Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lương thực nói chung và mặt hàng gạo nói riêng có tầm quan trọng
đặc biệt đối với đời sống của con người. Mặt khác, sản xuất lúa gạo lại
liên quan đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân, một khu vực nhạy cảm
và có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của nhiều nước trên thế
giới. Hơn nữa, lúa gạo là một trong những lợi thế so sánh quan trọng của
Việt Nam. Trong điều kiện tự do hóa thương mại, việc đẩy mạnh sản xuất
và xuất khẩu gạo sẽ góp phần khai thác lợi thế so sánh cho phát triển kinh
tế, ổn định chính trị – xã hội.
Ở Việt Nam, trong nhiều năm qua, sản xuất và xuất khẩu gạo đã đạt
được nhiều thành tích quan trọng. Gạo xuất khẩu đã trở thành một trong
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đóng góp vào thành tích
chung đó phải kể đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo của các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long, trong đó có An Giang. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu
gạo của các doanh nghiệp ở tỉnh An Giang trong thời gian qua còn nhiều hạn
chế. Tình trạng sản xuất, chế biến gạo xuất khẩu với quy mô nhỏ, phân tán,
công nghệ xay xát, chế biến lạc hậu đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng
gạo xuất khẩu, làm giảm khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của tỉnh An
Giang trên thị trường thế giới, hạn chế hiệu quả xuất khẩu của các doanh
nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo ở tỉnh An Giang. Tình trạng cạnh tranh mua
gạo xuất khẩu của người sản xuất và cạnh tranh bán gạo cho khách hàng nước
ngoài, giữa các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu vẫn chưa được khắc phục,
gây thiệt hại cho lợi ích quốc gia và cho doanh nghiệp...
Thực tế trên đòi hỏi cần phải có những giải pháp phù hợp, thúc đẩy xuất
khẩu gạo hơn nữa, để khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng, lợi thế so
sánh của tỉnh An Giang cho phát triển kinh tế của địa phương và phát triển
kinh tế đất nước. Thực tế đó cũng đòi hỏi cần có sự nghiên cứu một cách hệ
thống và sâu sắc hoạt động xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang, để đề ra một số
Nguyễn Quân Phong
1
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
giải pháp khắc phục những hạn chế trong hoạt động xuất khẩu gạo, đảm bảo
cho hoạt động này phát triển cả về chất và lượng. Đây chính là lý do tác giả
chọn đề tài: "Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp"
làm khóa luận tốt nghiệp đại học chuyên ngành quản lý kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất khẩu gạo là hoạt động được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu
mang tính chất tổng thể trong nền kinh tế và từng địa phương, từng khu vực.
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết xung quanh
vấn đề này. Nghiên cứu các công trình trên, tác giả nhận thấy có ba hướng
nghiên cứu:
Những công trình nghiên cứu về chính sách xuất khẩu nông sản
của Việt Nam:
- PTS Nguyễn Văn Bích, KS Chu Tiến Quang: Chính sách kinh tế và vai
trò của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- GS.TS Bùi Xuân Lưu: Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004.
- TS. Trịnh Thị Ái Hoa: Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam - Lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
Nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách xuất khẩu nông sản của
các tác giả trên đề cập đến các chính sách tác động trực tiếp, gián tiếp đến
người sản xuất nông sản; các chính sách bảo hộ nông sản trong khuôn khổ
quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Một số tác giả lại bàn về
giải pháp kết hợp các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhằm làm tăng lợi ích
cạnh tranh của các doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu hàng nông sản.
Những công trình, bài viết về thị trường xuất khẩu nông sản của
Việt Nam:
- PTS. Nguyễn Trung Vãn: Lương thực Việt Nam - Thời đổi mới hướng
xuất khẩu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
Nguyễn Quân Phong
2
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
- PTS. Nguyễn Đình Long, PTS. Nguyễn Tiến Mạnh, Nguyễn Võ Định:
Phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt
Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1999.
- Tác giả Kim Quốc Chính: Dự báo khả năng xuất khẩu gạo của Việt
Nam thời kỳ 2001-2010, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 284, 1/2004.
- TS. Lưu Văn Nghiêm: Marketing mở rộng thị trường, tăng hiệu quả
xuất khẩu gạo của Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 88, 10/2004.
Nhóm các công trình, bài viết về thị trường xuất khẩu nông sản tập trung
phân tích các động thái của thị trường nông sản, giải pháp để mở rộng thị
trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, một số tác giả đưa ra các giải pháp để phát
huy khả năng cạnh tranh hàng nông sản trên phạm vi một quốc gia.
Những công trình, bài viết về giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng
nông sản của Việt Nam
- TS. Nguyễn Khắc Thanh: Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam trong
thời gian trước mắt, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 310, 3/2004.
- TS. Lê Thị Anh Vân: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu một số hàng nông
sản Việt Nam giai đoạn 2002-2010, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 92,
2/2005.
- PGS.TS. Nguyễn Trường Sơn: Nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo ở
Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 96, 6/2005.
- TS. Mai Thị Thanh Xuân: Công nghiệp chế biến với việc nâng cao giá
trị hàng nông sản xuất khẩu ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 341,
10/2006.
Đối với nhóm các công trình, bài viết về giải pháp thúc đẩy thúc xuất
khẩu hàng nông sản của Việt Nam, đây là nhóm các vấn đề liên quan trực tiếp
đến luận văn này. Những công trình, bài viết này có đặc điểm chung là
nghiên cứu về các giải pháp đồng bộ để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
nông sản nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng ở phạm vi quốc gia. Ngoài
ra, một số tác giả còn đưa ra những luận cứ để định hướng tập trung vào
Nguyễn Quân Phong
3
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
các mặt hàng nông sản xuất khẩu có lợi thế so sánh của Việt Nam, trong đó
có mặt hàng gạo xuất khẩu.
Tóm lại, các công trình, bài viết trên tiếp cận dưới những góc độ khác
nhau cả về mặt lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động xuất khẩu nông
sản nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách chi tiết và hệ thống các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu
một mặt hàng cụ thể tại một địa phương cụ thể thông qua việc khảo sát các
doanh nghiệp xuất khẩu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
Mục đích của khóa luận là góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
về xuất khẩu gạo và thực tiễn xuất khẩu gạo ở tỉnh An Giang trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp thúc đẩy xuất
khẩu gạo của tỉnh An Giang trong thời gian tới.
Với mục đích đó, khóa luận có nhiệm vụ:
+
Phân tích và làm rõ thêm một
số vấn đề lý luận về xuất khẩu gạo.
+
Phân tích, đánh giá thực trạng
xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo ở tỉnh An
Giang.
+
Đề xuất những giải pháp chủ
yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo
nghiên cứu ở đây được xét theo nghĩa rộng. Điều đó có nghĩa là, nghiên cứu
xuất khẩu gạo không chỉ nghiên cứu động thái xuất khẩu gạo (nghiên cứu về
giá trị xuất khẩu, khối lượng xuất khẩu, chất lượng, giá cả xuất khẩu...) mà
còn nghiên cứu một chuỗi các hoạt động, từ thu mua – xay xát, chế biến –
nghiên cứu thị trường – bán hàng cho khách hàng nước ngoài. Tuy nhiên khóa
Nguyễn Quân Phong
4
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
luận chủ yếu nghiên cứu về giá trị xuất khẩu, khối lượng xuất khẩu, chất
lượng và giá cả xuất khẩu.
Về phạm vi nghiên cứu, khóa luận chỉ nghiên cứu hoạt động xuất khẩu
gạo của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trên địa bàn tỉnh An Giang và
các doanh nghiệp của tỉnh An Giang là chủ yếu. Hoạt động của các doanh
nghiệp các tỉnh bạn chỉ được xem xét tới như là nhân tố ảnh hưởng đến hoạt
động của các doanh nghiệp ở tỉnh An Giang. Về thời gian, khóa luận nghiên
cứu hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo của tỉnh An
Giang trong khoảng thời gian từ 2008 đến 2011, các số liệu được cập nhật đến
năm 2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài, khóa luận đã sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng
các phương pháp khác để nghiên cứu như phương pháp nghiên cứu thực tế,
trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để giải quyết các vấn
đề. Đồng thời, đề tài cũng kế thừa và sử dụng có chọn lọc những thông tin
trong một số công trình nghiên cứu của các tác giả khác đã công bố.
6. Những đóng góp của khóa luận
Hệ thống hóa và làm rõ thêm các vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn
hoạt động xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo
trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian tới như: giải pháp đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, liên kết 4 nhà, giải pháp
liên kết thị trường gạo An Giang với thị trường gạo các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng cho việc hoạch định
và thực thi chính sách xuất khẩu gạo ở tỉnh An Giang.
Nguyễn Quân Phong
5
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU GẠO
1.1. Vai trò và đặc điểm xuất khẩu gạo ở Việt Nam và tỉnh An Giang
1.1.1. Vai trò xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế Việt Nam và tỉnh
An Giang
1.1.1.1. Xuất khẩu gạo với việc khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh
của đất nước cho phát triển kinh tế
Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối và lý thuyết lợi thế tương đối, trong điều
kiện tự do hóa thương mại, các quốc gia đều được lợi từ việc tham gia thương
mại quốc tế. Mỗi quốc gia đều có những lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối
trong việc sản xuất một mặt hàng nào đó. Nếu các quốc gia chuyên môn hóa
sản xuất và trao đổi hàng hóa mà mình có lợi thế thì sẽ thu được lợi ích từ
những lợi thế đó.
Vậy khi tham gia vào thị trường thế giới, Việt Nam có những lợi thế so
sánh nào? Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam có rất nhiều lợi thế
của một nước nông nghiệp nhiệt đới. Gạo là một trong những lợi thế quan
trọng mà Việt Nam có được do điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, khí hậu, đất
đai, tài nguyên thiên nhiên cùng với kỹ thuật trồng lúa nước đã được đúc kết
từ lâu đời mang lại. Ngoài ra, Việt Nam còn có lực lượng lao động dồi dào,
với năng suất lao động tương đối cao. Do đó, chi phí sản xuất lúa gạo ở Việt
Nam tương đối thấp so với nhiều nước trên thế giới. Việc Việt Nam tập trung
cho sản xuất và xuất khẩu gạo thu ngoại tệ sẽ góp phần khai thác tiềm năng,
lợi thế về sản xuất gạo cho phát triển kinh tế.
Nguyễn Quân Phong
6
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
Tuy nhiên, những lợi thế về sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam
hiện nay là lợi thế so sánh tĩnh. Lợi thế này có thể sẽ mất đi hoặc giảm giá trị
trong tương lai, khi những lợi thế mới, lợi thế so sánh động xuất hiện. Do đó,
Việt Nam cần tranh thủ khai thác các lợi thế này trước khi lợi thế sản xuất và
xuất khẩu gạo có thể bị san bằng. Đồng thời, chúng ta cũng cần chủ động tạo
ra những điều kiện cho lợi thế so sánh động mới xuất hiện, tiếp tục khai thác
lợi thế so sánh đó cho phát triển kinh tế.
1.1.1.2. Xuất khẩu gạo góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo lý thuyết cạnh tranh hoàn hảo, trong điều kiện tự do cạnh tranh,
nguồn lực sẽ được phân bổ một cách có hiệu quả nhất. Theo đó, một cơ cấu
kinh tế hợp lý sẽ được hình thành dưới sự tác động của thị trường. Việt Nam
đẩy mạnh xuất khẩu gạo trong điều kiện tự do hóa thương mại. Điều đó, cũng
đồng nghĩa với việc nguồn lực trong nước được phân bổ, chuyển dịch để hình
thành cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Hơn nữa, cơ cấu kinh tế đó còn được
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi lẽ, để thúc đẩy
xuất khẩu gạo có hiệu quả, đòi hỏi tư duy người nông dân và doanh nghiệp
xuất khẩu gạo phải thay đổi sao cho phù hợp với những tín hiệu của thị
trường gạo quốc tế. Điều đó, cũng có nghĩa là nông dân và doanh nghiệp xuất
khẩu gạo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cần phải biết rằng mọi hoạt
động sản xuất và chế biến đều phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Họ
chỉ sản xuất và chế biến những sản phẩm gạo theo nhu cầu mà thị trường cần.
Theo đó, sẽ hình thành những vùng sản xuất lúa gạo tập trung, qui mô lớn để
phục vụ hoạt động xuất khẩu đáp ứng nhu cầu thị trường. Bằng cách đó, xuất
khẩu gạo sẽ giúp hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hợp lý
theo tín hiệu của thị trường. Khi đó, nền kinh tế thị trường sẽ chỉ thừa nhận
những cơ cấu kinh tế hiệu quả, nghĩa là cơ cấu có khả năng đáp ứng tốt nhất
nhu cầu thị trường và đem lại thu nhập, lợi nhuận cao nhất cho người sản
xuất.
Nguyễn Quân Phong
7
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
Xuất khẩu gạo không chỉ thúc đẩy sự hình thành cơ cấu vùng sản xuất
lúa gạo tập trung mà còn kéo theo sự hình thành và phát triển công nghiệp chế
biến, xay xát gạo. Chúng ta biết rằng, ngành công nghiệp chế biến, xay xát
gạo giữ vai trò rất quan trọng trong việc làm tăng giá trị mặt hàng xuất khẩu
gạo gấp nhiều lần. Điều đó cũng sẽ làm tăng tính cạnh tranh của gạo Việt
Nam trên thị trường thế giới, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng và
phong phú của người tiêu dùng gạo trên thế giới.
Khi ngành công nghiệp chế biến, xay xát gạo phát triển sẽ kéo theo sự
phát triển các ngành nghề và dịch vụ phục vụ hoạt động xuất khẩu. Điều này
sẽ thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tích cực,
góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP.
Cùng với quá trình hình thành và phát triển các ngành công nghiệp chế
biến xay xát gạo và dịch vụ trên địa bàn nông thôn, khi đó cơ cấu lao động
trong nông nghiệp và nông thôn cũng có sự chuyển biến theo hướng giải
phóng lao động nông nghiệp và chuyển sang các hoạt động công nghiệp và
dịch vụ tại chỗ, tất yếu dẫn đến việc phân công lao động nông thôn theo
hướng đa ngành nghề, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp và
nông thôn theo hướng tích cực.
Hoạt động xuất khẩu gạo cùng với các mặt hàng nông sản khác đã và
đang góp phần tạo nguồn vốn ngoại tệ tương đối lớn, qua đó để nhập khẩu vật
tư, máy móc thiết bị, công nghệ, giống, phân bón… nhằm phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng ngày càng phát triển
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khi hoạt động sản xuất và chế biến
lúa gạo được công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao. Đến lượt nó, tác động trở lại
và làm gia tăng năng suất và chất lượng gạo xuất khẩu nói riêng và mặt hàng
nông sản nói chung.
Bên cạnh đó, nếu hoạt động xuất khẩu gạo đạt hiệu quả sẽ có tác động
tích cực trong bình ổn giá gạo trong nước trong thời điểm chính vụ. Xuất
Nguyễn Quân Phong
8
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
khẩu gạo ra thị trường thế giới, điều đó có nghĩa là làm giảm dư cung gạo trên
thị trường nội địa, đẩy giá gạo trong nước tăng, và làm tăng thu nhập cho
người nông dân, giúp họ an tâm trong việc sản xuất, góp phần bảo đảm an
ninh lương thực trong nước.
1.1.1.3. Xuất khẩu gạo góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu
Trước đây, nói đến Việt Nam, thế giới biết đến như là một nước nhỏ bé,
chịu hậu quả chiến tranh nặng nề, thiếu đói triền miên. Việt Nam thường
xuyên phải nhận viện trợ lương thực hoặc nhập khẩu lương thực từ bên ngoài.
Song, với quyết tâm đổi mới và bằng những chính sách đúng đắn. Năm 1989,
Việt Nam đã xuất khẩu được gạo và trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ
ba thế giới sau Thái Lan và Mỹ. Từ đó cho đến nay, xuất khẩu gạo của Việt
Nam tăng trưởng liên tục. Việt Nam đã vượt qua Mỹ và giữ vị trí xuất khẩu
gạo thứ hai trên thế giới. Rõ ràng, vị trí này đã góp phần nâng cao vị thế Việt
Nam trên trường quốc tế. Cuộc khủng hoảng lương thực thế giới vừa qua,
Việt Nam đã được nhiều nước quan tâm, đề nghị Việt Nam tham gia hợp tác
với Thái Lan, Mianma...và nhiều nước sản xuất và xuất khẩu gạo khác trên
thế giới hỗ trợ, tình trạng thiếu lương thực ở nhiều nước trên thế giới.
1.1.1.4. Xuất khẩu gạo với phát triển kinh tế ở tỉnh An Giang
Những năm gần đây, hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu gạo
trên địa bàn tỉnh An Giang đã có chuyển biến quan trọng và thu được những
thành tích đáng khích lệ. Thị trường từng bước được mở rộng với nhiều thành
phần kinh tế tham gia. Hàng hoá đa dạng, phong phú, lưu thông thông suốt,
góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, cải thiện đời sống dân cư và đóng góp
đáng kể vào tăng trưởng GDP của tỉnh An Giang.
Trong giai đoạn 2008 - 2011, với cơ chế chính sách khuyến khích sản
xuất hàng xuất khẩu của Nhà nước, hoạt động xuất khẩu trên địa bàn tỉnh An
Giang khá sôi động. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đều tăng khá cao, góp
phần tích cực vào phát triển kinh tế của tỉnh An Giang trong quá trình hội
Nguyễn Quân Phong
9
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Năm 2006, giá trị xuất khẩu đạt gần
445,694 triệu USD, đến năm 2011, tăng lên 750,006 triệu USD; gấp 1,68 lần
năm 2006. Tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn
tỉnh An Giang giai đoạn 2006 - 2011 đạt 20,29%/năm. Riêng năm 2011, kim
ngạch xuất khẩu của tỉnh An Giang tăng 16,58% so với năm 2006. Trong đó
xuất khẩu gạo mang về cho tỉnh An Giang 274,011 triệu USD, chiếm 36,53%
tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh An Giang [9, tr.197].
1.1.2. Đặc điểm xuất khẩu gạo
Hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo luôn gắn liền với thị trường gạo
xuất khẩu. Do vậy, hoạt động xuất khẩu gạo cũng mang một số đặc điểm như
thị trường gạo xuất khẩu. Chúng ta có thể thấy rằng, hoạt động xuất khẩu gạo
có một số đặc điểm cơ bản sau:
1.1.2.1. Xuất khẩu gạo mang tính thời vụ và tính khu vực (vùng miền)
Sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng phụ thuộc
nhiều vào các yếu tố tự nhiên như đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng, vị trí địa lý…
Quy mô, sản lượng của các ngành sản xuất nông nghiệp bị giới hạn bởi diện
tích đất đai, giới hạn năng suất. Mặt khác, sản xuất nông sản còn chịu ảnh
hưởng lớn của thời tiết, khí hậu, sâu hại, dịch bệnh…Sản phẩm nông nghiệp
có quy luật sinh trưởng và phát triển tự nhiên, không giống như các sản phẩm
công nghiệp. Ngay trong cùng một loại cây con, nhưng giống khác nhau thì
sẽ có qui luật sinh trưởng khác nhau. Do đó, quá trình sản xuất nông sản
luôn gắn liền và phụ thuộc vào quá trình sinh trưởng theo qui luật tự nhiên
của cây trồng. Phần lớn các nông sản nói chung và lúa gạo nói riêng được
thu hoạch theo vụ mùa, tập trung vào những thời gian nhất định trong năm.
Do đặc tính nông sản là các sản phẩm tươi sống nên đa số các loại nông sản
đòi hỏi phải được tiêu dùng trong một thời gian nhất định sau khi thu
hoạch. Nếu nông sản không được bảo quản và chế biến tốt sẽ dẫn đến ẩm
mốc và hư hỏng.
Nguyễn Quân Phong
10
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
Do thu hoạch theo thời vụ nhất định nên việc tiêu thụ nông sản nói
chung và lúa gạo nói riêng thường gặp khó khăn vào lúc chính vụ vì cung trên
thị trường tăng mạnh. Nếu vào vụ mùa không có cách bảo quản và chế biến
lúa gạo tốt, có thể gây ứ đọng hàng hóa và dẫn đến giảm hẳn giá trị sử dụng
và gây thiệt hại lớn cho người nông dân.
Bên cạnh đó, mỗi vùng, mỗi quốc gia, mỗi khu vực đều có những đặc
điểm riêng về đất đai, vị trí địa lý, khí hậu…Do vậy, mỗi nơi đó sẽ có những
lợi thế riêng để phát triển ngành sản xuất nông nghiệp nào đó. Riêng ở nước
ta, đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai vựa lúa của cả
nước...Chính điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng sẽ tạo nên sản phẩm lúa gạo với
đặc tính riêng, nổi trội của mỗi loại gạo như gạo Tám thơm Hải Dương, Nam
Định; gạo Tám xoan Bắc Ninh, Thái Bình ở đồng bằng Sông Hồng hay gạo
Nàng hương, Chợ Đào ở đồng bằng sông Cửu Long.
Chính vì vậy, hoạt động xuất khẩu gạo mang tính thời vụ và đặc trưng
sản phẩm gạo của từng vùng miền.
1.1.2.2. Xuất khẩu gạo có tính liên ngành cao
Hoạt động xuất khẩu gạo liên quan tới rất nhiều ngành, từ sản xuất tới
xuất khẩu gạo. Tại khâu sản xuất lúa gạo, có rất nhiều ngành tham gia. Như
nghiên cứu sản xuất giống, ngành sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật,
thủy lợi, điện, ngành chế tạo máy nông nghiệp... ở khâu thu hoạch, bảo quản
và chế biến gạo xuất khẩu, các ngành công nghiệp chế biến, xay xát, ngành
công nghiệp bảo quản sau thu hoạch, giao thông vận tải... có vai trò rất quan
trọng trong việc bảo đảm chất lượng gạo xuất khẩu. Tại khâu cuối cùng của
hoạt động xuất khẩu là bán gạo cho khách hàng nước ngoài, các ngành ngân
hàng, bảo hiểm, vận tải biển, tòa án, hải quan, thương mại... là những ngành
có vai trò trực tiếp đối với xuất khẩu gạo.
Như vậy, có thể thấy rằng, xuất khẩu gạo là hoạt động có tính liên ngành
rất cao. Hoạt động xuất khẩu gạo sẽ đạt hiệu quả cao khi các ngành có sự liên
kết, phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng. Bởi lẽ, chính sự liên kết chặt chẽ giữa các
Nguyễn Quân Phong
11
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
ngành trong từng khâu và liên kết giữa các khâu một cách hợp lý sẽ là điều
kiện nâng cao năng suất và giảm chi phí sản xuất và xuất khẩu gạo, theo đó,
nâng cao khả năng cạnh tranh về giá và lượng của gạo xuất khẩu.
1.1.2.3. Xuất khẩu gạo có tính nhạy cảm cao
Gạo là mặt hàng có tính nhạy cảm cao do nó là mặt hàng thiết yếu, đáp
ứng nhu cầu cần thiết cơ bản của con người, của cả xã hội. Do đó, xuất khẩu
gạo cũng mang tính nhạy cảm cao. Tính nhạy cảm đó được thể hiện ở chỗ sự
biến động của hoạt động xuất khẩu gạo sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nguồn cung
gạo của thị trường trong nước, dẫn đến giá gạo ở thị trường trong nước cũng
biến động theo. Mặt khác, nông dân là lực lượng chiếm tỷ lệ cao trong dân số
cả nước, thu nhập của họ chủ yếu từ việc bán nông sản, trong đó lúa gạo
chiếm tỷ trọng rất cao. Vì vậy, thu nhập của họ sẽ bấp bênh khi hoạt động
xuất khẩu gạo có những biến động lớn.
Nếu xuất khẩu gạo trong năm theo chiều hướng có lợi sẽ làm giảm áp lực
nguồn cung gạo trong năm, khi đó giá lúa ở thị trường trong nước sẽ tăng, thu
nhập người nông dân được cải thiện, giảm thiểu tình trạng đói nghèo, tệ nạn xã
hội ở nông thôn và ngược lại. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến ổn định chính
trị, xã hội của quốc gia.
Cuối cùng, xuất khẩu gạo là hoạt động không chỉ có tính nhạy cảm ở
Việt Nam, mà còn nhạy cảm ở hầu hết các nước có nhu cầu tiêu dùng gạo trên
thế giới. Cụ thể, đầu năm 2008, vì lý do an ninh lương thực, Việt Nam tạm
ngưng xuất khẩu gạo trong hai tháng. Giá gạo trên thị trường thế giới đã tăng
rất cao. Điều này, cũng thể hiện tính nhạy cảm của xuất khẩu gạo đối với vấn
đề an ninh lương thực, là vấn đề quan tâm của rất nhiều nước trên thế giới.
1.1.2.4. Xuất khẩu gạo có tính cạnh tranh cao
Thị trường nông sản nói chung và thị trường lúa gạo trong nước nói
riêng là thị trường có tính cạnh tranh cao. ở đó, có rất nhiều người tham gia
mua – bán gạo. Mỗi người sản xuất, mỗi doanh nghiệp xuất khẩu chỉ cung
ứng ra thị trường số lượng lúa gạo rất nhỏ so với tổng lượng cung. Vì thế, họ
Nguyễn Quân Phong
12
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
không thể độc quyền được giá cả. Họ tham gia thị trường hay rút khỏi thị
trường cũng không ảnh hưởng đến mức giá đã hình thành trên thị trường.
Người nông dân, cũng như doanh nghiệp xuất khẩu không thể độc quyền
quyết định giá cả, mà phải chấp nhận mức giá đã hình thành khách quan trên
thị trường. Chính sự vận động đó đã tác động đến hoạt động sản xuất, xuất
khẩu của người sản xuất, chế biến và người tiêu dùng gạo. Trong điều kiện
cầu tăng chậm, cung của người sản xuất tăng thì người tiêu dùng có lợi, người
sản xuất sẽ bị thiệt. Nếu người sản xuất thu hẹp cung để được hưởng giá cao
thì người tiêu dùng bị thiệt. ở thị trường trong nước, tính cạnh tranh chủ yếu
thể hiện thông qua cạnh tranh bán giữa những người nông dân và cạnh tranh
mua giữa các doanh nghiệp xuất khẩu.
Tuy nhiên, trên thị trường thế giới, tính cạnh tranh của hoạt động xuất
khẩu gạo thấp hơn. Số nước tham gia xuất nhập khẩu gạo trên thị trường thế
giới không nhiều. Do đó, cạnh tranh trên thị trường gạo thế giới không gay
gắt bằng cạnh tranh trên thị trường gạo trong nước. Cạnh tranh giữa các quốc
gia chủ yếu là cạnh tranh về chất lượng gạo xuất khẩu, hoặc các dịch vụ có
liên quan đến hoạt động xuất khẩu gạo. Những thay đổi về giá cả ở thị trường
nội địa thường là kết quả của sự biến động giá ở thị trường quốc tế. Song, so
với các thị trường khác, cạnh tranh trên thị trường gạo thường diễn ra căng
thẳng hơn.
1.2. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo
1.2.1. Nội dung của hoạt động xuất khẩu gạo
Hoạt động xuất khẩu gạo bao gồm nhiều khâu. Khi nghiên cứu hoạt
động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp chúng ta có thể xét tới ba nội dung
chủ yếu. Một là, hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp; hai
là, hoạt động thu mua và chế biến xay xát gạo xuất khẩu; ba là, hoạt động bán
gạo cho khách hàng nước ngoài.
Nguyễn Quân Phong
13
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
1.2.1.1. Hoạt động nghiên cứu thị trường
Vấn đề đầu tiên mà các doanh nghiệp xuất khẩu cần quan tâm đó là
nghiên cứu thị trường một cách cụ thể và chi tiết. Nghiên cứu thị trường càng
cụ thể và chi tiết sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động, linh hoạt trong hoạt
động xuất khẩu.
Thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Đối với bất kỳ một
doanh nghiệp kinh doanh nào, công tác nghiên cứu thị trường luôn là công
việc đầu tiên giúp các doanh nghiệp nắm vững các yếu tố thị trường, hiểu biết
các quy luật vận động của thị trường từ đó đưa ra các ứng xử kịp thời, phù
hợp. Đặc biệt là đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu, việc nghiên cứu thị
trường lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Nghiên cứu thị trường là cả một quá trình tìm hiểu khách quan, có hệ
thống cùng với việc phân tích tổng hợp các thông tin cần thiết để giải quyết
các vấn đề về hoạt động marketing. Đối với hoạt động xuất khẩu, quá trình
nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải công phu, tỉ mỉ hơn vì khối lượng và giá trị
của những mặt hàng xuất khẩu thường rất lớn so với buôn bán trong nước.
Hơn nữa, dưới góc độ nào đó kinh doanh ngoại thương chứa đựng nhiều rủi
ro hơn so với kinh doanh nội địa nếu chỉ cần một sự bất cẩn sẽ dẫn đến những
hậu quả khôn lường.
Tham gia hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp phải nghiên cứu thị
trường gạo trong nước (thị trường thu mua lúa gạo xuất khẩu) và thị trường
gạo thế giới (thị trường xuất khẩu gạo):
- Nghiên cứu thị trường gạo trong nước, các doanh nghiệp cần nghiên
cứu tình hình sản xuất lúa gạo và nhu cầu gạo trong nước; nghiên cứu các đối
thủ cạnh tranh mua gạo xuất khẩu; nghiên cứu các loại gạo được sản xuất và
bán trên thị trường; điều kiện kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, các cơ sở chế
biến gạo xuất khẩu trong nước, chính sách của Nhà nước đối với lương thực
và đối với xuất khẩu gạo.
Nguyễn Quân Phong
14
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
- Nghiên cứu thị trường gạo thế giới, các doanh nghiệp phải tìm hiểu tình
hình sản xuất và tiêu thụ gạo trên thị trường thế giới, xu hướng tiêu dùng gạo
của người tiêu dùng thế giới; nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng thế giới
đối với mặt hàng gạo. Ngoài ra, các doanh nghiệp phải nghiên cứu tình hình,
khả năng của các nước xuất nhập khẩu gạo chủ yếu; nghiên cứu luật pháp,
phong tục, tập quán, văn hóa, điều kiện giao thông vận tải, kho chứa, bến bãi,
thông tin liên lạc của các nước nhập khẩu...
Tóm lại, nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trên
thị trường mua và bán gạo được tập trung vào nghiên cứu tình hình sản xuất
và tiêu thụ gạo; nghiên cứu mặt hàng; nghiên cứu đối thủ cạnh tranh; nghiên
cứu chính sách của Chính phủ nước mình và chính sách của Chính phủ các
nước xuất nhập khẩu gạo; nghiên cứu các điều kiện cụ thể của thị trường.
1.2.1.2. Hoạt động thu mua và chế biến xay xát gạo xuất khẩu
Hoạt động thu mua và chế biến xay xát gạo xuất khẩu là một khâu quan
trọng trong hoạt động xuất khẩu. Nó bảo đảm nguồn cung ứng gạo xuất khẩu
đủ tiêu chuẩn để phục vụ xuất khẩu.
- Khâu thu mua lúa gạo
Khâu thu mua là khâu rất quan trọng bảo đảm tính đồng nhất của lúa gạo
phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu
gạo thu mua lúa gạo bằng nhiều phương thức. Họ có thể mua trực tiếp của
người nông dân, thông qua các chi nhánh đặt tại các vùng chuyên canh lúa
của các doanh nghiệp hoặc mua gián tiếp thông qua thương lái, cơ sở xay xát
nhỏ.
Về phương thức thanh toán khi thu mua lúa gạo, các doanh nghiệp xuất khẩu
có thể thanh toán theo các hình thức như: thanh toán trực tiếp (tiền – hàng), thanh
toán qua hợp đồng bao tiêu sản phẩm, thanh toán ứng trước, v.v...
- Khâu chế biến xay xát
Đây là khâu đảm bảo chất lượng gạo xuất khẩu theo yêu cầu của khách
hàng nhập khẩu. Để khâu chế biến và xay xát đạt hiệu quả, các doanh nghiệp
Nguyễn Quân Phong
15
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
phải bảo đảm lựa chọn công nghệ xay xát chế biến hiện đại, đồng thời xây
dựng các nhà máy xay xát, kho chứa đạt tiêu chuẩn. Các doanh nghiệp cũng
có thể thuê các cơ sở chế biến tư nhân xay xát gạo. Hiện nay, ở Việt Nam, gạo
sau khi xay xát chế biến sẽ được phân ra thành các loại: gạo trắng hạt dài 5%
tấm, 10% tấm, 15% tấm, 25% tấm, 35% tấm, 100% tấm, nếp, gạo thơm.
1.2.1.3. Hoạt động bán gạo cho khách hàng nước ngoài
Việc thực hiện hoạt động bán gạo cho khách hàng nước ngoài bao gồm
những nội dung sau:
- Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu: Đàm phán, thương lượng là
sự bàn bạc trao đổi với nhau về các điều khoản mua bán giữa các nhà kinh
doanh để đi đến thống nhất ký hợp đồng. Sau khi đàm phán và đi đến thống
nhất, hai bên giao dịch phải thực hiện ký kết hợp đồng mua bán đặc biệt, đó là
sự thoả thuận bằng văn bản giữa những chủ thể có quốc tịch khác nhau, trong
đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao cho bên mua quyền sở hữu một tài sản
nhất định gọi là hàng hoá, còn bên mua có nghĩa vụ trả một khoản tiền ngang
giá trị hàng hoá cho bên xuất khẩu bằng các phương thức thanh toán quốc tế
và nhận hàng.
- Thực hiện hợp đồng xuất khẩu: Sau khi các bên ký kết với nhau hợp
đồng mua bán quốc tế (hợp đồng ngoại thương) thì cũng có nghĩa là các bên
đã gắn quyền lợi và trách nhiệm của mình vào các điều khoản của hợp đồng.
Công việc kế tiếp là đơn vị xuất khẩu và nhập khẩu phải tiến hành thực hiện
theo đúng hợp đồng nhằm tránh những tranh chấp, sai sót đáng tiếc xảy ra.
- Khiếu nại, giải quyết tranh chấp: Mục đích của công việc này của nhà
xuất khẩu là bảo vệ lợi ích của mình trong trường hợp các nhà nhập khẩu hay
các nhà vận chuyển không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, gây thiệt hại cho người
xuất khẩu. Căn cứ để đơn vị xuất khẩu bảo vệ lợi ích của mình là: nội dung hợp
đồng và kết quả thực hiện hợp đồng. Việc giải tranh chấp có thể giải quyết theo
phương hướng tự đàm phán hay thông qua trọng tài hoặc tòa án kinh tế.
Nguyễn Quân Phong
16
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
Các doanh nghiệp có thể chủ động đàm phán riêng lẻ với khách hàng
nước ngoài về giá cả, chất lượng, khối lượng, phương thức giao hàng, phương
thức thanh toán, vận chuyển, bảo hiểm, v.v... Các doanh nghiệp cũng có thể
đàm phán trên cơ sở điều hành, chỉ đạo các Hiệp hội ngành hàng lương thực
hoặc bàn bạc thống nhất với các doanh nghiệp xuất khẩu bạn về các nội dung
đàm phán với khách hàng nước ngoài. Hoạt động bán gạo cho các khách hàng
nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú ý khâu ký kết hợp đồng, để hạn
chế tối đa rủi ro do tranh chấp có thể xảy ra. Mặt khác, các doanh nghiệp còn
chú ý tới các doanh nghiệp xuất khẩu khác để có thể liên kết, hợp tác, thống
nhất, phối hợp khi đàm phán với khách hàng, tránh cạnh tranh có lợi cho
khách hàng.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo của
Việt Nam và của tỉnh An Giang
1.2.2.1. Xu hướng tiêu dùng của thị trường gạo thế giới
Trên thị trường gạo thế giới trong nhiều năm qua, nhu cầu gạo gắn liền
với thị hiếu tiêu dùng rất khác nhau ở từng nước và khu vực cụ thể. Điều đó
tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, về sở thích hay tập quán ăn uống
hàng ngày, mức thu nhập ... ở những nước có truyền thống sử dụng gạo trong
bữa ăn chính, xu hướng tiêu dùng gạo sẽ thay đổi khi đời sống kinh tế thay
đổi. Khi kinh tế tăng trưởng, đời sống được nâng cao, cuộc sống hối hả hơn,
thời gian eo hẹp hơn, người ta thường chuyển từ bữa ăn truyền thống với cơm
sang những bữa ăn nhanh (fast food) với các sản phẩm lương thực thay thế
cho cơm. Do vậy, nhu cầu tiêu dùng gạo sẽ giảm đi. Khi thu nhập tăng, người
tiêu dùng sẽ có nhu cầu tăng lên đối với gạo có chất lượng cao.
Sở thích người tiêu dùng đối với gạo rất đa dạng, phong phú. Ở một số
nước, gạo phải xát thật trắng và đánh bóng kỹ thì được ưa chuộng hơn. Trong
khi đó, có nơi lại thích gạo xát không kỹ, còn nhiều vỏ cám (gạo lức) như ở
Madagasca. Có nơi, người dân lại thích ăn gạo đỏ. Nhìn chung, người tiêu
dùng thế giới thích ăn gạo mới, có hương vị tự nhiên, không lẫn các mùi
Nguyễn Quân Phong
17
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
ngoại lai. Tuy nhiên, một số nơi ở Ấn Độ, Pakistan, người dân thích ăn gạo
được bảo quản ít nhất 06 tháng sau khi gặt.
Sở thích người tiêu dùng đối với gạo hạt tròn, gạo hạt dài, gạo có tỷ lệ
tấm cao, thấp rất khác nhau. Nói chung, nếu phân chia theo chất lượng gạo
hạt tròn, hạt dài, xu hướng tiêu dùng gạo thế giới có những loại sau:
- Xu hướng tiêu dùng gạo hạt dài, chất lượng cao:
Các nước phát triển ở khu vực Tây Âu và Nhật Bản, sau đó là các nước
NIC khu vực Châu Á, Trung Đông và Đông Nam Á, các nước NIC khu vực
châu Mỹ La tinh là những khách hàng có xu hướng tiêu dùng gạo hạt dài, chất
lượng cao. Thực chất đây là xu hướng tiêu dùng gạo cao cấp, sản phẩm trực
tiếp của chủng loại lúa gạo Indica có giá trị cao. Loại gạo này chiếm khoảng
25% tổng lượng gạo nhập khẩu của thế giới, đảm bảo hiệu quả cao cho nhà
xuất khẩu. Đây là những khách hàng tiêu dùng “khó tính”, đặc biệt chú trọng
quy cách phẩm chất và tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp. Các nhà xuất khẩu
chính là Mỹ và Thái Lan. Thực tế những năm qua, gạo xuất khẩu đạt tiêu
chuẩn quốc tế cao được xếp cấp loại A là gạo của Mỹ số 2, tỷ lệ tấm không
quá 4% hạt dài, trắng trong, cỡ hạt đều, không tạp chất, không có mùi vị lạ,
cũng không lẫn hạt đỏ, vàng sọc, bạc bóng, giao dịch với mức giá cao. Ngay
gạo Mỹ số 5, loại hạt trung bình, 20% tấm vẫn tốt hơn và đạt mức giá cao hơn
gạo Thái 100 B (loại gạo trắng hạt dài 100% không có tấm). Nói chung gạo
Thái Lan chỉ được xếp cấp loại B, giá thấp hơn gạo Mỹ rất nhiều. Gạo Việt
Nam hiện nay vẫn chưa đạt tiêu chuẩn chất lượng này nên giá xuất khẩu còn
thấp hơn nữa.
- Xu hướng tiêu dùng gạo hạt dài, chất lượng trung bình tốt
Loại gạo này chiếm khoảng 45-50% tổng lượng gạo nhập khẩu thế giới,
phần lớn do Thái Lan cung cấp, tỷ lệ tấm 5%-25%. Sau Thái Lan, những
nước xuất khẩu khác là Việt Nam, Ấn độ, gần đây có Pakistan... xu hướng
tiêu thụ chính loại gạo này là những nước Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La
tinh [30, tr.111].
Nguyễn Quân Phong
18
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
- Xu hướng tiêu dùng gạo hạt tròn
Loại gạo này hầu hết thuộc chủng loại Japonica, hợp với vùng khí hậu
lạnh hơn như Trung Quốc, Nhật Bản, lãnh thổ Đài Loan, Úc, Mỹ, Italia.
Những nước nhập khẩu chính thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương như
Nhật Bản, Hàn Quốc... Xu hướng tiêu dùng gạo hạt tròn chiếm khoảng 10%
tổng lượng gạo nhập khẩu toàn cầu.
- Xu hướng tiêu dùng gạo đồ hấp
Loại gạo này được chế biến theo quy trình luộc lúa trước khi xay xát
để hạt gạo cứng, ít bị vỡ, giữ được hương vị thơm của cơm sau khi nấu. Đại
bộ phận dân Bangladesh, sau đó là một phần dân Ấn Độ, Srilanca, Pakistan,
Nam Phi, Tây Phi, Ả rập, Nigeria thích dùng loại gạo này, chiếm 15%-20%
tổng lượng nhập khẩu gạo toàn cầu.
- Xu hướng tiêu dùng gạo thơm đặc sản
Tuy chỉ chiếm từ 5% đến 8% tiêu thụ gạo thế giới nhưng việc đáp ứng
xu hướng tiêu dùng gạo thơm đặc sản lại có ý nghĩa kinh tế quan trọng vì gạo
thơm đặc sản có giá trị dinh dưỡng cao, dễ hấp thụ nên giá xuất khẩu thường
gấp từ 2 đến 3 lần giá gạo đại trà thông thường. Gạo thơm Basmati khá nổi
tiếng được canh tác ở vùng Punjab Ấn Độ và ở Pakistan. Tuy nhiên loại gạo
thơm thường được khách hàng ưa chuộng hơn vẫn là loại Kao Dawk Mali
(hay Jasmine) do Thái Lan xuất khẩu. Nói chung xu hướng tiêu dùng gạo
thơm đặc sản tập trung ở những nước phát triển có thu nhập cao, kế đến
những nước Châu Á, Châu Mỹ La tinh[31, tr.57].
1.2.2.2. Thương hiệu sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp
Từ khi Việt Nam bước chân vào sân chơi lớn, hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế, đó cũng là lúc các doanh nghiệp phải quan tâm đến thương hiệu
của sản phẩm, trong đó thương hiệu sản phẩm đối với hàng nông sản lại có
yêu cầu quan trọng và cấp bách hơn bao giờ hết. Doanh nghiệp khi xây dựng
được thương hiệu sản phẩm cho mình sẽ làm tăng giá trị sản phẩm khi xuất
khẩu. Các khách hàng bao giờ cũng muốn sử dụng những mặt hàng có thương
Nguyễn Quân Phong
19
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
hiệu, có uy tín trên thị trường. Thí dụ, khi nói đến gạo Basmati là ta nghĩ ngay
đến gạo do Ấn Độ và Pakistan sản xuất. Nói đến gạo Kao Dawk Mali, gạo
"Hương Nhài - Jasmine" là ta nghĩ đến Thái Lan. Vậy Việt Nam ta, thương
hiệu gạo vẫn đang là vấn đề nan giải. Mặc dù từ xưa gạo Việt Nam đã có
những loại gạo rất nổi tiếng như: Tám Thơm, Tám Xoan, Dự Hương, Nếp Cái
hoa vàng, Nàng Hương, v.v…
1.2.2.3. Chất lượng gạo xuất khẩu
Chất lượng gạo xuất khẩu được thể hiện ở nhiều tiêu chí như độ bạc
bụng của gạo, độ ẩm. Gạo có độ bạc bụng lớn, độ ẩm cao khi xay xát sẽ dễ bị
vỡ nên làm giảm tỷ lệ hạt gạo nguyên. Tỷ lệ gạo nguyên thay đổi tùy theo bản
chất giống và phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh như nhiệt độ, độ ẩm
khi lúa chín và điều kiện bảo quản phơi sấy sau thu hoạch. Sự rạn nứt hạt
thường do nắng, sự thay đổi nhanh và độ ẩm không khí, những bất thuận về
môi trường trong quá trình chín của hạt và thu hoạch trễ trong vụ nắng làm
hạt có độ ẩm thấp. Bên cạnh đó, tỷ lệ độ ẩm cũng ảnh hưởng đáng kể đến chất
lượng gạo. Những hạt đã khô nếu đột ngột hút ẩm cũng có thể tạo ra các vết rạn
dọc trong hạt và gây ra những mảnh vỡ nhỏ khi xay xát. Hạt càng khô bị hút ẩm
trở lại sẽ bị vỡ nhiều. Điều này làm cho gạo xuất khẩu sẽ không được giá.
Tỷ lệ tinh bột và hàm lượng protein trong gạo là những thông số quan
trọng của giá trị dinh dưỡng hạt gạo. So với các loại hạt ngũ cốc khác, hạt gạo
có tỷ lệ tinh bột và hàm lượng protein cao. Hiện nay, các nhà chọn giống đã
cố gắng cải tiến nhằm nâng cao chất lượng hàm lượng protein trong các giống
lúa mới nhưng ít thành công vì di truyền tính trạng protein trong hạt rất phức
tạp và tính trạng này chịu ảnh hưởng bởi môi trường khá mạnh mẽ.
Tóm lại, chất lượng gạo xuất khẩu bị chi phối bởi rất nhiều khâu, từ chọn
giống cho đến canh tác, thủy lợi, thu mua, xay xát chế biến và bảo quản. Sự
liên kết nhịp nhàng sẽ các khâu sẽ đảm bảo chất lượng đồng nhất về chủng
loại, màu sắc, chất lượng dinh dưỡng và điều này sẽ làm cho giá trị gạo xuất
khẩu tăng lên, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả xuất khẩu gạo.
Nguyễn Quân Phong
20
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
1.2.2.4. Nhân tố về chính sách
Chính sách xuất khẩu gạo của Việt Nam
Ở nước ta, chính sách quan trọng nhất và bao trùm là thực hiện nhất
quán chính sách kinh tế nhiều thành phần trong kinh doanh lúa gạo, tạo nên
sự cạnh tranh ở cả khâu sản xuất và lưu thông. Về sản xuất, có thể coi thành
công lớn nhất là việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp là đã thừa
nhận kinh tế hộ gia đình; hộ nông dân được giao quyền trực tiếp sử dụng
ruộng đất, người nông dân được làm chủ trên thửa ruộng của mình, tự chủ bố
trí việc cơ cấu sản xuất sao cho có lợi nhất theo tín hiệu thị trường. Họ cùng
tham gia cung ứng lúa gạo cho thị trường, cạnh tranh với nhau ngay từ trong
sản xuất để làm cho sản phẩm của mình có chi phí thấp, chất lượng ngày càng
tốt hơn. Đối với lưu thông, cho phép các thành phần kinh tế tự do kinh doanh,
trên cơ sở tôn trọng pháp luật; các thành phần kinh tế cạnh tranh với nhau cả
trong mua và bán.
Chính sách thương mại tự do thay thế cho tình trạng độc quyền kinh
doanh. Hoạt động kinh doanh lúa gạo trên thị trường trước năm 1989, với đặc
trưng cơ bản Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng cơ chế hành chính bao cấp
với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh từ sản xuất đến lưu thông, phân
phối. Nhà nước vừa là chủ thể sản xuất vừa là chủ thể kinh doanh, đồng thời
Nhà nước bảo hộ về thị trường tiêu thụ lúa gạo bằng cách thu mua gần như tất
cả lúa gạo thông qua việc Nhà nước giao nghĩa vụ, bắt người sản xuất phải
bán thóc cho Nhà nước theo giá cả do Nhà nước ấn định. Trên thị trường, các
công ty thu mua lương thực quốc doanh của Nhà nước được tổ chức thành
một hệ thống thu mua lương thực quốc doanh từ Trung ương đến địa phương
với nhiều tầng nấc, cấp nọ phải bán cho cấp kia theo chỉ tiêu kế hoạch mang
tính pháp lệnh bắt buộc. Cùng với sự đổi mới chung của cơ chế kinh tế từ
1989 đến nay, chính sách thương mại đã được thay đổi căn bản từ độc quyền
kinh doanh chuyển sang tự do hóa lưu thông với nhiều thành phần kinh tế
cùng tham gia mua bán, tự do lưu thông đã tạo điều kiện để các thành phần
Nguyễn Quân Phong
21
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
kinh tế cạnh tranh với nhau trong kinh doanh, người sản xuất tự do tìm kiếm
nơi nào mua gạo có lợi nhất để bán. Người nông dân phấn khởi và tăng gia
sản xuất, người tiêu dùng thì tự giác sử dụng lương thực có hiệu quả từ đó dẫn
đến sự điều hòa lương thực từ nơi thừa sang nơi thiếu. Để hỗ trợ cho nông dân
tiêu thụ lúa hàng hóa dễ dàng và hiệu quả, các doanh nghiệp áp dụng nhiều
phương thức mua bán linh hoạt hoặc ký hợp đồng bao tiêu lượng lúa sau khi
sản xuất nhằm giúp cho nông dân có nhiều cơ hội bán lúa đạt giá cao, tạo mối
liên kết hữu cơ về lợi ích giữa doanh nghiệp với nông dân.
Đối với hoạt động xuất khẩu, gạo Việt Nam trở lại thương trường quốc
tế năm 1989 nhưng cơ chế điều hành xuất khẩu gạo lại chưa được định hình
rõ nét. Đến những năm 1990-1991, sản xuất lúa ở các tỉnh Nam bộ phát triển
mạnh, Nhà nước đã khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo
nếu tìm được thị trường và bạn hàng. Năm 1992, để đảm bảo an ninh lương
thực và điều hành thị trường gạo xuất khẩu được "trật tự", Chính phủ thực
hiện việc quản lý xuất khẩu gạo thông qua hạn ngạch xuất khẩu. Trong năm
1992, cả nước có 43 doanh nghiệp quốc doanh được cấp phép làm đầu mối
xuất khẩu gạo, tuy nhiên do nhiều đầu mối và khách hàng ít nên đã bị khách
hàng nước ngoài ép giá, gây thiệt hại cho nền kinh tế. Để khắc phục, năm
1993, Chính phủ đã tổ chức lại và giao cho 17 doanh nghiệp làm đầu mối xuất
khẩu. Đến năm 1996 giảm xuống còn 15 đầu mối; năm 1997 Chính phủ thông
qua quyết định số 141-TTg nhằm quy định giá sàn mua lúa để định hướng,
điều hành thị trường nhằm bảo vệ lợi ích cho nông dân. Vào thời gian này,
Chính phủ chọn và chỉ định các doanh nghiệp xuất khẩu bao gồm không chỉ
doanh nghiệp quốc doanh mà cả doanh nghiệp tư nhân có năng lực làm đầu
mối xuất khẩu nên số lượng đầu mối xuất khẩu tăng từ 22 năm 1997 lên 47
đầu mối xuất khẩu năm 1999.
Từ năm 1994 đến 1999, Nhà nước đã sử dụng Quỹ bình ổn giá chi hỗ trợ
một phần lãi suất vay ngân hàng cho các doanh nghiệp mua lúa dự trữ chuẩn
bị chân hàng xuất khẩu với số tiền 297 tỷ đồng. Đáng chú ý là năm 1998,
Nguyễn Quân Phong
22
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
Chính phủ ra Quyết định số 55/1998/QĐ-TTg và Quyết định 57-CP cho phép
các doanh nghiệp được xuất khẩu hàng hóa (trong đó có gạo). Như vậy đã kết
thúc thời kỳ các doanh nghiệp nhà nước độc quyền về xuất khẩu gạo.
Từ năm 2001 đến nay, việc tổ chức xuất khẩu gạo trực tiếp được tháo gỡ
những vướng mắc, khó khăn nên việc xuất khẩu ngày càng thuận lợi. Nhà
nước chỉ đóng vai trò định hướng xuất khẩu, Nhà nước giao việc xuất khẩu
cho các doanh nghiệp. Xuất khẩu gạo chính thức không cần giấy phép, quata,
không quy định đầu mối; mọi thành phần kinh tế đều được tham gia xuất
khẩu… trên cơ sở đó để Hiệp hội và các doanh nghiệp bàn bạc tổ chức triển
khai chủ động đấu thầu xuất khẩu gạo ở thị trường nước ngoài và để ký hợp
đồng xuất khẩu[23, tr.52].
1.3. Kinh nghiệm xuất khẩu gạo trong nước và ngoài nước
1.3.1.Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của tỉnh Đồng Tháp
Đồng Tháp là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long có diện
tích đất nông nghiệp và sản lượng gạo xuất khẩu chiếm tỷ lệ cao trong khu
vực. Để duy trì diện tích đất nông nghiệp và sản lượng gạo xuất khẩu cao
trong thời gian chính quyền nhà nước, nhân dân của tỉnh cũng có nhiều chủ
trương chính sách và biện pháp như:
Thứ nhất, là các cấp chính quyền của tỉnh Đồng Tháp có chính sách phù
hợp trong việc hoạch định các chính sách, các chiến lược xuất khẩu gạo phù
hợp trong từng giai đoạn. Bên cạnh đó chính quyền của tỉnh Đồng Tháp cũng
có chính sách khuyến khích cho hoạt động xuất khẩu gạo đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu gạo trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
Thứ hai, là tỉnh Đồng Tháp có sự liên kết với các trung tâm nghiên cứu
khoa học, các viện nghiên cứu và các công ty bảo vệ thực vật trong khu vực
đồng bằng sông Cửu Long trong sản xuất nông nghiệp làm cho năng suất,
chất lượng lúa gạo của tỉnh cao tạo điền kiện cho việc ký kết hợp đồng xuất
khẩu của tỉnh được dễ dàng.
Nguyễn Quân Phong
23
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
Thứ ba, nông dân ở tỉnh Đồng Tháp biết ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
trong sản xuất lúa và trồng các loại lúa chất lượng cao, hạt dài…để thu được
lợi nhuận cao cũng như dễ dàng tiêu thụ lúa sau khi thu hoạch.
Thứ tư, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở tỉnh Đồng Tháp rất năng
động, sáng tạo và tích cực trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu gạo cho
mình. Đồng thời các doanh nghiệp cũng có sự liên kết, hỗ trợ nông dân trong
quá trình sản xuất lúa như bao tiêu sản phẩm lúa có chất lượng cao, hướng
dẫn cho nông dân khoa học kỹ thuật trong canh tác lúa .Ngoài ra các doanh
nghiệp cũng năng cao uy tín chất lượng gạo của mình bằng cách xây dựng
thượng hiệu, đầu tư các dây chuyền chế biến hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế…
1.3.2. Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của tỉnh Tiền Giang
Tiền Giang cũng là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long
tuy có diện tích đất trồng lúa thấp hơn nhiều so với các tỉnh khác ở đồng bằng
sông Cửu Long nói chung và so với tỉnh An Giang nói riêng. Tuy nhiên tỉnh
Tiền Giang lại có sản lượng gạo xuất khẩu chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng sản
lượng gạo xuất khẩu của khu vực và được xem là vựa gạo của khu vực đồng
bằng sông Cửu Long là do:
Thứ nhất, được sự hỗ trợ của Chính phủ và tỉnh các cấp chính quyền địa
phương của tỉnh Kiên Giang đã xây dựng hệ thống kênh, rạch để cải tạo các
vùng có diện tích đất nông nghiệp nhiễm phèn, ít phù sa, ít màu mỡ để tăng
lượng phù sa, lượng màu mỡ cho đất để có thể trồng lúa cho năng suất và chất
lượng cao.
Thứ hai, các cấp chính quyền của tỉnh Tiền Giang thực hiện tốt các chính
sách hỗ trợ nông dân trong quá trình sản xuất như thực hiện các chương trình
phối hợp 4 nhà (nhà quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông),
chương trình khuyến nông, các trương trình ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
trong sản xuất lúa (3 giảm, 3 tăng, 4 đúng, 1 phải 5 giảm)…
Thứ ba,, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở tỉnh Tiền Giang rất năng
động, sáng tạo và tích cực trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu gạo cho
Nguyễn Quân Phong
24
Lớp: Quản lý kinh tế K30B
Khóa luận tốt nghiệp: Xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp
mình. Đồng thời các doanh nghiệp cũng có sự liên kết, hỗ trợ nông dân trong
quá trình sản xuất lúa như bao tiêu sản phẩm lúa có chất lượng cao, hướng
dẫn cho nông dân khoa học kỹ thuật trong canh tác lúa .Ngoài ra các doanh
nghiệp cũng năng cao uy tín chất lượng gạo của mình bằng cách xây dựng
thượng hiệu, đầu tư các dây chuyền chế biến hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế…
Thứ tư, là tỉnh Tiền Giang đã xây dựng được các trung tâm đầu mối cho
việc thu mua và dự trữ lúa gạo nổi tiếng trên khắp cả nước như huyện Chợ Gạo
đã thu mua một khối lượng lúa gạo khá lớn của các tỉnh thuộc khu vực đồng
bằng Sông Cửu Long phục vụ cho việc xuất khẩu gạo ra nhiều nước khác trong
khu vực và trên thế giới.
Nhìn chung các tỉnh thành thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long đêu
có vị trí địa lý, điền kiện tự nhiên, diện tích đất nông nghiệp lớn và màu mỡ
rất thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp đặc biệt là trồng lúa cho năng suất
và chất lượng cao.Bên cạnh đó được sự hỗ trợ của Trung Ương cùng vời các
chính sách đúng đắn, phù hợp của từng địa phương đã làm cho hoạt động sản
xuất lúa và sản lượng gạo xuất khẩu trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long
luôn luôn đi đầu cả nước để lại cho các tỉnh thành của cả nước nói chung và
các tỉnh thành trong khu vực nói riêng nhiều bài học kinh nghiệm trong hoạt
động xuất khẩu gạo.
1.3.3. Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Thái Lan
Thái Lan là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á có diện tích đất tự
nhiên khoảng 513.000km2 trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng
38,62% (năm 2009), diện tích đất trồng lúa chiếm trên 55% tổng diện tích đất
nông nghiệp của Thái Lan. Thái Lan là quốc gia đi đầu trên thế giới về sản
lượng gạo xuất khẩu trong nhiều thập kỷ và luôn luôn là đối thủ cạnh tranh số
một của Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu gạo. Để trở thành quốc gia có sản
lượng gạo xuất khẩu cao nhất thế giới thì ngoài việc được thiên nhiên ưu đãi,
vị trí đại lý thuận lợi, diện tích đất nông nghiệp lớn, đất đai màu mỡ, bên cạnh
Nguyễn Quân Phong
25
Lớp: Quản lý kinh tế K30B