A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ sớm và đã ảnh
hưởng nhất định tới nhiều lĩnh vực của đời sống con người, trong đó có vai trò
không nhỏ vào việc hình thành, hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam trong lịch
sử. Chúng tác động tới con người từ suy nghĩ đến lời nói, hành vi. Phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội Việt Nam và được giai cấp phong kiến thống trị tiếp nhận, đề
cao. Nho giáo đã ăn sâu vào thói quen, tâm lý người Việt. Vì vậy, chúng ta có thể
khẳng định, Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng đã trở thành một bộ
phận của truyền thống dân tộc ta.
Hiện nay, thực hiện chiến lược phát triển con người toàn diện, Đại hội lần thứ
IX, X, XI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương phát triển nguồn nhân
lực con người với yêu cầu ngày càng cao, không thể không kế thừa các giá trị
truyền thống của dân tộc. Chúng ta xây dựng nền văn hóa mới, đạo đức mới, con
người mới trên nền tảng những giá trị ấy, trong đó có đạo đức Nho giáo. Vấn đề đặt
ra là, chúng ta có thể và cần phải kế thừa những gì, loại bỏ những gì từ trong di sản
đạo đức Nho giáo. Do đó, khai thác và phát huy những điểm tích cực cũng như
khắc phục, xóa bỏ những hạn chế của đạo đức Nho giáo trong việc xây dựng và
hoàn thiện con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giờ đây là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách, vì vậy tôi chọn “ Một số nội dung cơ bản của
đạo đức Nho giáo - những giá trị và hạn chế của nó” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
+ Phân tích khái quát về Nho giáo và đạo đức Nho giáo, nội dung tư tưởng cơ bản
của nó.
+ Khẳng định vai trò, ý nghĩa của Nho giáo.
- Nhiệm vụ:
1
+ Phân tích, trình bày, lấy dẫn chứng về những nội dung tư tưởng cơ bản của Nho
giáo. Từ đó, đánh giá và rút ra kết luận về vai trò, vị trí, ý nghĩa của vịêc nghiên
cứu vấn đề trên.
3. Kết cấu của tiểu luận bao gồm:
Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phần nội dung với 2 mục:
1. Vài nét khái quát về Nho giáo và đạo đức Nho giáo.
2. Những tư tưởng cơ bản về Nho giáo và đạo đức Nho giáo
2
B. NỘI DUNG
1. Vài nét khái quát về Nho giáo và đạo đức Nho giáo
Nho giáo ra đời vào thế kỷ thứ IV TCN, do Khổng Tử (551 – 479 TCN) sáng
lập. Xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu Chiến Quốc là một xã hội đầy hỗn loạn và
có nhiều biến động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Lúc này, giai cấp
quý tộc nhà Chu đã suy yếu, chư hầu lấn quyền thiên tử, tôi giết vua, con giết
cha...Cùng với việc tranh quyền đoạt lợi là các cuộc chiến tranh liên miên, bất chấp
đạo lý. Chính điều này đã làm cho đời sống nhân dân ngày càng khổ cực, đất nước
bị suy kiệt, rối loạn. Đây là thời kỳ mà các mối quan hệ giữa người với người cũng
như các nguyên tắc luân lý đạo đức của nhà Chu bị đảo lộn: vua không ra vua, tôi
không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con...Chính sự biến đổi trong lĩnh vực
kinh tế, xét đến cùng là nguyên nhân dẫn đến những biến đổi về chính trị xã hội.
Trước thực trạng “Bách gia tranh minh”, “Bách gia chư tử”, Nho giáo đã ra đời
cùng với khát vọng đưa xã hội trở lại thời kỳ thanh bình, thịnh trị như thời đại
Nghiêu, Thuấn. Ngoài ra, sự ra đời của Nho giáo còn trên cơ sở kế thừa, tiếp thu
đời sống tư tưởng của Trung Quốc trước đó, đặc biệt là dưới thời nhà Chu với
những quan niệm như Trời - người hợp nhất, mệnh trời...
Các nhà Nho lúc bấy giờ đều nhìn nhận xã hội Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu
Chiến Quốc là một xã hội không có đạo đức, phi đạo đức. Nguyên nhân của tình
trạng ấy theo các nhà Nho là do chính những con người vô đạo đức. Bởi vậy, theo
họ, một trong những biện pháp chủ yếu nhất để đưa xã hội từ loạn trở về trị là phải
xây dựng một xã hội có đạo đức với những con người đạo đức. Khổng Tử và nhiều
nhà Nho đã sớm nhận ra sức mạnh và vai trò của đạo đức đối với xã hội Trung
Quốc cổ đại. Chính vì trong nội dung của Nho giáo cũng như trong tư tưởng của
nhiều nhà Nho luôn chú trọng và bàn nhiều về vấn đề này. Vì vậy mà có thể nói
rằng, học thuyết Nho giáo trước hết là học thuyết đạo đức. Khổng Tử luôn luôn
mong ước làm thế nào để đưa xã hội trở lại thời vua Nghiêu Thuấn, thời kỳ của
3
những vua thánh tôi hiền, thời kỳ mà vua cai trị dân không phải bằng bạo lực mà
bằng đạo đức.
“Để có thể đưa xã hội trở lại cái thời hoàng kim ấy, Khổng Tử coi đạo đức là
phương tiện hiệu nghiệm nhất. Suốt đời, ông đã ca ngợi cuộc sống đạo đức của thời
xưa đồng thời hoàn thiện mô hình đạo đức coi như phù hợp nhất với đạo lý làm
người. Đó là một mô hình đạo đức dược xây dựng một cách tinh vi và hoàn chỉnh
nhất”.
Khi lý giải về con người, các nhà Nho chủ yếu bắt đầu từ con người đạo đức,
tức là điểm xuất phát trong triết học về con người ở Nho giáo là con người đạo đức.
Vì vậy, tất yếu nội dung giáo dục, giáo hoá con người trong Nho giáo là đạo đức.
Trong học thuyết của Nho giáo, những phạm trù đạo đức không chỉ để đánh giá mà
chủ yếu để điều chỉnh mọi hành vi, lời nói của mỗi người trong mọi mối quan hệ
theo yêu cầu của giai cấp thồng trị. Đó còn là những phẩm chất đạo đức cơ bản mà
con người cần tu dưỡng, hoàn thiện. Bởi vậy, có thể nói, các nhà Nho coi đạo đức
là công cụ, phương tiện chủ yếu nhất của giai cấp thống trị trong việc cai trị và
quản lý xã hội. Đồng thời, nó cũng là tiền đề, điều kiện quan trọng để hình thành và
hoàn thiện đạo đức con người, góp phần vào việc củng cố, duy trì trật tự, kỷ cương
xã hội. Các nhà Nho tin rằng, có thể bằng đường lối Đức trị để bình ổn xã hội, tạo
ra mẫu người và thiết chế xã hội cần có của giai cấp phong kiến. Vì vậy, Nho giáo
đặc biệt đề cao vai trò của đường lối Đức trị - đường lối trị nước dựa trên cơ sở
những chuẩn mực đạo đức, như Khổng Tử nói: “Làm chính trị bằng Đức trị thì tự
mình sẽ giống như sao Bắc Đẩu, ở nguyên một chỗ mà mọi vì sao khác chầu quanh
mình”. Đức trị chính là một trong những nội dung cơ bản của học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo.
Sau khi Khổng Tử sáng lập Nho giáo, các học trò của ông như Mạnh Tử,
Tuân Tử… đã tiếp tục bổ sung, biến đổi và phát triển nó theo nhiều hướng khác
nhau. Theo thời gian, Nho giáo cũng đã trải qua nhiều thăng trầm, gắn liền với lịch
sử chế độ phong kiến Trung Hoa. Nó cùng với Pháp gia luôn thay nhau là sự lựa
4
chọn của các nhà cầm quyền. Đặc biệt, vào những năm 140 TCN, Hán Vũ Đế nghe
lời Đổng Trọng Thư độc tôn Nho học, Nho giáo trở thành các trào lưu tư tưởng chủ
đạo của Trung Quốc. Trên cơ sở những biến đổi của các tư tưởng cơ bản, người ta
thấy có thể chia lịch sử của Nho giáo Trung Quốc thành ba giai đoạn phát triển chủ
yếu: Nho giáo nguyên thuỷ (gắn với tên tuổi của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử…);
Hán Nho (gắn với tên tuổi của Đổng Trọng Thư); Tống Nho (gắn với tên tuổi của
Trương Tải, Chu Đôn Di. Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy…)
2. Những tư tưởng cơ bản về Nho giáo và đạo đức Nho giáo
a. Đạo đức Nho giáo
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ thống
những quy định, quan niệm, quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn
tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ đó, con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của chính họ và sự tiến bộ của xã hội
trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Với tư
cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức luôn phản ánh và chịu sự quy định của
tồn tại xã hội. Song, đạo đức có tính độc lập tương đối của nó: tác động trở lại tồn
tại xã hội. Tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành nhiều giá trị đạo đức mang
tính nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là
những quy tắc đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi của con người và nó cần thiết cho
việc giữ gìn trật tự xã hội chung. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, đạo đức phản
ánh quan hệ giai cấp nên nó có tính giai cấp. Các phạm trù đạo đức luôn luôn phản
ánh lợi ích và địa vị giai cấp, là công cụ bảo vệ hữu hiệu địa vị và quyền lợi của
giai cấp thống trị.
Nho giáo với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, một hình thái
ý thức xã hội, đã ảnh hưởng tới nhiều mặt của đời sống con người, đặc biệt trong
lĩnh vực đạo đức. Trước hết, Nho giáo là một học thuyết đạo đức. Nó bao gồm một
hệ thống những chuẩn mực, nguyên tắc, quy phạm đạo đức để điều chỉnh hành vi
của con người trong các mối quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo thống nhất giữa lợi ích
5
cá nhân và lợi ích cộng đồng. “Nho giáo chủ yếu bàn về đạo đức. Sách Nho giáo về
đạo đức nhiều hàng chục xe, cô đọng lại chỉ hai chữ Luân thường hay Cương
thường. Tuy không phải Luân thường là tất cả đạo đức Nho giáo, song Luân
thường là cốt tuỷ của Nho giáo, là cái chung nhất của Nho giáo, dù là Nho giáo
Trung Quốc hay ở Việt Nam, dù là Nho giáo thời Xuân Thu Chiến Quốc hay Nho
giáo Hán Đường, hay Nho giáo Lê Nguyễn”. Theo quan niệm của Nho giáo, Ngũ
luân là năm mối quan hệ cơ bản của con nguời: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em,
bạn bè; trong đó ba mối quan hệ đầu tiên quan trọng nhất gọi là Tam cuơng. Ngũ
thuờng gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Bằng Tam cuơng và Ngũ thường, Nho
giáo đã buộc con ngưòi phải tuân theo những chẩn mực đạo đức ấy để xây dựng
nên một xã hội lý tưởng phủ hợp với yêu cầu của giai cấp thống trị. Và như vậy,
cũng thông qua đó, các nhà Nho không chỉ nhằm mục đích xây dựng và hoàn thiện
nhân cách đạo đức của con nguời, của xã hội mà những phẩm chất, quy tắc đạo đức
còn đuợc coi là những công cụ có tính chính trị để ràng buộc con người, để quản lý
xã hội. Đạo đức Nho giáo trong suốt hơn hai nghìn năm phong kiến có thể tóm gọn
lại ở Tam cương, Ngũ thường.
b. Một số nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo và ưu điểm, hạn chế của nó
Như đã nói ở trên, Tam cương, Ngũ thuờng là nguyên tắc chi phối suy nghĩ
cũng như hành động của mỗi con người. Đây chính là cốt lõi tư tuởng đạo đức Nho
giáo. Những phạm trù, nguyên tắc ấy luôn đuợc các nhà Nho coi trọng, được lấy
làm chuẩn mực cho những giá trị xã hội, được đưa vào nội dung giáo dục, rèn
luyện con người, thậm chí còn được luật hoá. Xuất phát từ mục đích là tạo ra con
người đạo đức mà ở Nho giáo, nội dung của giáo dục, giáo hoá con người chủ yếu
là những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản được đề cập đến trong Tam cương
(rộng ra là Ngũ luân) và Ngũ thường.
* Ngũ luân
Theo Nho giáo, con người tồn tại và phát triển trong vô vàn mối quan hệ từ
gia đình đến ngoài xã hội. Và ở từng mối quan hệ, cách suy nghĩ, hành động của họ
6
đều bị ràng buộc, quy định bởi những chuẩn mực, quy tắc đạo đức. Trong các quan
hệ ấy, các nhà Nho chú ý nhiều đến những mối quan hệ chính trị, đạo đức. Họ cho
rằng, quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè là năm mối quan hệ chính
mà bất kỳ người nào cũng không tránh khỏi; giữ đuợc tốt năm mối quan hệ ấy thì
xã hội hoà mục, giao đạo yên vui. Sách Trung Dung có câu: Quân thần, phu phụ,
huynh đệ, bằng hữu, đó là đạt đạo của thiên hạ. Có nguời đã cho rằng, vấn đề luân
lý, đạo đức của Nho giáo về thực chất cũng chính là giải quyết năm mối quan hệ đó
trong xã hội.
Trước hết trong xã hội, Nho giáo đặc biệt chú ý tới mối quan hệ vua tôi
(quân thần). Vua tức thiên tử, là người thay trời để trị nuớc, trị dân, giáo dân; là
người có quyền uy, vị trí cao nhất. Bề tôi là khái niệm chỉ mọi người dưới quyền
thống trị của nhà vua, bao gồm cả dân và quan. Ở mối quan hệ này, Nho giáo đòi
hỏi phải có sự ứng xử qua lại về mặt đạo đức của hai bên. Theo đó, vua phải biết
đối xử với bề tôi, tôn trọng, quý mến bề tôi. Mạnh Từ đã từng nói nếu vua mà coi
bề tôi như tay chân, ắt bề tôi sẽ coi vua như bụng dạ; vua mà coi bề tôi như chó
ngựa, ắt bề tôi sẽ coi vua như kẻ qua đường; vua mà coi bề tôi như bùn rác thì ắt bề
tôi sẽ coi vua như kẻ cướp người thù. Đạo làm vua lớn nhất là phải có lòng nhân ái;
trị nước, trị dân trước hế là bằng đạo đức của chính mình. Và giống như người cha,
vua phải là tấm gương đạo đức lớn, là nguời mẫu mực cho dân chúng noi theo và
học tập. Ngược lại, bề tôi đối với vua phải biết giữ đạo trung, tức là phải tuyệt đối
trung thành, hết lòng phụng sự nhà vua. Có nhiều cách hiểu về chữ “trung”. Trung
là không được dối gạt vua, phải biết đặt lợi ích của nhà vua lên trên hết. Ngoài ra,
trung nghĩa là bề tôi một mặt phải biết can gián vua không đuợc làm những việc
trái với đạo lý, mặt khác không được hùa theo khi vua có lỗi lầm… Tóm lại, bề tôi
phải yêu quý, cung kính vua như cha mẹ mình. Sau này, đến Hán Nho, đức trung
đã được đưa lên hàng đầu. Từ Đổng Trọng Thư trở đi, vị trí, quyền lực của nhà vua
đuợc tuyệt đối hoá, vì vậy các nhà Nho yêu cầu bề tôi phải trung thành với vua một
cách vô điều kiện, thậm chí “vua xử thần tử, thần bất tử bất trung” (nghĩa là: vua xử
7
thần chết thần phải chết, nếu không là mắc tội bất trung). Trong lý luận Nho giáo,
quan hệ vua tôi thường được thể hiện bằng những câu như: quân nhân thần trung,
minh quân lương thần… Vua phải đạo vua là minh quân, tôi phải đạo tôi là trung
thần, lương thần. Hai vế ấy làm điều kiện cho nhau, chứ không tách rời nhau. Tất
nhiên, mặc dù Nho giáo đề cập đến trách nhiệm và bổn phận ở cả hai phía, song
trên thực tế, đức trung được nêu ra chủ yếu để củng cố uy quyền, địa vị của nhà vua
và nhấn mạnh đến trách nhiệm, nghĩa vụ của bề tôi. Việc đưa chữ “trung” lên hàng
đầu như vậy của Hán Nho cũng là điều dễ hiểu bởi lúc này nhà Hán cần Nho giáo
để củng cố vương triều của mình. Có thể nói, chữ “trung” trong quan niệm của các
nhà Nho từ Đổng Trọng Thư trở đi đã khắc nghiệt hơn Nho giáo trước đây. Vai trò
của nhà vua, kẻ thống trị được đề cao tuyệt đối; còn những người dân, những người
bị thống trị thì chỉ thể hiện vai trò của mình ở việc phục tùng một cách đầy đủ,
nghiêm chỉnh quyền lực của nhà vua. Nhà vua đuợc coi là cha mẹ dân, người cha
trong gia đình lớn. Vì vậy, đức trung cũng là đức hiếu, tận trung cũng là tận hiếu.
Tuy nhiên, khi đức trung và đức hiếu mâu thuẫn với nhau thì bao giờ Nho giáo
cũng đề cao chữ “trung” hơn. Ngoài ra, vì mục đích bảo vệ quyền lợi và địa vị
thống trị của giai cấp phong kiến cho nên các nhà Nho còn thần bí hoá cái uy quyền
và địa vị ấy. Theo đó, vua là con của trời, ý vua là ý của trời. Như vậy, trên thực tế,
Nho giáo tuyệt đối hoá mối quan hệ một chiều, phủ nhận sự bình đẳng, dân chủ, tất
yếu dẫn đến việc con người thờ vua một cách mù quáng, máy móc.
Trong gia đình, Nho giáo đặc biệt chú trọng tới ba quan hệ: cha con, chồng
vợ, anh em.
Thứ nhất, quan hệ cha con: sau đức trung, đức hiếu là điều quan trọng đặc
biệt của Ngũ luân, là chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người. Quan hệ cha con là
một trong ba mối quan hệ cơ bản của con người. Trong mối quan hệ này, Nho giáo
đưa ra hai chuẩn mực “từ” và “hiếu”. Theo đó, người làm cha làm mẹ phải có đức
tính nhân từ, yêu thương, dưỡng dục con cái. Đồng thời, họ cũng cần trở thành tấm
gương cho con cháu mình. Và ngược lại, người làm con phải có đức hiếu. Xuất
8
phát từ chỗ đề cao vị trí của người cha, Nho giáo đặc biệt nhấn mạnh đức hiếu, tức
là nhấn mạnh đến trách nhiệm, nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ. Bởi vậy mà
như nhiều nhà Nho khẳng định: Hiếu là nết đầu trong năm nết, là gốc của đức Nhân
và nhiều đức khác. Nho giáo quan niệm, người mà không biết yêu thương cha mẹ
lại có thể đem lòng yêu thương người khác là điều không thể có được. Hiếu là cái
đạo phải làm của mỗi người sống trong xã hội. Đạo của vua cũng là ở đức hiếu đễ.
Mỗi nhà Nho lại yêu cầu và cụ thể hoá người con có hiếu khác nhau. Như theo
Mạnh Tử, một người con có hiếu là phải lấy vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái…;
người con bất hiếu là người không sinh đuợc con trai, để cha mẹ phải lo lắng…
Trong Hiếu kinh, người con có hiếu phải cần cù chịu khó học tập, rèn luyện bản
thân để có thể lập thân, hành đạo, nêu cao thanh danh đến đời sau để làm vinh hiển
cho cha mẹ… Là con, ai cũng phải biết phụng dưỡng cha mẹ khi còn sống. Chuyện
xưa có ghi lại cuộc trò chuyện của Khổng Tử và Tử Du về đạo hiếu, trong đó
Khổng Tử khẳng định, đời nay hễ ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu.
Thế nhưng, những loài thú như chó, như ngựa còn có thể được người ta nuôi nữa
huống chi là cha mẹ. Cho nên nuôi cha mẹ mà chẳng có lòng kính trọng thế thì lấy
gì để phân biệt việc loài chó, loài ngựa vẫn được người ta nuôi với việc cha mẹ
được con cái nuôi. Vậy nên, với ông, người con có hiếu không chỉ phải nuôi duỡng
cha mẹ mà quan trọng hơn, cao hơn là phải kính trọng cha mẹ. Đó chính là điểm
khác biệt giữa con người với con vật. Người con có hiếu phải có ý thức đầy đủ về
tình cảm cũng như bổn phận của mình đối với cha mẹ. Nho giáo coi trọng chữ Hiếu
không chỉ ở hình thức, ở việc làm mà điều cốt yếu chính là ở sự tận tâm, ở lòng
thành kính. Đến Đổng Trọng Thư trở đi, các nhà Nho ngày càng đề cao, tuyệt đối
hoá vị trí, uy quyền của người cha. Cha là trời, là giềng mối của con cái, con cái
phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của người cha. Thậm chí cha bảo con chết con
phải chết, nếu không chết là mắc tội bất hiếu. Nho giáo đã mang ý nghĩa giáo dục
con người rèn luyện đạo Hiếu theo một chiều để cuối cùng thực hiện đạo Trung
một cách máy móc, mù quáng.
9
Quan hệ vợ chồng: ở mối quan hệ này, Nho giáo đòi hỏi vợ chồng phải có
sự hoà thuận, phải có tình nghĩa với nhau. Theo đó, trong gia đình, người chồng
biết yêu thương, chăm lo cho vợ con và là chỗ dựa thực sự của họ. Ngược lại,
người vợ cũng phải có nghĩa vụ chăm lo, vun vén cho gia đình nhà chồng. Nho
giáo đề cao gia đình hoà thuận, nhưng mặt khác lại đánh giá thấp địa vị và vai trò
của người phụ nữ trong gia đình. Đặc biệt, đến Hán Nho, các nhà Nho đều đòi hỏi
người phụ nữ, người vợ phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của người chồng, cha
mẹ chồng. Từ chỗ coi gia đình là một nước nhỏ, Nho giáo đã xem nguời chồng
cũng chẳng khác gì ông vua. Do đó, trên thực tế, người vợ không có chút quyền
hành nào. Họ chỉ là người chịu sự chỉ bảo, sai khiến của chồng con. Để đuợc coi là
tiết hạnh, có đạo đức, người phụ nữ luôn phải tuân theo những quy định khắt khe
trong cái khuôn mẫu tam tòng, tứ đức của Nho giáo: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử. Nghĩa là: ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết
theo con. Người ta cũng thường nói "phu xướng phụ tùy", đặt nhiệm vụ chỉ về phía
người phụ nữ mà thuận lòng là đức tốt. Nếu vua được xem là trời của tôi, cha được
xem là trời của con thì trong mối quan hệ vợ chồng, chồng chính là trời của vợ.
Như vậy, Nho giáo đã hạ thấp vai trò của người phụ nữ, đặt họ vào địa vị những
con người phụ thuộc cha, chồng, con. Xuất phát từ quan điểm gia trưởng, bảo thủ,
trọng nam khinh nữ, các nhà Nho rất coi trọng mối quan hệ chồng - vợ. Và vì vậy
mà trên thực tế, sự bất bình đẳng giữa nam - nữ, chồng - vợ được thừa nhận.
Quan hệ anh em: Trong mối quan hệ này, Nho giáo đòi hỏi có "đễ". Huynh
lương đệ đễ, trưởng huệ ấu thuận. Điều đó có nghĩa là anh em một nhà phải có tình
yêu thương. Anh phải biết bao bọc, che chở, nhường nhị em. Còn em thì phải biết
kính trọng, nghe lời anh. Song thực chất, quan hệ này trong Nho giáo cũng giống
như quan hệ cha con. Bởi lẽ, xã hội của Nho giáo là xã hội quyền huynh, thế phụ.
Trong đó, anh là người có quyền thay cha quyết định mọi công việc của gia đình.
Nho giáo đưa ra các chuẩn mực đạo đức trong quan hệ anh em cũng chính nhằm
khẳng định quyền lớn của huynh trưởng và đòi hỏi sự thuận tùng của người em.
10
Quan hệ bạn bè: Nho giáo đặc biệt đề cao đức “tín” và đòi hỏi ai cũng phải
giữ chữ tín trong giao tiếp. "Một người không có chữ tín, không biết như thế nào là
có thể được (đạt yêu cầu) đây cũng giống như cỗ xe lớn không có chốt, xe nhỏ
cũng không có chốt thì làm sao có thể đi được". Quan hệ bạn bè cần căn cứ vào
chữ thành, chữ tín: thật thà với nhau, tin cậy và giúp đỡ nhau. Nếu không có lòng
tin thì sẽ không có tình bạn. Nhưng muốn có chữ tín thì trước hết phải có chữ trí,
phải biết người tốt xấu, hay dở để mà giao du, kết bạn nhằm làm điều thiện, điều
nhân. Tăng Tử nói: "Quân tử lấy văn mà họp bạn,lấy bạn giúp mình làm điều nhân.
Làm điều nhân là nền tảng vững chắc cho sự kết bạn". Là bạn bè thì phải sống chết
tình nghĩa, thẳng thắn, trung thực với nhau, giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn. Yêu
cầu chữ tín trong quan hệ này rất được các nhà Nho chú trọng. Có thể coi đó là điều
kiện tiên quyết để kết giao.
Như vậy, học thuyết đạo đức của Nho giáo đã phản ánh năm mối quan hệ
phổ biến, cơ bản trong xã hội. Song thực chất, Nho giáo nhấn mạnh tới Tam cương.
Đó là quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ. Trong gia đình, mối quan hệ cha con là
lớn nhất và nó được thể hiện bằng đạo "hiếu". Đây cũng chính là nguyên tắc cơ bản
của chế độ tông pháp, chế độ gia trưởng. Còn trong xã hội, quan hệ vua tôi là quan
trọng nhất, được thể hiện bằng đạo "trung". Trung là nguyên tắc cơ bản buộc mọi
người phải tuân theo để bảo vệ, duy trì trật tự xã hội của giai cấp phong kiến. Vì
vậy, có thể nói về thực chất, học thuyết đạo đức Nho giáo là sự thể hiện đường lối
chính trị của giai cấp phong kiến Trung Hoa.
* Ngũ thường
Khổng Tử khi dạy năm điều gọi là đạt đạo (ngũ luân) thì cũng dạy ba điều
gọi là đạt đức: trí, nhân, dũng. Đến Mạnh Tử, ông đưa ra tứ đoan gồm: Trắc ẩn chi
tâm; Cung kính chi tâm; Tu ố chi tâm; Thị phi chi tâm. Từ đó, hình thành tứ đức:
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí. Đến đời Hán, Đổng Trọng Thư bổ sung thêm Tín để tạo ra
Ngũ thường: Nhân, Lễ, Nghĩa, trí, Tín.
11
Nhân là phạm trù cơ bản trong học thuyết đạo đức Nho giáo. Nó phản ánh
mối quan hệ giữa con người với con người, con người với cộng đồng. Nhân là
chuẩn mực đạo đức để con người tu dưỡng, hoàn thiện mình. Người có Nhân đồng
nghĩa là người hoàn thiện nhất. Vì vậy, cũng có thể hiểu Nhân là nghĩa rộng nhất
của đạo làm người, bao trùm lên nhiều đức khác của con người như: lễ,
nghĩa...Người có đức Nhân trong quan niệm của Khổng Tử là người phải làm được
năm điều. Năm điều đó là " cung, khoan, tín, mẫn, huệ”. Cung kính nghiêm trang
sẽ không xảy ra hối hận; khoan dung sẽ được mọi người ủng hộ; thành thực được
mọi người tín nhiệm; mẫn cán có thể nâng cao hiệu suất công tác; có nhiều thành
tích công lao; ban phát nhiều ân huệ dễ sử dụng, sai khiến người khác". Ấy là đối
với mình. Còn đối với người, Nhân là phải yêu người. Như Khổng Tử đã nói: Kỷ
dụ lập nhi lập nhân, kỷ dụ đạt nhi đạt nhân. Nghĩa là, người Nhân muốn tự lập cho
mình thì phải lo lập cho người khác. Người Nhân muốn thành đạt cho mình thì
cũng phải lo cho người khác thành đạt. Khổng Tử còn cho rằng, người Nhân là
người mà điều mình muốn thì cũng làm cho người khác, điều mà mình không muốn
thì đừng làm cho người khác - đó là đức hạnh của người Nhân. Con người thể hiện
đức Nhân trong mối quan hệ nhiều vẻ của mình, chủ yếu rõ nhất là Ngũ luân. Theo
đó, nếu vua yêu thương, chăm lo giáo hóa dân thì nhà vua ấy là người có đức Nhân.
Bề tôi hết lòng phụng sự, trung thành với vua là người có đức Nhân. Người con có
hiếu với cha mẹ không chỉ nuôi dưỡng, chăm sóc mà điều cốt yếu phải có lòng
kính, như vậy mới là người Nhân. Trong bất kỳ mối quan hệ nào, nếu con người
làm trái với những nguyên tắc, chuẩn mực đã đặt ra thì bị coi là trái với đức Nhân,
là người không có đức Nhân. Ngoài ra, Nho giáo cũng quan niệm người nào làm
theo lễ là nhân, giữ đức tính là nhân, sống có nghĩa là nhân như Khổng Tử nói:
"Chế thắng mình theo lễ là nhân. Một khi chế thắng được mình để theo lễ thì thiên
hạ sẽ coi mình là người nhân". Như vậy, khi nói về đức Nhân, các nhà Nho đã đưa
ra nhiều biểu hiện và ý nghĩa khác nhau của nó. Nhân bao trùm nhiều đức khác của
con người như trung, hiếu, lễ..."Nhân chính là đạo làm người - sống với mình và
12
sống với người, đức Nhân là cái bền vững như núi sông. Với Khổng Tử, nếu đức
của trời đất là sinh thành, bắt nguồn từ đạo trung hòa, trung dung thì cái gốc của
dạo lý con người là trung thực và đạo đức, luân lý của con người là Nhân. Người có
đạo Nhân là bậc quân tử, nước có đạo Nhân thì bền vững như núi sông". Và cũng
theo Khổng Tử, dân cần đức Nhân còn bức thiết hơn nước và lửa. Như vậy, Nhân
là khái niệm chỉ chung cho mọi đức tính tốt đẹp của con người, là nghĩa rộng nhất
của đạo làm người, là tiêu chuẩn để đánh giá cách ứng xử của con người với cộng
đồngtheo yêu cầu đạo lý chung của xã hội.
Nghĩa có quan hệ mật thiết với Nhân. Nếu Nhân là để yêu người thì Nghĩa là
nói về mình, chỉnh mình. Nghĩa là để con người thực hiện trách nhiệm và tình cảm
của mình trong các mối quan hệ. Bởi vậy, tình vua tôi, cha con, chồng vợ thì chưa
đủ mà còn phải có nghĩa vua tôi, nghĩa cha con, nghĩa chồng vợ...Chính vì thế mà
Nho giáo cũng nhấn mạnh vai trò của Nghĩa: "Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã" (tức
là thấy nghĩa mà không làm, không phải là người dũng cảm). Mạnh Tử cũng đã nói
rằng: sự sống là điều ta muốn, điều nghĩa cũng là điều ta muốn; hai cái đó không
giữ được cả hai thì bỏ sống mà giữ lấy nghĩa. Với Khổng Tử, Nghĩa là điều hợp với
lẽ phải; còn Mạnh Tử thì đề cao ngang Nghĩa với Nhân, coi Nhân nghĩa là mục
đích của cuộc sống cá nhân. Tóm lại, Nghĩa có thể được hiểu là cái thuộc về lẽ
phải, là trách nhiệm của cá nhân đối với người khác, đối với cộng đồng. Ngoài ra,
Nghĩa cũng chính là lợi ích cộng đồng, xã hội. Theo đó, Nho giáo đã đặt lợi ích
cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân.
Lễ cũng là một phạm trù, chuẩn mực đạo đức cơ bản và là một biểu hiện của
đức Nhân. Người không có lòng nhân thì làm sao mà thi hành được Lễ. Người có
đức Lễ cũng đồng thời là người có đức Nhân. Về thực chất, trong quan niệm của
nhiều nhà Nho, Lễ chỉ tôn ti trật tự, kỷ cương của xã hội mà mọi người, mọi giai
cấp trong xã hội phải học và tuân theo. Người ta dùng Lễ để phân biệt tôn ti, thứ tự
của con người trong các mối quan hệ. Đồng thời, Lễ còn là những chuẩn mực, quy
tắc có tính bắt buộc đối với con người trong mọi hành vi, lời nói. Nó thể hiện thái
13
độ, ý thức, nếp sống giữ gìn, tôn trọng lễ nghi, kỷ cương xã hội. Nó khiến cho tư
tưởng nhân nghĩa trở thành những quy tắc chi phối suy nghĩ và hành động của mọi
người và được áp dụng trong toàn xã hội, đồng thời còn là tiêu chuẩn quan trọng
nhất để đánh giá con người. Theo Mạnh Tử, Lễ là hình thức biểu hiện của nhân
nghĩa, của việc thực hành đạo làm người theo những bậc khác nhau ứng với ngũ
luân. Tuân Tử thì coi Lễ dùng để xây dựng những thối quen luân lý, đạo đức cho
con người trong các mối quan hệ xã hội. Những quy phạm của Lễ đã trở thành cái
bắt buộc, là tiêu chuẩn phổ biến của xã hội để điều chỉnh hành vi của con người. Và
vì vậy, Lễ vừa mang ý nghĩa đạo đức, vừa mang tính chất pháp luật. Xã hội cần có
Lễ vì Lễ quy định danh phận từng người theo địa vị, đẳng cấp, không được tiếm
việt. Đúng như Khổng Tử nói: thiên hạ theo lễ thì trị, không theo lễ thì loạn; theo lễ
thì yên, không theo lễ thì nguy; trái lễ thì không xem, trái lễ thì không nghe, trái lễ
thì không làm. Đạo đức nhân nghĩa không có lễ thì không thành. Vua tôi, trên dưới,
cha con, anh em ... không lễ không định. Vai trò của Lễ rất quan trọng. “Cung kính
mà không biết lễ thì vất vả mệt nhọc, cẩn thận mà không biết lễ thì thành ra nhút
nhát, dũng cảm mà không biết lễ thì thành ra loạn nghịch, thẳng thắn mà không biết
lễ thì thành ra gay gắt, khắc bạc ”. Mạnh Tử cũng đã từng cho rằng, Lễ giảng điều
tín, sửa điều hòa mục, đề cao lòng từ nhượng, khiến người ta từ bỏ các mối tranh
chấp vì lợi riêng để về với tính thiện bẩm sinh. Nhờ có Lễ mà giáo dục, rèn luyện
được tâm tính con người, đưa họ từ ác trở thành thiện. Việc giáo dục theo Lễ chỉ ra
điều hay lẽ phải, hành động theo Lễ sẽ đạt được điều Nhân và cảm hóa được người
khác. Lễ ràng buộc con người nhằm mục đích cuối cùng là duy trì trật tự kỷ cương
xã hội phù hợp với yêu cầu và lợi ích của giai cấp thống trị. Với việc xây dựng Lễ,
Nho giáo cũng đồng thời tạo ra những sợi dây vô hình buộc chặt người dân vào chế
độ phong kiến từ đời này sang đời khác. Nó có ý nghĩa thực tiễn trong việc duy trì
ổn định trật tự xã hội. Do đó, giai cấp phong kiến đã sử dụng Lễ nhằm bảo vệ, phục
vụ lợi ích của mình, kìm hãm con người trong vòng trật tự, kỷ cương của xã hội
một cách khắt khe và vì vậy mà làm cho những yêu cầu đạo đức cần có của con
14
người trong các mối quan hệ xã hội đều bị quy định theo một chiều, theo một Lễ
thống nhất với triết lý duy tâm khách quan của Đổng Trọng Thư. Điều đó khiến
cho tình cảm con người trong ứng xử với nhau ở từng mối quan hệ trở nên máy
móc, cứng nhắc. Lễ được cụ thể hóa thành những nguyên tắc đạo đức và nó cũng là
một biện pháp để thi hành đường lối đức trị. Vì vậy mà Đức trị trong Nho giáo còn
gọi là Lễ trị.
Trí được gọi là điều kiện để Nhân có một cơ sở hợp lý về nhận thức. Nó
được hiểu là sự minh mẫn, hiểu biết nói chung để đánh giá con người, qua đó tự
xây dựng cho mình cách ứng xử như thế nào cho phải đạo. Khi Phàn Trì hỏi về trí,
Khổng Tử đáp: biết người. Theo ông, đề cử người ngay thẳng lên trên người xấu,
làm cho người xấu trở thành người ngay thẳng, ấy là trí. Trí là sự phân biệt đúng
sai, hay dở, tốt xấu, để tìm người mà dùng, mà chơi và cũng là để biết cách ứng xử
trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với cộng đồng. Đó là
điều quan trọng để dũng không mù quáng. Các nhà Nho luôn gắn liền Trí với đạo
đức, trí dũng có nhân thì lợi cho thiên hạ, trí dũng không nhân thì nhiễu thiên hạ.
Trí chân thực không tách rời nhân nghĩa. Người có trí mà trái nhân nghĩa, tách nó
khỏi nhân nghĩa thì đó chỉ là kẻ tiểu nhân.
Tín: Đây là đức tính thứ năm góp phần củng cố mối quan hệ giữa con người
với con người bằng lòng tin cậy lẫn nhau. Trong Ngũ luân, mối quan hệ bạn bè
phải đề cao chữ tín như là một điều kiện tiên quyết. Đặc biệt với người cầm quyền
thì đức Tín lại vô cùng quan trọng. Khổng Tử đã từng nêu lên ba yếu tố để cho
nước mạnh là: lương thực đủ, quân đội đủ, nhân dân tín. Trong hoàn cảnh nhất
định, nếu phải bớt đi một thì bớt quân đội, bớt đi hai thì bớt lương thực. Còn niềm
tin, chữ tín với dân thì không thể bớt. Nếu dân không tín thì vua và nước khó mà
giữ vững. Người trên mà ham điều tín, dân ai dám chẳng thật thà. Tín không những
là chuẩn mực đạo đức của mỗi con người mà còn là một đức cốt để trị bình, một
đức lớn trong quan hệ giao tiếp giữa người với người. Không có đức tín, không giữ
lời với nhau thì không có vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bầu bạn...Như vậy,
15
không chỉ có quan hệ bạn bè, mà nói chung trong quan hệ giữa người với người,
Nho giáo luôn coi trọng chữ tín, coi đó là một điều kiện tiên quyết khi kết giao.
Như vậy, bằng Tam cương, Ngũ thường, Nho giáo đã ràng buộc con người vào xã
hội phong kiến. Nho giáo với tư tưởng Đức trị đã đưa ra những chuẩn mực, quy tắc đạo
đức cụ thể: Nhân, Hiếu, Trung, Nghĩa... ứng với từng mối quan hệ. Những chuẩn mực ấy
không chỉ để hoàn thiện đạo đức con người mà đồng thời, chúng cũng là những công cụ,
phương tiện để ổn định xã hội. Và thực chất, nó bảo vệ xã hội đẳng cấp, duy trì trật tự kỷ
cương, đáp ứng nhu cầu, mục đích cai trị của giai cấp phong kiến. Muốn đưa ra đánh giá
đúng đắn về đạo đức Nho giáo, cần phải có cái nhìn khách quan, biện chứng, quan điểm
lịch sử cụ thể, nhìn nhận từ hai phương diện: tích cực và tiêu cực. Các nhà Nho xưa đã thấy
được sức mạnh của đạo đức trong việc lập lại ổn định xã hội. Đặc biệt trong thời đại Khổng
Tử, trật tự lễ nghĩa bị đảo lộn thì đạo đức chính là một công cụ hiệu quả đưa xã hội loạn trở
về trị. Và thực tế cho thấy, ở mức độ nhất định, Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo
nói riêng cũng đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của chế độ phong kiến Trung Hoa.
Những yêu cầu cơ bản về đạo đức mà Nho giáo đưa ra như: vua phải yêu thương bề tôi, bề
tôi trung thành với vua; trong gia đình, con cái phải hiếu với cha mẹ...đều mang những giá
trị tích cực để hoàn thiện đạo đức con người. Nếu mọi người dân trong thiên hạ đều thực
hiện Lễ tốt thì trật tự xã hội được bền vững, kỷ cương được bảo đảm. Nếu ai cũng cố gắng
làm điều Nhân thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn. GS Phan Văn Các đã từng nhận xét: “Nho giáo với
đặc điểm là quy giá trị nhân sinh thành giá trị xã hội cho rằng con người phải có trách
nhiệm cao với gia đình, xã hội, đất nước và cả thế giới, đồng thời quy giá trị nhân sinh vào
giá trị đạo đức, lấy “hiếu nhân” (hiếu với cha mẹ) làm nền tảng, lấy gia đình làm bản vị qua
đó duy trì mối quan hệ hài hòa giữa người với người. Nho giáo trên một mức độ đáng kể có
thể có tác dụng phụ trợ, điều hòa tích cực và như vậy, trong quá trình hiện đại hóa hoặc ở
thời kỳ sau hiện đại hóa có thể có tác dụng tẩy rửa, quét dọn những thứ bùn dơ rác
rưởi không thể tránh khỏi mà hiện đại hóa mang kèm theo”.
Bên cạnh những giá trị tích cực ấy, đạo đức Nho giáo còn có nhiều hạn chế. Trước
hết, các nhà Nho đã đề cao đến mức tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức, coi đó là phương
16
tiện, công cụ hiệu quả nhất để lập lại ổn định, trật tự xã hội. Tư tưởng cho rằng cai trị nhân
dân không chỉ bằng pháp luật mà trước hết và chủ yếu bằng đạo đức nhân nghĩa, lễ giáo là
điều không tưởng, dễ bị lợi dụng, xuyên tạc. Hơn nữa, vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức
trong giáo dục, xây dựng con người nên Nho giáo không thể tạo ra những con người kinh
bang tế thế, đủ năng lực để phát triển đất nước về mọi mặt. Những phẩm chất đạo đức mà
Nho giáo đưa ra, từ Đổng Trọng Thư, chúng đã trở nên khắc nghiệt hơn. Quan hệ Tam
cương có tính chất phiến diện và chật hẹp. Mặc dù khi đề cập tới năm mối quan hệ cơ bản
của con người, Nho giáo đưa ra những yêu cầu, nguyên tắc với cả hai phía. Song trên thực
tế, trước sau chỉ trói buộc, nhấn mạnh trách nhiệm, nghĩa vụ của bề tôi, của người làm con,
của người vợ... Người phụ nữ thì bị dồn nén trong vòng tứ đức. Các quy tắc, chuẩn mực ấy
ngày càng khô cứng, gò bó con người. Chúng đã tỏ ra lạc hậu, bảo thủ. “Nho giáo lấy đạo
đức để đánh giá hơn kém của con người, tốt xấu của chủ trương, chính tà của hành động,
thậm chí hay dở của văn chương, thấp cao của chế độ xã hội... Do đó, trị đạo Nho giáo dựa
vào lòng nhân của vua quan là chính, xem thường pháp luật. Nhân trị, đức trị Nho giáo tựu
chung lại là tùy tiện, độc tài”. Và ở mức độ nhất định, nó đã làm cản trở bước tiến của lịch
sử.
Như vậy, Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng vừa có những giá trị
tích cực, đồng thời cũng có nhiều điểm hạn chế. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới của Đảng, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu
nước mạnh, xã hội phồn vinh, văn minh hạnh phúc, “ddooios xử thỏa đáng với văn hóa
truyền thống Việt Nam vốn chịu sâu sắc ảnh hưởng Nho giáo là một yêu cầu có tính
nguyên tắc”. Chúng ta cần đánh giá, xem xét chúng một cách khách quan, đúng đắn để từ
đó có thể kế thừa, chọn lọc và biến đổi những giá trị ấy cho phù hợp với yêu cầu của công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước ta hiện nay.
17
KẾT LUẬN
Đạo đức là một vấn đề được coi là lớn nhất trong Nho giáo. Nó bao trùm lên
toàn bộ cuộc sống của con người, từ chính trị đến các vấn đề về văn hóa xã hội.
Học thuyết đạo đức của Nho giáo phản ánh năm mối quan hệ phổ biến trong xã hội
con người: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Đồng thời, các nhà Nho
cũng đưa ra các chuẩn mực, phẩm chất đạo đức như: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nó
không chỉ có tác dụng hoàn thiện đạo đức con người mà đó cũng chính là những
công cụ, phương tiện để giai cấp phong kiến bảo vệ địa vị thống trị của mình. Vì
vậy, có thể nói, về thực chất, học thuyết đạo đức xã hội của Nho giáo là sự thể hiện
đường lối chính trị phong kiến đẳng cấp và gia trưởng. Nho giáo coi học thuyết này
là cái có thể giúp cho xã hội được ổn định, trật tự xã hội được khôi phục. Do đó, tư
tưởng Đức trị được đề cao. Mặc dù Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói
riêng còn nhiều hạn chế do điều kiện lịch sử như tính chất bảo thủ, lạc hậu…, song
không thể phủ nhận rằng, nó đã góp một phần quan trọng cho sự phát triển nhiều
mặt trong lịch sử Trung Hoa.
Nho giáo ở Việt Nam không phải hoàn toàn là Nho giáo Trung Quốc. Nó đã
được khúc xạ, biến đổi và cấu trúc lại bởi người Việt Nam. Chúng ta phải khẳng
định rằng, Nho giáo đóng vai trò không nhỏ trong lịch sử Việt Nam và cho đến nay,
nó vẫn có những tác động nhất định. Chúng ta có thể học tập thái độ của Hồ Chí
Minh đối với việc vừa khai thác những nhân tố hợp lý của Nho giáo, vừa lên án
những tiêu cực của nó. Người đã cải biến nhiều khái niệm của Nho giáo nói chung
và đạo đức Nho giáo nói riêng để chúng chứa đựng những nội dung mới. Trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần có những quan điểm lý
luận đúng đắn để xây dựng một nền đạo đức mới từ trong gia đình đến ngoài xã
hội, cùng những phương hướng tu dưỡng cá nhân trên cơ sở phát huy và đổi mới
các giá trị truyền thống dân tộc, trong đó có những nhân tố tích cực của đạo đức
Nho giáo. Khi đưa ra chiến lược phát triển con người toàn diện, Đảng ta đã đề ra
nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng con người và thế hệ
18
người Việt Nam tha thiết, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
có đạo đức trong sáng…giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc…là những
người xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên như lời căn dặn của Bác Hồ.
Như vậy, đạo đức là một phần không thể thiếu của con người Việt Nam toàn diện.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, luật pháp còn đang trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện thì các giá trị, chuẩn mực đạo đức vẫn đóng vai trò là hệ chuẩn phổ quát
đối với việc phát triển văn hóa, phát triển con người. Chúng ta đã kế thừa những tư
tưởng đạo đức Nho giáo, song không phải là sự sao chép một cách đơn giản, máy
móc. Trong khi thực hiện nhiệm vụ này, chúng ta quán triệt tinh thần, quan điểm của
Hồ Chí Minh rằng: học thuyết Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều
hay trong đó thì ta nên học, cũng không chỉ sử dụng cái cũ thành ra cái mới mà còn
phải làm cho nó mang nội dung và hình thức mới. Ngày nay, chúng ta cũng đang tiếp
tục đi theo con đường đó không chỉ riêng với Nho giáo. Không thể phủ nhận những di
sản của Nho giáo, đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong xã hội và con người
Việt Nam hôm nay, mặc dù trên thực tế không ít người đã và đang suy nghĩ, hành
động theo Nho giáo. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác những yếu tố tích cực
và hạn chế những nhân tố tiêu cực của nó, nhằm đào tạo ra những con người đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà trước mắt là sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Điều này trước hết phụ thuộc
vào ý thức chủ động cũng như tinh thần sáng tạo của Đảng và nhân dân ta. Và điều
quan trọng chính là phương pháp kế thừa, khai thác nó. Phê phán hệ thống lý luận đã
lỗi thời của Nho giáo, kế thừa và cải tạo các yếu tố tích cực của nó là hai mặt của vấn
đề khai thác truyền thống. Việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam
giờ đây là một tất yếu khách quan. Tất nhiên, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ đó,
chúng ta cần biết chọn lọc, kế thừa, đổi mới những giá trị của đạo đức truyền thống,
trong đó có tư tưởng đạo đức Nho giáo. Đó cũng chính là nguyên tắc để xây dựng nền
đạo đức mới và hoàn thiện con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Bình (2005), Học thuyết chính trị của Nho giáo và sự thể
hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX), Luận án tiến
sĩ triết học
2. Nguyễn Thanh Bình (2001), Quan niệm của Nho giáo về các mối quan hệ xã
hội, ảnh hưởng và ý nghĩa của nó với xã hội ta ngày nay – Luận án tiến sĩ
triết học.
3. Nguyễn Thanh Bình (1999), “Cách xem xét, đánh giá con người thông qua
các mối quan hệ xã hội cơ bản của Nho giáo – Một giá trị kế thừa và phát
triển”, Triết học, (3), Tr.22-24.
4. Doãn Chính (chủ biên) (2002), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB
Thanh niên, Hà Nội.
5. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, NXB Văn hóa, Hà Nội.
6. Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Trần Trọng Kim (2001), Nho giáo, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Thanh Mai (2004), “Tư tưởng “Đức – tài” của Khổng Tử và tư
tưởng “Hồng - chuyên” của Hồ Chí Minh”, Triết học, (10), Tr 34-41.
9. Khổng Tử, (2000), NXB Văn hóa, Hà Nội.
10.Khổng Phu Tử và Luận Ngữ (2004), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20