MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cộng hòa Sigapore là quốc gia nhỏ nhất Đông Nam Á nằm ở cực nam bán
đảo Mã Lai, phía bắc giáp Ma – lai – xi – a, đông nam giáp In – đô – nê – xi – a,
nằm giáp eo biển Ma – lắc – ca, trên đường từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ
Dương. Đất nước nhỏ bé có diện tích 692,7 km 2 , gồm 64 đảo 1 đảo lớn và 63
đảo nhỏ. Singapore từng là một làng cá của người Mã Lai khi nó bị chiếm làm
thuộc địa của thực dân Anh vào thế kỉ XIX. Sau đó, quân đội Nhật chiếm đóng
trong thế chiến thứ hai, và sau nữa nước này là một phần trong sự liên kết tạo
thành Liên bang Mã Lai.
Khi Singapore giành độc lập, với rất ít tài nguyên thiên nhiên, đây là một
nước không ổn định về chính trị xã hội và không phát triển về kinh tế. Đầu tư
nước ngoài và sự công nghiệp hóa do nhà nước chỉ đạo đã tạo ra một nền kinh tế
dựa chủ yếu trên xuất khẩu hàng điện tử và gia công. Hiện nay, Singapore là một
thành phố quốc tế náo nhiệt với môi trường đẳng cấp hàng đầu thế giới và là
mảnh đất được phủ kín bởi những tòa nhà cao tầng xen lẫn cây xanh rợp bóng.
Một khía cạnh thú vị khác mà bạn sẽ tìm thấy ở Singapore chính là sự tổng hòa
của nhiều nền văn hóa đa dạng, nơi con người của nhứng sắc tộc và tín ngưỡng
khác nhau cùng chung sống. Được sự phát triển như ngày nay bạn có thể khám
phá thêm về thời kì cận hiện đại của đất nước ngày nay và sau đây.
Sự phát triển của “con rồng Châu Á” Singapore trong vài thập niên gần
đây cho thấy phát triển kinh tế là sự lựa chọn đúng đắn của Chính phủ
Singapore. Đó là bài học quý báu của các nước đang phát triển hiện nay, trong
đó có Việt Nam. Từ những lý do trên tôi chọn đề tài “Singapore thời kỳ cận
hiện đại” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
+ Phân tích được nguyên nhân phát triển của Singapore trong buổi “bình
minh” của quá trình hình thành đất nước.
2
+ Rút ra được những bài học kinh nghiệm mà Việt Nam cần học tập ở
Singapore trên con đường Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, cũng như
xây dựng Việt Nam trở thành “con rồng Châu Á” nói chung.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Phân tích, trình bày, lấy dẫn chứng về sự phát triển của Singapore trong
buổi “bình minh” xây dựng và phát triển đất nước. Từ đó rút ra được bài học ý
nghĩa của vịêc nghiên cứu vấn đề trên.
3. Kết cấu của tiểu luận bao gồm:
Phần Mở đầu, Kết luận, và phần nội dung với 4 mục:
1. Quá trình hình thành nhà nước Singapore hiện đại (1819)
1.1. Singapore dưới sự thống trị của Chủ nghĩa thực dân xâm lược.
1.2. Sự phát triển ban đầu (1819 – 1826)
1.3. Hình thành các khu định cư eo biển (1826 – 1867)
1.4. Thuộc địa vương thất các khu định cư Eo biển (1867 - 1942)
2. Singapore trong thời kỳ bị chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai (1942 1955)
2.1. Singapore trong thời kỳ bị Nhật Bản chiếm đóng.
2.2. Thời kỳ hậu chiến (1945 - 1955)
3.Thời kỳ Singapore xây nền tự trị (1955 - 1965)
3.1. Singapore xây nền tự trị (1955 – 1963)
3.2. Singapore trong Malaysia (1963 - 1965)
4. Nước cộng hòa Singapore (1965 - nay)
4.1. Giai đoạn 1965 đến 1979
4.2. Giai đoạn 1980 và 1990
4.3. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay.
3
NỘI DUNG
1. Quá trình hình thành nhà nước Singapore hiện đại (1819)
1.1. Singapore dưới sự thống trị của Chủ nghĩa thực dân xâm lược.
Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, quần đảo Mã Lai dần bị các cường quốc thực
dân châu Âu chiếm giữ, bắt đầu khi người Bồ Đào Nha đến Ma – lac - ca vào
năm 1509. Trong thế kỷ 17, người Hà Lan thách thức ưu thế ban đầu của người
Bồ Đào Nha, Hà Lan kiểm soát hầu hết các bến cảng trong khu vực. Người Hà
Lan thiết lập độc quyền mậu dịch trong quần đảo, đặc biệt là hương liệu - đương
thời là sản phẩm quan trọng nhất của khu vực. Các cường quốc thực dân khác,
trong đó có người Anh, bị hạn chế cho một sự hiện diện tương đối nhỏ
Năm 1818, Stamford Raffles được bổ nhiệm làm Phó Thống đốc của
Thuộc địa Anh tại Bencoolen. Ông quả quyết rằng Anh Quốc nên thay thế Hà
Lan trong vai trò là thế lực chi phối trong quần đảo, do tuyến đường mậu dịch
giữa Trung Quốc và Ấn Độ thuộc Anh đi qua quần đảo. Người Hà Lan gây khó
khăn cho hoạt động mậu dịch của Anh Quốc trong khu vực thông qua việc cấm
người Anh hoạt động trong các bến cảng do Hà Lan kiểm soát hoặc đánh thuế
cao. Stamford Raffles hy vọng thách thức người Hà Lan bằng việc thiết lập một
bến cảng mới dọc theo eo biển Ma - lac - ca, hành lang chính cho tàu thuyến
trên tuyến mậu dịch Ấn Độ - Trung Quốc. Ông thuyết phục Toàn quyền Ấn
Độ Francis Rawdon - Hastings và thượng cấp của mình tại Công ty Đông Ấn
Anh để họ tài trợ cho một cuộc viễn chinh nhằm tìm kiếm một căn cứ mới của
Anh trong khu vực.
Stamford Raffles đến Singapore vào ngày 28 tháng 1 năm 1819 và nhanh
chóng nhận ra đảo là một sự lựa chọn đương nhiên để thiết lập bến cảng mới.
Đảo nằm đầu nam của bán đảo Mã Lai, gần eo biển Ma – lac - ca, và sở hữu một
cảng nước sâu tự nhiên, có các nguồn cung nước ngọt, và gỗ để tu bổ tàu.
Stamford Raffles phát hiện một khu định cư nhỏ của người Mã Lai, với dân số
vài trăm, tại cửa sông Singapore, thủ lĩnh là Temenggong Abdu'r Rahman. Trên
danh nghĩa, đảo nằm dưới quyền cai trị của Quốc vương Johor, song quân chủ
4
này nằm dưới sự khống chế của người Hà Lan và Bugis. Tuy nhiên, vương quốc
bị suy yếu do phân tranh bè phái và Temenggong Abdu'r Rahman và các quan
viên của mình trung thành với anh của Tengkoo Rahman là Tengku Hussein (hay
Tengku Long) - người đang sống lưu vong tại Riau. Với trợ giúp của
Temenggong, Stamford Raffles tìm cách bí mật đưa Hussein trở về Singapore.
Stamford Raffles đề nghị công nhận Tengku Hussein là quốc vương hợp pháp
của Johor và cung cấp cho người này một khoản báo đáp hàng năm; đổi lại,
Hussein sẽ trao cho Anh Quốc quyền được thiết lập một trạm mậu dịch tại
Singapore. Một hiệp ước chính thức được ký kết vào ngày 6 tháng 2 năm 1819
và Singapore hiện đại ra đời.
1.2. Sự phát triển ban đầu (1819 – 1826)
Stamford Raffles trở về Bencoolen không lâu sau khi ký hiệp ước và để
cho William Farquhar chịu trách nhiệm về khu định cư mới, với một số pháo và
một trung đoàn nhỏ gồm các binh sĩ Ấn Độ. Thiết lập một thương cảng từ sơ
khai là một nỗ lực gian nan. Chính quyền của Farquhar trợ cấp tương đối và bị
cấm thu thuế cảng để tăng thu nhập do Stamford Raffles quyết định rằng
Singapore sẽ là một cảng tự do. Farquhar khuyến khích những người định cư đến
Singapore, và cử một viên chức Anh Quốc đến đảo Saint John để mời tàu thuyền
qua lại đến dừng chân tại Singapore. Do tin tức về cảng tự do lan rộng khắp quần
đảo, các thương nhân người Bugis, Hoa Peranakan, vàẢ Rập kéo đến đảo, tìm
cách nhằm phá vỡ hạn chế mậu dịch của người Hà Lan. Trong năm bắt đầu hoạt
động, trao đổi mậu dịch thông qua Singapore trị giá 400.000$ (đô la Tây Ban
Nha). Đến năm 1821, dân số đảo tăng lên khoảng 5.000, và khối lượng mậu dịch
là 8 triệu $. Dân số đạt mốc 10.000 vào năm 1825, và khối lượng mậu dịch là 22
triệu $, Singapore vượt qua cảng Penang tồn tại từ lâu.
Stamford Raffles trở về đến Singapore trong năm 1822 và phê phán nhiều
quyết định của Farquhar, bất chấp việc Farquhar thành công trong việc lãnh đạo
khu định cư vượt qua những năm đầu khó khăn. Chẳng hạn như nhằm tạo ra thu
nhập cần thiết, Farquhar dùng đến việc bán các giấy phép cờ bạc và bán thuốc
phiện, điều mà Stamford Raffles cho là các tệ nạn xã hội. Khó chịu trước sự lộn
5
xộn của thuộc địa, Stamford Raffles bắt đầu phác thảo một bộ các chính sách
mới cho khu định cư. Ông cũng sắp xếp Singapore thành những phân khu chức
năng và dân tộc theo Kế hoạch Stamford Raffles về Singapore.
Ngày 7 tháng 6 năm 1823, John Crawfurd ký một hiệp ước thứ nhì với
Quốc vương và Temenggong, theo đó mở rộng thuộc địa của Anh Quốc ra hầu
hết đảo. Quốc vương và Temenggong giao lại hầu hết các quyền quản trị của họ
đối với đảo, bao gồm cả thu thuế cảng để đổi lấy các khoản báo đáp hàng tháng
trọn đời lần lượt là 1500$ và 800$. Hiệp định này đưa đảo nằm dưới hệ thống
pháp luật Anh Quốc, với điều khoản là nó sẽ đưa vào chương mục các phong
tục, truyền thống và tôn giáo Mã Lai. Stamford Raffles thay thế chức thống đốc
của Farquhar bằng một quản trị viên có năng lực và tiết kiệm là John
Crawfurd. Trong tháng 10 năm 1823, Stamford Raffles rời đi để về Anh Quốc và
sau đó không bao giờ trở về Singapore. Năm 1824, Quốc vương Johor nhượng
vĩnh viễn Singapore cho Công ty Đông Ấn Anh.
1.3. Hình thành các khu định cư eo biển (1826 – 1867)
Thiên Phúc cung hoàn thành năm 1842, đây là một địa điểm thờ phụng
của người nhập cư ban đầu.
Chính phủ Hà Lan nhanh chóng kháng nghị với Anh Quốc về việc xâm
phạm khu vực ảnh hưởng của Hà Lan. Tuy nhiên, do Singapore nhanh chóng nổi
lên là một thương cảng quan trọng, Anh Quốc củng cố yêu sách của mình về
đảo. Hiệp định Anh - Hà Lan 1824 củng cố vị thế của Singapore là một thuộc địa
của Anh Quốc, chia cắt quần đảo Mã Lai giữa hai cường quốc thực dân mà theo
đó khu vực phía bắc của eo biển Malacca, kể cả Singapore, nằm trong khu vực
ảnh hưởng của Anh Quốc. Năm 1826, Singapore cùng với Penang và Malacca
hợp thành Các khu định cư Eo biển, do Công ty Đông Ấn Anh quản lý. Năm
1830, Các khu định cư Eo biển trở thành mộtresidency, hay phân khu, của khu
quản hạt Bengal thuộc Ấn Độ thuộc Anh.
Trong những thập niên sau đó, Singapore phát triển thành một cảng quan
trọng trong khu vực. Thành công này có nhiều nguyên nhân, bao gồm mở cửa thị
trường tại Trung Quốc, sự xuất hiện của tàu hơi nước viễn dương, và sản xuất
6
cao su và thiếc tại Malaya. Vị thế là một cảng tự do tạo lợi thế quyết định cho
Singapore so với các đô thị cảng thuộc địa khác là Batavia (Jakarta) và Manila những nơi áp thuế quan, và nó thu hút nhiều thương nhân người Hoa, Mã Lai,
Ấn Độ, và Ả Rập hoạt động tại Đông Nam Á đến Singapore. Việc khánh
thành kênh đào Suez vào năm 1869 sẽ thúc đẩy hơn nữa mậu dịch tại Singapore.
Năm 1880, trên 1,5 triệu tấn hàng hóa thông qua Singapore mỗi năm, với khoảng
80% hàng hóa được vận chuyển trên những tàu hơi nước. Hoạt động thương
nghiệp chính là mậu dịch trung chuyển, ngành này thịnh vượng trong môi trường
không bị đánh thuế và có ít hạn chế. Nhiều nhà buôn được thiết lập tại
Singapore, chủ yếu là bởi các hãng buôn châu Âu, song cũng có các thương nhân
Do Thái, Trung Hoa, Ả Rập, Armenia, Hoa Kỳ, và Ấn Độ. Cũng có nhiều
thương nhân trung gian người Hoa, họ xử lý hầu hết trao đổi mậu dịch giữa các
thương nhân châu Âu và châu Á. Đến năm 1827, người Hoa trở thành dân tộc
lớn nhất tại Singapore. Họ bao gồm những người Peranakan là hậu duệ của
những người Hoa định cư ban đầu, và những phu người Hoa kéo sang Singapore
để thoát khỏi khó khăn kinh tế tại Hoa Nam. Số lượng người Hoa tăng lên nhờ
những người chạy trốn tình trạng rối loạn bắt nguồn từ Chiến tranh Nha phiến
thứ nhất (1839 – 1842) và Chiến tranh Nha phiến thứ hai (1856 – 1860). Nhiều
người đến Singapore với thân phận lao công khế ước bần cùng hóa và họ chủ
yếu là nam giới. Người Mã Lai là dân tộc lớn thứ hai cho đến thập niên 1860, họ
làm việc trong các lĩnh vực ngư nghiệp, thủ công nghiệp, hoặc là những người
làm công ăn lương trong khi tiếp tục sống chủ yếu trong những kampung (làng).
Đến năm 1860, người Ấn Độ trở thành dân tộc lớn thứ hai. Nhóm người này
gồm có các lao động không làng nghề, thương nhân, và những tù nhân bị đưa
đến để thực hiện các dự án công trình công cộng như phát quang rừng rậm hay
làm đường. Cũng có các binh sĩ Sepoy người Ấn Độ được Anh Quốc đưa đến
đồn trú tại Singapore.
Bất chấp tầm quan trọng ngày càng tăng của Singapore, chính phủ quản lý
đảo ở trong tình trạng thiếu nhân sự, không hiệu quả và không quan tâm đến
phúc lợi của dân cư. Các quản trị viên thường được phái từ Ấn Độ và không
7
quen thuộc với văn hóa và ngôn ngữ địa phương. Trong khi dân số tăng gấp bốn
lần từ năm 1830 đến năm 1867, thì quy mô dịch vụ công tại Singapore vẫn bất
biến. Hầu hết mọi người không tiếp cận được với các dịch vụ y tế công và những
dịch bệnh như tả và đậu mùa làm trầm trọng vấn đề y tế, đặc biệt là trong các
khu vực đông đúc của tầng lớp lao động. Như một hậu quả của việc chính phủ
thiếu năng lực và dân cư chủ yếu là nam giới, tạm thời, và bản chất vô học, xã
hội không có luật pháp và hỗn loạn. Năm 1850, chỉ có 12 sĩ quan cảnh sát trong
thành phố với gần 60.000 dân. Mại dâm, cờ bạc, và lạm dụng ma túy là những
hiện tượng phổ biến. Các bang hội tội phạm của người Hoa vô cùng hùng mạnh,
và một số bang hội có hàng vạn thành viên. Những cuộc chiến đấu tranh giành
địa bàn giữa các bang hội đối địch đôi khi khiến cho hàng trăm người thiệt mạng
và các nỗ lực nhằm áp chế họ có kết quả hạn chế.
1.4. Thuộc địa vương thất các khu định cư Eo biển (1867 - 1942)
Singapore tiếp tục phát triển, những yếu kém trong việc quản lý Các khu
định cư Eo biển trở nên trầm trọng và cộng đồng thương nhân của Singapore bắt
đầu chống đối mãnh liệt sự cai trị của Ấn Độ thuộc Anh. Ngày 1 tháng 4 năm
1867, chính phủ Anh Quốc chấp thuận thiết lập Các khu định cư Eo biển với vị
thế là một thuộc địa vương thất riêng biệt. Thuộc địa mới này nằm dưới quyền
quản lý của một thống đốc, được giám sát từ Bộ Thuộc địa tại Luân Đôn. Một
hội đồng hành pháp và một hội dồng lập pháp phụ giúp cho thống đốc. Mặc dù
các thành viên trong hai hội đồng không do bầu cử, song theo thời gian càng có
nhiều đại diện cho dân cư địa phương.
Chính phủ thuộc địa bắt đầu tiến hành một số biện pháp nhằm giải quyết
các vấn đề xã hội nghiêm trọng tại Singapore. Một thể chế bảo hộ người Hoa
dưới quyền Pickering được thành lập vào năm 1877 để giải quyết những nhu cầu
của cộng đồng người Hoa, đặc biệt là kiểm soát những lạm dụng tồi tệ nhất trong
việc mua bán phu và bảo vệ nữ giới người Hoa khỏi mại dâm ép buộc. Năm
1889, Thống đốc Cecil Clementi Smith cấm chỉ các bang hội, khiến chúng chuyển
sang hoạt động ngầm. Tuy thế, nhiều vấn đề xã hội kéo dài đến thời kỳ hậu chiến,
trong đó có thiếu hụt nhà ở, y tế và chất lượng sinh hoạt tệ. Năm 1906, Đồng
8
Minh hội thành lập phân nhánh Nam Dương của họ tại Singapore, đóng vai trò là
trụ sở của tổ chức tại Đông Nam Á. Dân cư người Hoa nhập cư tại Singapore
quyên góp hào phóng cho Đồng Minh hội, tổ chức này tiến hành Cách mạng Tân
Hợi năm 1911, dẫn đến việc thành lập Trung Hoa Dân Quốc.
Chiến tranh thế giới thứ nhất không có ảnh hưởng nhiều đến Singapore:
xung đột trong đại chiến này không lan đến Đông Nam Á. Sự kiện quân sự địa
phương quan trọng nhất trong thế chiến là binh biến năm 1915 do các binh
sĩ sepoy người Hồi giáo Ấn Độ đồn trú tại Singapore tiến hành. Sau khi nghe
được những tin đồn về việc có kế hoạch đưa họ đi chiến đấu với Đế quốc
Ottoman, các binh sĩ nổi dậy, sát hại những sĩ quan của họ và một vài thường
dân Anh Quốc trước khi bị quân đến từ Johor và Miến Điện trấn áp.
Sau chiến tranh, chính phủ Anh Quốc dành nguồn lực đáng kể để xây
dựng một căn cứ hải quân tại Singapore, một sự ngăn chặn đối với tham vọng
ngày càng tăng của Đế quốc Nhật Bản. Căn cứ hoàn thành vào năm 1939, có đủ
thùng nhiên liệu để hỗ trợ cho toàn bộ hải quân Anh Quốc trong sáu
tháng. Winston Churchill ca ngợi nó như "Gibraltarcủa phương Đông." Tuy
nhiên, căn cứ không có hạm đội. Hạm đội Tổ quốc của Anh Quốc đóng tại châu
Âu và theo kế hoạch là sẽ nhanh chóng đi đến Singapore khi cần thiết. Tuy
nhiên, sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ vào năm 1939, Hạm đội hoàn
toàn được sử dụng để bảo vệ Anh Quốc.
2. Singapore trong thời kỳ bị chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai
(1942 - 1955)
2.1. Singapore trong thời kỳ bị Nhật Bản chiếm đóng.
Vào tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, khởi đầu
một cách nghiêm túc Chiến tranh Thái Bình Dương. Singapore là một căn cứ lớn
của Đồng Minh trong khu vực, là một mục tiêu quân sự hiển nhiên. Các chỉ huy
quân sự của Anh Quốc tại Singapore cho rằng cuộc tấn công của Nhật Bản sẽ
đến theo đường biển từ phía nam, do rừng rậm Malaya ở phía bắc sẽ đóng vai trò
là một rào cản tự nhiên chống xâm nhập. Mặc dù người Anh Quốc phác thảo một
kế hoạch nhằm đối phó với một cuộc tấn công vào bắc bộ Malaya, song việc
9
chuẩn bị chưa hoàn tất. Quân đội Anh Quốc tự tin rằng "Pháo đài Singapore" sẽ
kháng cự được bất kỳ cuộc tấn công nào của người Nhật và sự tự tin này được
củng cố khi Lực lượng Z đến, đây là một đội các chiếm hạm của Anh Quốc được
phái đi phòng thủ Singapore, gồm có HMS Prince of Wales, và HMS Repulse.
Ngày 8 tháng 12 năm 1941, quân đội Nhật Bản đổ bộ lên Kota Bharu tại
bắc bộ Malaya. Chỉ hai ngày sau khi bắt đầu xâm chiếm Malaya, Nhật Bản đánh
chìm Prince of Wales vàRepulse ngoài khơi bờ biển Kuantan tại Pahang, đây là
thất bại tệ nhất của Hải quân Anh Quốc trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Yểm
trợ hàng không của Đồng Minh không đến kịp để bảo vệ hai tàu chủ lực. Sau sự
kiện này, Singapore và Malaya bị không kích hàng ngày, các công trình dân sự
như bệnh viện hay điếm ốc cũng là mục tiêu.
Quân đội Nhật Bản nhanh chóng tiến về phía nam qua bán đảo Mã Lai,
tiêu diệt hoặc bỏ qua kháng cự của Đồng Minh. Do kháng cự thất bại trước
bước tiến của quân Nhật, lực lượng Đồng Minh buộc phải triệt thoái về phía nam
hướng đến Singapore. Ngày 31 tháng 1 năm 1942, Nhật Bản chinh phục toàn bộ
bán đảo Mã Lai và sẵn sàng tấn công Singapore.
Lực lượng Đồng Minh phá đường đắp cao nối Johor và Singapore nhằm
ngăn chặn quân đội Nhật Bản. Tuy nhiên người Nhật tìm cách vượt qua eo biển
Johor trên những thuyền khí nén vào các ngày sau đó. Trong giai đoạn này, Lực
lượng Đồng Minh và quân tình nguyện từ dân cư Singapore tiến hành vài trận
chiến nhằm chống bước tiến của quân đội Nhật Bản, chẳng hạn như trận Pasir
Panjang. Tuy nhiên, do hầu hết công sự phòng thủ bị phá vỡ và nguồn tiếp tế cạn
kiệt, Trung tướng Arthur Percival lệnh cho lực lượng lượng Đồng Minh tại
Singapore đầu hàng Lực lượng Nhật Bản dưới quyền Tướng Tomoyuki
Yamashita vào Tết Nguyên Đán năm Nhâm Ngọ, 15 tháng 2 năm 1942. Khoảng
130.000 binh sĩ Ấn Độ, Úc, và Anh Quốc trở thành tù binh chiến tranh, nhiều
người trong số họ sau đó được đưa đến Miến Điện, Nhật Bản, Triều Tiên, hay
Mãn Châu để lao động như nô lệ. Sự kiện Singapore thất thủ là cuộc đầu hàng
lớn nhất của lực lượng do Anh Quốc lãnh đạo trong lịch sử. Báo chí Nhật Bản
10
hân hoan tuyên bố chiến thắng này như là có tác động quyết định trong tình thế
tổng thể của chiến tranh.
Singapore được đổi tên thành Chiêu Nam đảo , và bị người Nhật chiếm
đóng từ năm 1942 đến năm 1945. Quân đội Nhật Bản áp đặt các biện pháp khắc
nghiệt với dân cư địa phương, các binh sĩ mà đặc biệt là Kempeitai (hiến binh
đội) đặc biệt tàn nhẫn trong việc đối xử và dân cư người Hoa. Sự kiện tàn bạo
được chú ý nhất là thảm sát Túc Thanh đối với thường dân người Hoa, nhằm trả
đũa hỗ trợ của họ cho các nỗ lực chiến tranh tại Trung Quốc. Các vụ hành hình
đại quy mô được ước tính khiến cho 25.000-50.000 người thiệt mạng tại Malaya
và Singapore. Những dân cư còn lại phải chịu khó khăn nghiêm trọng trong ba
năm rưỡi bị Nhật Bản chiếm đóng.
2.2. Thời kỳ hậu chiến (1945 - 1955)
Sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15 tháng 8 năm 1945,
Singapore rơi vào một tình trạng vô tổ chức trong một thời gian ngắn; cướp bóc
và giết người báo thù lan rộng. Các binh sĩ Anh Quốc dưới quyền lãnh đạo của
Bá tước Louis Mountbatten trở lại Singapore để tiếp nhận đầu hàng chính thức
của lực lượng Nhật Bản trong khu vực từ Tướng Itagaki Seishiro nhân danh
Nguyên soái Hisaichi Terauchivào ngày 12 tháng 9 năm 1945. Một Chính phủ
quân sự Anh Quốc được thành lập để quản lý Singapore, tồn tại cho đến tháng 3
năm 1946. Phần lớn cơ sở hạ tầng bị phá hủy trong chiến tranh, kể cả các hệ
thống cung cấp điện và nước, dịch vụ điện thoại, cũng như các thiết bị cảng tại
bến cảng Singapore. Xảy ra một tình trạng thiếu lương thực dẫn đến thiếu ăn,
bệnh tật, tội phạm và bạo lực lan tràn. Giá lương thực ở mức cao, nạn thất
nghiệp, và bất mãn của công nhân lên đến cực độ trong một loạt cuộc đình công
vào năm 1947 gây đình trệ nghiêm trọng trong giao thông công cộng và các dịch
vụ khác. Đến cuối năm 1947, kinh tế bắt đầu phục hồi, được thúc đẩy nhờ nhu
cầu ngày càng tăng đối với thiếc và cao su trên khắp thế giới, song phải mất vài
năm nữa thì kinh tế mới trở lại mức tiền chiến.
Do Anh Quốc thất bại trong việc phòng thủ Singapore, họ bị mất đi sự tín
nhiệm trong đánh giá của người Singapore. Những thập niên sau chiến tranh
11
chứng kiến một sự giác tỉnh chính trị trong dân cư địa phương và sự trỗi dậy của
các tình cảm phản thực dân và dân tộc chủ nghĩa, được tóm tắt bằng một khẩu
hiệu Merdeka, hay "độc lập" trong tiếng Mã Lai. Về phần mình, Anh Quốc
chuẩn bị để dần tăng quyền tự trị cho Singapore và Malaya. Ngày 1 tháng 4 năm
1946, Các khu định cư Eo biển bị giải thể và Singapore trở thành một thuộc địa
vương thất riêng biệt với một chính phủ dân sự, đứng đầu là một thống đốc.
Trong tháng 7 năm 1947, các hội đồng hành pháp và lập pháp được thiết lập một
cách riêng rẽ và cuộc bầu cử sáu thành viên của hội đồng lập pháp được lên kế
hoạch vào năm sau đó.
Tổng tuyển cử đầu tiên tại Singapore được tổ chức trong tháng 3 năm
1948, song chỉ có sáu trong số 25 ghế tại Hội đồng lập pháp được bầu cử. Chỉ
những thần dân Anh Quốc mới có quyền bỏ phiếu. Các thành viên khác trong
hội đồng do Thống đốc hoặc những thương hội lựa chọn. Đảng Tiến bộ
Singapore (SPP) bảo thủ mới thành lập giành được ba ghế thông qua bầu cử, các
cá nhân độc lập giành được ba ghế còn lại.
Ba tháng sau tuyển cử, các nhóm cộng sản tại Malaya tiến hành nổi dậy
vũ trang. Anh Quốc áp đặt các biện pháp cứng rắn nhằm kiểm soát các
nhóm cánh tả tại cả Singapore và Malaya và đề ra Đạo luật An ninh nội bộ gây
tranh luận, theo đó cho phép giam giữ vô thời hạn mà không cần xét xử đối với
những cá nhân bị nghi ngờ là "mối đe dọa đối với an ninh". Do các nhóm cánh tả
là lực lượng chỉ trích mạnh mẽ nhất hệ thống thuộc địa, tiến bộ về quyền tự trị bị
đình trệ trong vài năm.
Một hội đồng lập pháp thứ nhì được bầu vào năm 1951, số ghế được bầu
tăng lên 9. Đảng Tiến bộ giành được sáu ghế thông qua bầu cử. Điều này góp
phần vào việc hình thành một chính phủ Singapore địa phương riêng biệt, song
thống trị thuộc địa vẫn chiếm ưu thế. Năm 1953, với việc những người cộng sản
tại Malaya bị đàn áp và thời kỳ tệ nhất của Tình trạng khẩn cấp qua đi, một Ủy
ban Anh Quốc do George Rendel đứng đầu đề xuất một hình thức hạn chế về
quyền tự trị cho Singapore. Một nghị hội lập pháp mới với 25/32 ghế được bầu
thông qua phổ thông đầu phiếu thay thế hội đồng lập pháp, từ đó một thủ tịch bộ
12
trưởng đóng vai trò là người đứng đầu chính phủ và hội đồng bộ trưởng đóng vai
trò là nội các sẽ được đựa chọn theo thể chế đại nghị. Anh Quốc sẽ giữ lại quyền
lực trên một số lĩnh vực như nội an và ngoại giao, cũng như quyền phủ quyết đối
với nghị hội.
Bầu cử nghị hội lập pháp được tổ chức vào ngày 2 tháng 4 năm 1955 là
một cuộc tranh đấu sôi nổi và khít khao, khi vài chính đảng mới tham gia cạnh
tranh. Không giống các cuộc bầu cử trước đí, cử tri được tự động đăng ký, tổng
số cư tri là khoảng 300.000. Đảng Tiến bộ thất bại trong cuộc bầu cử, chỉ giành
được bốn ghế. Mặt trận Lao động thiên tả mới hình thành có được chiến thắng
lớn nhất với 10 ghế và hình thành một chính phủ liên hiệp với liên minh UMNOMCA (có 3 ghế).
3.Thời kỳ Singapore xây nền tự trị (1955 - 1965)
3.1. Singapore xây nền tự trị (1955 – 1963)
Lãnh đạo của Mặt trận Lao động là David Marshall trở thành thủ tịch bộ
trưởng đầu tiên của Singapore. Ông điều khiển một chính phủ yếu, nhận được ít
hợp tác từ chính phủ thuộc địa cũng như các chính đảng địa phương khác. Tình
trạng bất ổn xã hội gia tăng, và trong tháng 5 năm 1955, bạo động xe buýt Phúc
Lợi (Hock Lee) bùng phát, khiến bốn người bị sát hại và chính phủ của Marshall
bị mất tín nhiệm nghiêm trọng. Năm 1956, bạo động trung học Hoa văn bùng
phát trong các học sinh tại trường Trung học Hoa kiều và các trường học khác,
tiếp tục làm gia tăng căng thẳng giữa chính phủ bản địa với các học sinh người
Hoa và công đoàn viên-những người được cho là có cảm tình cộng sản.
Trong tháng 4 năm 1956, Marshall dẫn một phái đoàn đến Luân Đôn để
đàm phàm về tự trị hoàn toàn, song đàm phán thất bại khi Anh Quốc không sẵn
lòng trao quyền kiểm soát nội an của Singapore. Anh Quốc lo ngại về ảnh hưởng
cộng sản và các cuộc đình công vốn đang phá hoại ổn định kinh tế của
Singapore, và cảm thấy rằng chính phủ bản địa vô dụng trong việc xử lý các bạo
động trước đó. Marshall từ chức sau khi đàm phán thất bại.
Thủ tịch bộ trưởng mới là Lâm Hữu Phúc (Lim Yew Hock) phát động
chiến dịch trừng trị các nhóm cộng sản và cánh tả, bắt giam nhiều lãnh đạo công
13
hội và vài thành viên thân cộng của Đảng Hành động Nhân dân dựa theo Luật
An ninh nội bộ. Chính phủ Anh Quốc tán thành lập trường cứng rắn của Lâm
Hữu Phúc với những người phiến động cộng sản, và khi một vòng đàm phán mới
được tổ chức từ tháng 3 năm 1957, họ chấp thuận trao quyền tự trị nội bộ hoàn
toàn. Một quốc gia Singapore sẽ được hình thành, có công dân của mình. Nghị
hội lập pháp sẽ được mở rộng lên 51 thành viên, hoàn toàn được chọn dựa theo
phổ thông đầu phiếu, và Thủ tướng cùng nội các sẽ quản lý toàn bộ các phương
diện của chính phủ ngoại trừ quốc phòng và ngoại giao. Chức vụ thống đốc được
thay thế bằng Yang di-Pertuan Negara hay là nguyên thủ quốc gia. Trong tháng
8 năm 1958, Đạo luật quốc gia Singapore được Nghị viện Anh Quốc thông qua,
quy định về việc hình thành Quốc gia Singapore.
Tổng tuyển cử nghị hội lập pháp mới được tổ chức trong tháng 5 năm
1959. Đảng Hành động Nhân dân chiến thắng vang dội, giành được 43 trên 51
ghế. Họ đạt được kết quả này là nhờ tranh thủ cộng đồng người Hoa chiếm đa
số, đặc biệt là những người trong công đoàn và các tổ chức học sinh cấp tiến.
Lãnh đạo đảng là Lý Quang Diệu trở thành Thủ tướng đầu tiên của Singapore.
Các lãnh đạo thương giới ngoại quốc và bản địa mất tinh thần trước chiến
thắng của Đảng Hành động Nhân dân do một số thành viên trong đảng là người
thân cộng. Nhiều doanh nghiệp nhanh chóng chuyển trụ sở của họ từ Singapore
sang Kuala Lumpur. Chính phủ của Đảng Hành động Nhân dân bắt tay vào một
chương trình mạnh mẽ nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội của
Singapore. Phát triển kinh tế nằm dưới quyền giám sát của Tân Bộ trưởng Tài
chính Ngô Khánh Thụy, với chiến lược là khuyến khích đầu tư ngoại quốc và
bản địa bằng những biện pháp khác nhau, từ ưu đãi thuế đến thiết lập một khu
công nghiệp lớn tại Jurong. Hệ thống giáo dục được cải biến để đào tạo một lực
lượng lao động có tay nghề, và tiếng Anh được khuyến khích hơn tiếng Trung
trong vai trò là ngôn ngữ giảng dạy. Nhằm loại bỏ tình trạng bất ổn lao động, các
công đoàn hiện hành bị hợp nhất, đôi khi là bằng vũ lực, thành một tổ chức bảo
trợ duy nhất gọi là Đại hội Công hội toàn quốc (NTUC) bị chính phủ giám sát
chặt chẽ. Trên phương diện xã hội, một chương trình nhà ở công cộng tích cực
14
và được tài trợ lớn được tiến hành nhằm giải quyết vấn đề nhà ở vốn đã kéo dài.
Trên 25.000 căn hộ cao tầng, giá thấp được xây dựng trong hai năm đầu tiên của
chương trình.
Mặc dù thành công trong việc quản lý Singapore, các lãnh đạo của Đảng
Hành động Nhân dân, kể cả Lý Quang Diệu và Ngô Khánh Thụy, cho rằng
tương lai của Singapore gắn với Malaya. Họ cảm thấy rằng những mối quan hệ
lịch sử và kinh tế giữa Singapore và Malaya là quá vững chắc để Singapore có
thể là một quốc gia riêng biệt, và họ vận động mạnh mẽ nhằm sáp nhập. Trên
phương diện khác, phe thân cộng khá lớn của Đảng Hành động Nhân dân thì
phản đối dữ dội việc sáp nhập, lo sợ mất ảnh hưởng do đảng cầm quyền tại
Malaya là Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất kiên quyết chống cộng và sẽ hỗ
trợ cho phe phi cộng trong Đảng Hành động Nhân dân chống lại họ. Các lãnh
đạo của Tổ chức dân tộc Mã Lai thống nhất cũng hoài nghi về ý tưởng sáp nhập
do họ không tin tưởng chính phủ của Đảng Hành động Nhân dân UMNO và lo
ngại rằng lượng dân cư người Hoa lớn tại Singapore sẽ gây biến đổi cân bằng
dân tộc vốn là chỗ dựa cho nền tảng quyền lực chính trị của họ. Vấn đề lên đến
đỉnh điểm trong năm 1961, khi bộ trưởng thân cộng của Đảng Hành động Nhân
dân là Vương Vĩnh Nguyên ly khai khỏi đảng và đánh bại một ứng cử viên của
Đảng Hành động Nhân dân trong cuộc bầu cử bổ sung sau đó, một động thái đe
dọa khiến cho chính phủ Lý Quang Diệu sụp đổ. Đối diện với viễn cảnh những
người thân cộng tiếp quản quyền lực tại Singapore, Tổ chức dân tộc Mã Lai
thống nhất thay đổi quan điểm của họ về hợp nhất. Vào ngày 27 tháng 5, Thủ
tướng Malaya Tunku Abdul Rahman, thảo luận ý tưởng về một Liên bang
Malaysia, bao gồm Liên bang Malaya, Singapore, Brunei và các lãnh thổ của
Anh tại bắc bộ đảo Borneo là Sabah và Sarawak hiện nay. Các lãnh đạo của Tổ
chức dân tộc Mã Lai thống nhất cho rằng việc bổ sung dân cư Mã Lai tại các
lãnh thổ Borneo sẽ bù đắp dân số người Hoa tại Singapore. Ngày 9 tháng 7 năm
1963, các lãnh đạo của Singapore, Malaya, Sabah và Sarawak ký kết Hiệp định
Malaysia để thành lập Liên bang Malaysia.
15
3.2. Singapore trong Malaysia (1963 - 1965)
Ngày 16 tháng 9 năm 1963, Malaya, Singapore, Bắc Borneo và Sarawak
chính thức hợp nhất và Malaysia hình thành. Chính phủ của Đảng Hành động
Nhân dân cảm thấy sẽ khó khăn để Singapore tồn tại như một quốc gia.
Singapore thiếu tài nguyên tự nhiên và đối diện với suy giảm mậu dịch trung
chuyển cùng dan số tăng trưởng vốn đòi hỏi công việc. Do đó, Singapore cảm
thẩy rằng hợp nhất có lợi cho kinh tế khi tạo ra một thị trường tự do chung, loại
bỏ thuế quan mậu dịch, giải quyết khủng hoảng thất nghiệp và trợ giúp các
ngành công nghiệp mới. Chính phủ Anh Quốc miễn cưỡng trong việc trao quyền
độc lập hoàn toàn cho Singapore vì họ cho rằng điều này sẽ cung cấp một nơi ẩn
náu cho cộng sản. Liên minh không vững vàng ngay từ đầu, trong tuyển cử cấp
bang tại Singapore năm 1963, một chi bộ địa phương của Tổ chức dân tộc Mã
Lai thống nhất tham gia tranh cử bất chấp thỏa thuận rằng đảng này sẽ không
tham gia chính trị của bang trong những năm đầu khi Malaysia hình thành. Mặc
dù Tổ chức dân tộc Mã Lai thống nhất không thắng cử được ghế nào, song quan
hệ giữa họ với Đảng Hành động Nhân dân bị xấu đi. Nhằm trả đũa, Đảng Hành
động nhân dân thách thức các ứng cử viên của Tổ chức dân tộc Mã Lai thống
nhất trong bầu cử liên bang năm 1964, giành được một ghế trong Quốc hội
Malaysia.
Căng thẳng dân tộc gia tăng khi người Hoa tại Singapore bất bình trước
các chính sách pháp án bình quyền của liên bang, mà theo đó trao đặc quyền cho
người Mã Lai dựa theo Điều 153 trong Hiến pháp Malaysia. Cũng có những lợi
ích tài chính và kinh tế khác được ưu tiên cho người Mã Lai. Lý Quang Diệu và
các lãnh đạo chính đảng khác bắt đầu vận động cho sự công bằng và đối xử bình
đẳng với toàn bộ các chủng tộc tại Malaysia.
Trong khi đó, người Mã Lai tại Singapore ngày càng bị kích động trước
những cáo buộc của chính phủ liên bang rằng Đảng Hành động Nhân dân ngược
đãi người Mã Lai. Tình hình chính trị đối ngoại cũng căng thẳng, Tổng
thống Indonesia Sukarno tuyên bố về một tình trạng Konfrontasi (đối đầu) chống
Malaysia và bắt đầu các hành động kể cả quân sự nhằm chống lại liên bang mới
16
thành lập, trong đó đặc công Indonesia đánh bom MacDonald House tại
Singapore vào ngày 10 tháng 3 năm 1965, khiến ba người thiệt mạng. Indonesia
cũng chỉ đạo các hành động dấy loạn để kích động người Mã Lai chống người
Hoa. Một số bạo động dân tộc diễn ra, lệnh giới nghiêm thường xuyên được áp
đặt nhằm khôi phục trật tự. Nghiêm trọng nhất là cuộc bạo động diễn ra vào
ngày 21 tháng 7 năm 1964, tức ngày kỷ niệm sinh nhật nhà tiên tri Muhammad,
với 23 người thiệt mạng và hàng trăm người bị thương. Trong tình trạng bất ổn,
giá thực phẩm tăng vọt và hệ thống giao thông bị gián đoạn, gây thêm khó khăn
cho nhân dân.
Các chính phủ bang và liên bang cũng xung đột trên phương diện kinh tế.
Các lãnh đạo của Tổ chức dân tộc Mã Lai thống nhất lo ngại rằng ưu thế kinh tế
của Singapore chắc sẽ đưa quyền lực chính trị ra khỏi Kuala Lumpur. Bất chấp
hiệp định trước đó về việc hình thành một thị trường chung, Singapore tiếp tục
đối diện với những hạn chế khi kinh doanh với phần còn lại của Malaysia. Để trả
đũa, Singapore từ chối cấp cho Sabah và Sarawak quy mô đầy đủ các khoản vay
đã thỏa thuận trước đó để phát triển kinh tế tại hai bang miền đông. Chi
nhánh Ngân hàng Trung Quốc tại Singapore bị chính phủ liên bang đóng cửa do
bị nghi ngờ tài trợ cho cộng sản. Tình hình leo thang đến mức một khung đàm
phám giữa Tổ chức dân tộc Mã Lai thống nhất và Đảng Hành động Nhân dân bị
đổ vỡ, và các bài phát biểu và bài viết có nội dung lăng mạ lan tràn ở cả hai phía.
Những thành phần cực đoan trong Tổ chức dân tộc Mã Lai thống nhất kêu gọi
bắt giữ Lý Quang Diệu.
Nhận thấy không còn cách nào khác để tránh đổ máu thêm, Thủ tướng
Malaysia Tunku Abdul Rahman quyết định trục xuất Singapore khỏi liên bang.
Ngô Khánh Thụy trở nên hoài nghi về lợi ích kinh tế của việc hợp nhất đối với
Singapore, ông thuyết phục Lý Quang Diệu rằng phân ly phải được thực hiện.
Vào sáng ngày 9 tháng 8 năm 1965, Quốc hội Malaysia bỏ phiếu với kết
quả 126 – 0 ủng hộ một sửa đổi hiến pháp trục xuất Singapore khỏi liên bang;
vài giờ sau đó, Nghị viện Singapore thông qua Đạo luật Độc lập nước Cộng hòa
Singapore, kiến lập một nước cộng hòa độc lập và có chủ quyền. Lý Quang Diệu
17
buồn bã tuyên bố trong một buổi họp báo được phát trên truyền hình rằng
Singapore đã trở thành một quốc gia có chủ quyền, độc lập. Ông nói rằng: "Đối
với tôi, đó là một khoảnh khắc đau đớn. Trong toàn bộ đời tôi, cuộc đời trưởng
thành của tôi, tôi tin tưởng vào hợp nhất và thống nhất của hai lãnh thổ." Yusof
bin Ishak được bổ nhiệm làm tổng thống đầu tiên của nước Cộng hòa Singapore.
4. Nước cộng hòa Singapore (1965 - nay)
4.1. Giai đoạn 1965 đến 1979
Sau khi độc lập, Singapore đối diện với một tương lai đầy bất trắc. Đối
đầu Indonesia - Malaysia đang diễn ra và phe bảo thủ trong Tổ chức dân tộc Mã
Lai thống nhất phản đối mạnh mẽ phân ly; Singapore đối diện với nguy hiểm
trước khả năng bị quân đội Indonesia tấn công và bị ép buộc bằng vũ lực để tái
gia nhập Liên bang Malaysia theo các điều khoản bất lợi. Phần lớn truyền thông
quốc tế hoài nghi về viễn cảnh cho sự tồn tại của Singapore. Bên cạnh vấn đề
chủ quyền, các vấn đề cấp bách là thất nghiệp, nhà ở, giáo dục, và thiếu tài
nguyên tự nhiên và đất đai.
Singapore ngay lập tức tìm kiếm công nhận quốc tế đối với chủ quyền của
mình. Quốc gia mới gia nhập Liên Hiệp Quốc vào ngày 21 thàng 9 năm 1965,
trở thành thành viên thứ 117 của tổ chức; và gia nhập Thịnh vượng chung vào
tháng 10 cùng năm. Bộ trưởng Ngoại giao Sinnathamby Rajaratnam đứng đầu
một cơ quan ngoại giao mới, giúp khẳng định nền độc lập của Singapore và thiết
lập quan hệ ngoại giao với các quốc gia khá. Ngày 22 tháng 12 năm 1965, Đạo
luật Tu chính Hiến pháp được thông qua, theo đó nguyên thủ quốc gia là tổng
thống và đảo trở thành nước Cộng hòa Singapore. Singapore sau đó đồng sáng
lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Ávào ngày 8 tháng 8 năm 1967 và được
nhận làm thành viên của Phong trào không liên kết vào năm 1970.
Cục Phát triển kinh tế được lập ra vào năm 1961 nhằm xây dựng và thực
hiện các chiến lược kinh tế quốc gia, tập trung vào thúc đẩy lĩnh vực chế tạo của
Singapore. Các khu công nghiệp được thành lập, đặc biệt là tại Jurong, và đầu tư
ngoại quốc được thu hút đến đảo quốc do ưu đãi thuế. Công nghiệp hóa biến đổi
lĩnh vực chế tạo để sản xuất các hàng hóa có giá trị cao hơn và thu được lợi
18
nhuận lớn hơn. Lĩnh vực dịch vụ cũng phát triển vào đương thời, thúc đẩy nhơ
nhu cầu đối với dịch vụ cho các tàu ghé qua cảng và thương mại ngày càng tăng
cao. Tiến bộ này giúp giảm bớt khủng hoảng thất nghiệp. Singapore cũng thu hút
các công ty dầu thô lớn như Shell và Esso đến thiết lập những nhà máy lọc dầu
tại Singapore, đến giữa thập niên 1970 thì đảo quốc trở thành trung tâm lọc dầu
lớn thứ ba trên thế giới. Chính phủ đầu tư mạnh cho hệ thống giáo dục, tiếng
Anh trở thành ngôn ngữ giảng dạy và nhấn mạnh đào tạo thực tế nhằm phát triển
một lực lượng lao động có đủ trình độ phù hợp với công nghiệp.
Thiếu nhà ở công cộng tốt, vệ sinh kém, và tỷ lệ thất nghiệp cao dẫn đến
các vấn đề xã hội từ tội phạm đế y tế. Sự gia tăng của các khu định cư lấn chiếm
dẫn đến những mối nguy hiểm về tính an toàn và dẫn đến hỏa hoạn Bukit Ho
Swee trong năm 1961 khiến cho bốn người thiệt mạng và 16.000 người khác mất
nhà ở. Cục phát triển nhà ở được thành lập từ trước độc lập, tiếp tục đạt được
thành công lớn và các dự án nhà ở quy mô lớn được tiến hành nhằm cung cấp
nhà ở công cộng có giá phải chăng và tái định cư người trong các khu lấn chiếm.
Trong vòng một thập niên, đa số dân cư dược sống trong các căn hộ này. Dự án
Nhà ở quỹ công tích (CPF) được tiến hành từ năm 1968, cho phép các dân cư sử
dụng tài khoản tiết kiệm bắt buộc của họ để mua các căn hộ của cục Phát triển
nhà ở và dần gia tăng sở hữu nhà tại Singapore.
Quân đội Anh Quốc vẫn đóng quân tại Singapore sau khi đảo quốc độc
lập, song đến năm 1968, Luân Đôn tuyên bố quyết định của họ là triệt thoái lực
lượng vào năm 1971. Singapore thiết lập bộ đội vũ trang, và một chương trình
phục dịch quốc dân được khởi đầu từ năm 1967.
4.2. Giai đoạn 1980 và 1990
Thành công kinh tế hơn nữa tiếp tục trong thập niên 1980, khi tỷ lệ thất
nghiệp hạ xuống 3% và tăng trưởng GDP thực trung bình là khoảng 8% cho đến
năm 1999. Trong thập niên 1980, Singapore bắt đầu nâng cấp các ngành công
nghiệp công nghệ cao, như lĩnh vực chế tạo lát bán dẫn, nhằm cạnh tranh với các
đối thủ láng giềng vốn đang có giá lao động rẻ hơn. Sân bay quốc tế Changi
Singapore được khánh thành vào năm 1981 và Singapore Airlines được phát
19
triển thành một hàng hãng không lớn. Cảng Singapore trở thành một trong những
cảng nhộn nhịp nhất nhất thế giới và các ngành kinh tế dịch vụ và du lịch cũng
phát triển rất cao trong giai đoạn này. Singapore nổi lên như một trung tâm giao
thông quan trọng và một điểm du lịch lớn.
Cục Phát triển nhà ở tiếp tục thúc đẩy nhà ở công cộng bằng các khu đô
thị mới, như Ang Mo Kio. Các khu dân cư mới có các căn hộ lớn hơn và chất
lượng cao hơn và đi kèm là tiện nghi tốt hơn. Năm 1987, tuyến giao thông cao
tốc đại chúng (MRT) đầu tiên đi vào hoạt động, kết nối hầu hết các khu nhà ở
này với khu vực trung tâm.
Đảng Nhân dân Hành động tiếp tục chi phối tình thế chính trị tại
Singapore, đảng này giành toàn bộ số ghế trong nghị viện trong các cuộc bầu cử
từ 1966 đến 1981. Một số nhà hoạt động và chính trị gia đối lập gọi quyền lực
của Đảng Nhân dân Hành động là độc đoán, họ cho rằng quy định nghiêm ngặt
về các hoạt động chính trị và truyền thông của chính phủ là một sự xâm phạm
các quyền chính trị.
Chính phủ Singapore trải qua một số biến đổi đáng kể. Chế độ thành viên
phi tuyển cử cử trong nghị viện được khởi đầu vào năm 1984 nhằm cho phép ba
ứng cử viên thất cử từ các đảng đối lập được bổ nhiệm làm nghị viên. Khu tập
tuyển (GRCs) được khởi đầu vào năm 1988 nhằm tạo nên các đơn vị bầu cử
nhiều ghế, mục đích là để đảm bảo đại diện của thiểu số trong nghị viện. Chế độ
thành viên chỉ định trong nghị viện được khởi đầu vào năm 1990 nhằm cho phép
những nhân vật phi đảng phái phi tuyển cử trở thành nghị viên. Hiến pháp
Singapore được sửa đổi vào năm 1991 nhằm quy định về một tổng thống tuyển
cử, người này có quyền phủ quyết trong việc sử dụng dự trữ quốc gia và bổ
nhiệm các quan chức công cộng. Các đảng đối lập phàn nàn rằng hệ thống khu
tập tuyển gây khó khăn cho họ để giành được một vị trí chắc chắn trong bầu cử
nghị viện, và hệ thống bầu cử đa số có xu hướng loại trừ các đảng nhỏ.
Năm 1990, Lý Quang Diệu chuyển giao quyền lực thủ tướng cho Ngô Tác
Đống, nhân vật này trở thành thủ tướng thứ nhì của Singapore. Ngô Tác Đống
thể hiện một phong cánh lãnh đạo cởi mở và cầu thị hơn khi quốc gia tiếp tục
20
hiện đại hóa. Năm 1997, Singapore chịu ảnh hưởng từ Khủng hoảng tài chính
châu Á 1997 và các biện pháp cứng rắn được thực hiện.
4.3. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay.
Trong đầu thập niên 2000, Singapore trải qua một số cuộc khủng hoảng,
gồm có dịch SARS bùng phát vào năm 2003 và đe dọa của chủ nghĩa khủng bố.
Trong tháng 12 năm 2001, một âm mưu đánh bom các đại sứ quán và cơ sở hạ
tầng khác tại Singapore bị phát giác và có đến 36 thành viên của nhóm Jemaah
Islamiyah bị bắt theo Đạo luật An ninh nội bộ. Các biện pháp chống khủng bố
chủ yếu được tiến hành nhằm phát hiện và ngăn ngừa các hành động khủng bố
tiềm năng và giảm thiểu thiệt hại do chúng gây nên. Đảo quốc tăng cường chú
trọng vào việc thúc đẩy hội nhập xã hội và tin tưởng giữa các cộng đồng khác
nhau.
Năm 2004, con trai cả của Lý Quang Diệu là Lý Hiển Long trở thành thủ
tướng thứ ba của Singapore. Ông ban hành một số thay đổi chính sách, gồm cả
giảm bớt phục dịch quốc gia từ hai năm rưỡi xuống hai năm, và hợp pháp hóa cờ
bạc sòng bạc.
21
KẾT LUẬN
Singapore ngày nay là một quốc gia “đáng sống” nhất trên thế giới, nơi
mà bất cứ ai cũng mong muốn được đặt chân đến một lần trong đời. Tuy vây, để
có được một đất nước Singapore hiên đại, năng động bậc nhất Châu Á như hiện
nay, thành quả đạt được là cả một quá trình nỗ lực, phấn đấu của cả nhân dân
cũng như chính phủ Singapore. Bằng những đường lối, chính sách “vượt thời
đại”, mang tính chiến lược vĩ mô, nhưng đồng thời thể hiện sự cụ thể, phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước mình.
Những thành tựu mà Singapore đã và đang thực hiện là bài học cho rất
nhiều các quốc gia đang phát triển nói chung, trong đó có Việt Nam nói riêng
nhìn nhận và học tập. Việt Nam chúng ta, đứng trước những cơ hội rất lớn trong
bối cảnh quốc tế hội nhập, phát triển. Những kinh nghiệm xây dựng đất nước của
Singapore là những bài học quý giá cho chúng ta xây dựng đất nước theo con
đường Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vươn lên là một “con rồng Châu Á” thực
sự trong tương lai gần; cùng sánh vai với bạn bè trên thế giới.
22