Dương
3.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Thông tin về công ty
1. Tên công ty: Công ty TNHH Thái Dương
Tên giao dịch: SUN FEEDS COMPANY LIMITED
Tên viết tắt: SUN FEEDS CO.LTD
2. Địa chỉ trụ sở chính: Xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
22



Điện thoại: 0321.982125 Fax: 0321.982127
Email:
3. Ngành, nghề kinh doanh: sản xuấ, mua bán, đại lý thức ăn và chất bổ sung dùng
cho chăn nuôi, mua bán máy móc, nguyên liệu, hàng hóa, vật phẩm phục vụ dùng
cho chăn nuôi, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực sản xuất thức ăn và chất bổ
sung dùng trong chăn nuôi, sản xuất và buôn bán giống vật nuôi, cây trồng, in ấn
bao bì, kinh doanh bất động sản thuộc sở hữu hoặc đi thuê, sản xuất chế biến và
buôn bán hàng thực phẩm, vận tải hàng hóa.
4. vốn điều lệ: 6.000 triệu đồng
5. Tên chủ sở hữu: Công ty cổ phần thức ăn chăn nuôi Thái Dương
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 0103000325
Do: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội

cấp ngày 26-4-2001.

Công ty TNHH Thái Dương được thành lập ngày 21/07/2001 có trụ sở tại số 10
ngõ 191 Lạc Long Quân, quận Cầu Giấy, Hà Nội. cũng trong thời gian đó công ty có thuê
một xưởng sản xuất tại Khu công nghiệp Sài Đồng B Gia Lâm, Hà Nội. chuyên sản xuất
TACN cung cấp một lượng thức ăn lớn trong ngành chăn nuôi cho hầu hết các tỉnh thành
trên toàn quốc.
Tháng 10-2002 công ty xây dựng nhà máy sản xuất tại Khu công nghiệp Phố Nối
A-Văn Lâm-Hưng Yên với quy mô lớn, dây truyền sản xuất hiện đại (công nghệ
Fomulation của Hoa kỳ) có thể cung cấp 50000 tấn/tháng cho hàng ngàn đại lý trên các
tỉnh thành trên toàn quốc. từ đó đến nay công ty đang từng bước hoàn thiện và phát triển
để trở thành tập đoàn Thái Dương hùng mạnh với nhiều công ty thành viên.
Công ty Cổ phần TACN Thái Dương hướng đến tất cả các khách hàng mà trước
hết là những doanh nghiệp kinh doanh trong cũng ngành chăn nuôi để có thể trở thành nhà
cung cấp lớn nhất các nguyên liệu đầu vào cho họ. tiếp đến là những bà con nông dân,
những trang trại chăn nuôi từ mô hình nhỏ đến những mô hình lớn, các hợp tác xã, các

nông trường chăn nuôi, những công ty kinh doanh thực phẩm khác từ Bắc vào Nam.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mang tính chất khép kín, từ
nguyên liệu đầu vào được công ty nhập khẩu trực tiếp từ Mỹ, Acghentina, Ấn Độ,
Singapore đến thu mua một số nguyên liệu đầu vào từ bà con nông dân: ngô hạt, bột cá,
cám gạo, thóc đã giúp cho công ty sản xuất ra những sản phẩm có giá trị hơn một số đối
thủ cạnh tranh, làm cho công ty chiếm được thị phần lớn trên thị trường.
Hiện nay với việc đầu tư trên nhiều lĩnh vực nông nghiệp, sản xuất thức ăn gia súc,
chế biến thực phẩm, chế biến nông sản, chăn nuôi, kinh doanh xuất khập khẩu nông sản,
23


xây dựng kinh doanh bất động sản, khoáng sản. Công ty Cổ phần TACN Thái Dương ngày
càng khẳng định tên tuổi cũng như thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường Việt
Nam.
3.1.2 Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp
Tổ chức của một doanh nghiệp: Đứng đầu là giám đốc công ty và dưới nữa chính
là các phòng ban. Mỗi phòng ban có một chức năng và nhiệm vụ khác nhau

Ban giám đốc

Phòng
kế
toán

Phòng
bán
hàng

Phòng
kỹ thuật


Phòng
thị
trường

Phòng
quảng
cáo

Phòng
quản lý
sản
xuất

Sơ đồ 3.1 sơ đồ tổ chức quản lý công ty TACN Thái Dương
Quan hệ chỉ đạo
Quan hệ chức năng
- Ban giám đốc: Gồm một tổng giám đốc đại diện pháp nhân trong giao dịch, quản
lý điều hành hoạt động kinh doanh của công ty và một phó giám đốc trực tiếp điều hành về
mặt công nghệ sản xuất, bảo đảm chất lượng sản phẩm và an toàn trong sản xuất, cải tiến
công nghệ sản xuất sản phẩm. chịu trách nhiệm trước giám đốc phụ trách vật tự thiết bị và
công tác hành chính, có nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo cung ứng kịp thời các yếu tố đầu vào
cho sản xuất kinh doanh của công ty, trực tiếp phụ trách các phòng ban, chăm lo đời sống
của cán bộ công nhân viên.
- Phòng kế toán: có năm người trong đó có một kế toán trưởng, một kế toán tổng
hợp và ba kế toán viên. Có nhiệm vụ:
Tổ chức thực hiện toàn bộ công tác kế toán trong toàn công ty.

24



Giúp lãnh đạo những thông tin kinh tế cần thiết hướng dẫn chỉ đạo kiểm tra các bộ
phận trong đơn vị, thực hiện đầy đủ các chính sách như chế độ ghi chép ban đầu, chế độ
hạch toán, chế độ quản lý kinh tế tài chính.
Lập kế hoạch tài chính hàng năm cho đầu tư chiều sâu trong quá trình sản xuất
hạch toán, quyết toán làm báo cáo quyết toán theo chế độ báo cáo kế toán của nhà nước
- Phòng bán hàng: Gồm ba người, bán và giao hàng đến các đại lý tiêu thụ sản phẩm của
công ty ở các địa bàn khác nhau.
- Phòng thị trường: Có chức năng duy trì các thị trường cũ và tìm kiếm các thị
trường mới. phòng có 15 người là các trưởng vùng trên toàn quốc.
- Phòng kỹ thuật: Có 2 người luôn luôn đảm bảo cho cho các dây truyền máy móc
hoạt động hiệu quả, đưa các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
- Phòng quảng cáo: Gồm 5người nghiên cứu các chính sách quảng bá sản phẩm
phù hợp với từng thời điểm kinh doanh của công ty.
- Phòng quản lý sản xuất: Gồm quản đốc, văn phòng kho, tổ kiểm tra KCS và công
nhân. Quản đốc là người theo dõi và chỉ đạo các hoạt động mua nguyên liệu vào công ty
và các hoạt động sản xuất. bộ phận KCS có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm sản
xuất ra. Lực lượng đông đảo nhất là công nhân sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm.
3.1.3 Tình hình lao động của công ty
Lao động là yếu tố hàng đầu của các đơn vị khi tiến hành sản xuất kinh doanh. nếu
có chế độ tuyển dụng hợp lý, mức tiền lương xứng đáng và các chế độ khác hợp lý sẽ là
nguồn lợi thế to lớn trong cạnh tranh nhất là đối với các đơn vị tư nhân trong thời đại nền
kinh tế thị trường như hiện nay.
Lực lượng lao động ở công ty Thái Dương hiện có tuổi đời rất trẻ, từ giám đốc cho
tới nhân viên, công nhân đều là những lao động trẻ có trình độ kỹ thuật, điều đó đã tạo ra
nhiều lợi thế cho việc phát triển công ty trong tương lai. Tình hình nguồn lao động của
công ty thể hiện qua bảng

25



×