Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
PHẦN MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA NGHIÊN CỨU
Đồng bằng sông Cửu Long là nơi có hệ thống sông ngòi chằn chịt đặt biệt là
hai nhánh sông Tiền và sông Hậu dài trên 120km cung cấp một lượng phù sa lớn
đạt 1000 triệu tấn /năm . Vì vậy, diện tích đất của đồng bằng sông Cửu Long chủ
yếu là đất phù sa (khoảng 1.800.000ha) và đất phèn khoảng (1.100.000ha), đồng
thời đây là khu vực nhiệt đới gió mùa tiềm năng cho việc trồng lúa nên đồng
bằng sông Cửu Long được mệnh danh là vựa lúa lớn nhất của cả nước. Những
tỉnh có diện tích trồng lúa chủ lực của vùng (Theo số liệu thông kê năm 2007 của
Cục thống kê) là Long An (11,4%), Đồng Tháp (11,9%), Kiên Giang (14,9%),
An Giang (13,7%)…
Tuy nhiên trước sự phát triển của khoa học công nghệ, và tiến trình hội nhập
của đất nước thì ngành trồng trọt nói chung và ngành trồng lúa nói riêng vẫn còn
phát triển chậm, chất lượng lúa chưa cao, việc thu hoạch và bảo quản còn thô sơ .
Bên cạnh đó đầu ra của mặt hàng này còn bấp bênh, người nông dân phụ thuộc
nhiều vào thương lái, hiện tượng trúng mùa rớt giá vẫn thường xuyên xảy ra gây
hoang mang cho nông dân họ bỏ đất canh tác lúa chuyển sang canh tác các cây
giống khác.Vì vậy yêu cầu bức thiết hiện nay là cần phải đánh giá đúng tình hình
thị trường lương thực để định hướng đầu tư thâm canh và ổn định đầu ra cho mặt
hàng này, giúp cho nhà nông thu được hiệu quả kinh tế cao và lâu dài góp phần
đưa nền kinh tế nông nghiệp của vùng ngày càng phát triển.
Từ những vần đề trên, đề tài “Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa
ở đồng bằng sông Cửu Long” sẽ phân tích kĩ hơn thực trạng sản xuất và tiêu thụ
Lúa hiện nay trên đồng bằng sông Cửu Long nhằm đề xuất các giải pháp phát
triển mặt hàng này.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 1 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung:
Phân tích thực trạng sản xuất và tiêu thụ lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
nhằm đề xuất các giải pháp giúp gia tăng hiệu quả sản xuất, ổn định đầu ra cho
mặt hàng này. Thông qua đó có thể giúp cho nông dân có thể nâng cao thu nhập
của mình.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
-
Khái quát chung về tình hình sản xuất, thu hoạch và tiêu thụ lúa trên cả
nước.
-
Phân tích và đánh giá thực trạng sản xuất và tiêu thụ lúa ở đồng bằng sông
Cửu Long.
-
Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe dọa đối với mặt hàng này
-
Đề xuất các giải pháp cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ lúa trên Đồng
bằng sông Cửu Long nhằm mang lại hiệu quả kinh tế tốt nhất.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Phương pháp thu thập số liệu:
Đề tài sử dụng số liệu thứ cấp được thu thập từ sách, báo, internet, các báo
cáo hàng năm của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Trung tâm thông tin
nông nghiệp nông thôn,….
- Ưu điểm:
+ Tiết kiệm chi phí.
+ Được sử dụng để viết về thực trạng, tình hình của đối tượng nghiên cứu.
+ Làm cơ sở để đối chiếu với thực tế.
- Nhược điểm:
+ Số liệu được tổng hợp theo ý của người khác nên chỉ sử dụng được một
phần.
3.2.Phương pháp xử lý số liệu
Đề tài sử dụng phương pháp so sánh, bao gồm so sánh số tương đối và số
tuyệt đối để phản ánh tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa năm 2008 so với năm
2007, và so với 2006:
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 2 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
Tăng/giảm số tuyệt đối =Năm thực hiện – Năm kế hoạch
Năm thực hiện
Mức độ
biến động
=
Năm kế hoạch
X
100%
3.3. Phương pháp phân tích
o
Mục tiêu 1:Khái quát chung về tình hình sản xuất, thu hoạch và tiêu thụ
lúa trên cả nước. Sử dụng nguồn số liệu thu thập từ nguồn tổng cục Thống
Kê, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn…
o
Mục tiêu 2: Phân tích và đánh giá thực trạng sản xuất và tiêu thụ lúa trên
đồng bằng sông Cửu Long. Sử dụng phương pháp phân tích định lượng: phân
tích thống kê mô tả, dựa trên những số liệu được tính toán từ nguồn tổng cục
Thống Kê, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn…để tổng kết, đánh giá
được tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa trên đồng bằng sông Cửu Long từ năm
2006 đến năm 2009.
o
Mục tiêu 3: Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe dọa đối với mặt
hàng này. Sử dụng phương pháp phân tích định tính tổng quan để mô tả việc
xuất khẩu hàng nông sản trong thời gian qua, xem xét và nhận xét được ưu và
nhược điểm của việc xuất khẩu nông sản.
o
Mục tiêu 4: Đề xuất các giải pháp cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ lúa
ở Đồng bằng sông Cửu Long nhằm mang lại hiệu quả kinh tế tốt nhất. Sử
dụng phương pháp phân tích định tính thảo luận để cung cấp thông tin, quan
điểm, đề xuất biện pháp nâng cao xuất khẩu trong thời gian tới.
4. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Không gian: đề tài tập trung phân tích tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa
trên đồng bằng sông Cửu Long.
- Thời gian: các số liệu nghiên cứu chủ yếu được thu thập trong 4 năm:
2006, 2007, 2008 và 2009.
- Giới hạn về nội dung: Các thông tin về thị trường lương thực trên đồng
bằng sông Cửu Long. Đề tài tập trung phân tích tình hình sản xuất và tiêu
thụ lúa của đồng bằng sông Cửu Long.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 3 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ
LÚA CỦA CẢ NƯỚC
1.1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN:
Việt Nam đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp, nó góp phần quan trọng
trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người dân, sản phẩm nông sản không chỉ
đủ cung cấp trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài, góp phần làm tăng thu
nhập quốc dân. Trước hết, Việt Nam có diện tích đất liền là 329.297 km2 – theo
tổng điều tra cả nước năm 2002 , trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm hơn
28%, chỉ đứng sau đất lâm nghiệp. Cộng thêm với điều kiện sông ngòi dày đặc
với khoảng 2.860 sông ngòi lớn nhỏ phân bổ đều khắp từ Bắc tới Nam với lưu
vực lớn, đặc biệt là hai con sông lớn Hồng Hà và Cửu Long bắt nguồn từ cao
nguyên Vân Nam (Trung Quốc) bồi đắp nên hai châu thổ là đồng bằng Bắc Bộ
và đồng bằng sông Cửu Long phù sa màu mỡ thuận lợi cho việc sản xuất nông
nghiệp của nông dân.
Nằm trong khoảng 8”30’ – 23”22’ độ vĩ bắc với một chiều dài khoảng 1650
km, Việt Nam thuộc khu vực nhiệt đới gần xích đạo nên khí hậu chịu ảnh hưởng
khá sâu sắc của chế độ gió mùa châu Á (chủ yếu là gió mùa Đông Bắc và Đông
Nam). Lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 1.500 – 2.000 mm, độ ẩm trên
dưới 85% thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp đặc biệt là lúa.
Ngoài các điều kiện về đất đai, khí hậu, ngành nông nghiệp của ta còn có một
lực lượng lao động dồi dào. Khoảng 67% lực lượng lao động Việt Nam là lao
động nông nghiệp và sản xuất ra nhiều sản phẩm nông nghiệp khác nhau. Trình
độ văn hóa, kỹ thuật, tay nghề của nông dân ngày càng được nâng cao.
Qua đó ta thấy rằng Việt Nam có lợi thế rất nhiều về điều kiện tự nhiên để có
thể phát triển nông nghiệp một cách thuận lợi. Nhưng bên cạnh đó cũng cần phải
có đầu tư thêm về công nghệ và kĩ thuật để cho khâu sản xuất và tiêu thụ các sản
phẩm nông nghiệp đặc biệt là lúa được tốt hơn.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 4 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
1.2 TÌNH HÌNH SẢN XUẤT LÚA CỦA VIỆT NAM TRONG NĂM 2008:
Trong năm 2008 sản xuất nông nghiệp gặp không ít khó khăn về thời tiết, dịch
bệnh cũng như điều kiện thị trường. Mặt khác, cuộc khủng hoảng tài chính thế
giới bắt đầu từ giữa năm 2008 đã tạo nên những cơn bão giá (giá xăng dầu thế
giới tăng đã làm cho hàng loạt các vật tư nhập khẩu đầu vào của nông nghiệp
tăng mạnh) làm chi phí của người sản xuất tăng vào những tháng giữa năm. Đặc
biệt, những tháng cuối năm điều kiện thị trường của nông sản đã biến động bất
lợi cho ngành nông nghiệp: xuất khẩu khó khăn, nông sản khó tiêu thụ, v.v…Tất
cả những yếu tố này đã tạo ra một năm đầy những yếu tố bất thường đối với
ngành: kể cả thuận lợi cũng như khó khăn. Mặc dù vậy diện tích đất trồng lúa
vẫn tăng (2,8% so với năm 2007). Cụ thể, đối với sản phẩm lúa trong những năm
qua có chuyển biến như sau:
Sản lượng lúa năm 2007 ước tính đạt 35,88 triệu tấn, chỉ tăng 0,1% so với
năm trước, tương đương với tăng thêm 49,7 nghìn tấn đồng thời năng suất lúa
cũng tăng 1,8% tương đương với 0,9 tạ/ha tuy diện tích giảm 123,4 nghìn ha,
giảm 1,7%. Trong năm 2008 diện tích đất là 7399,6 nghìn ha, tăng 2,8% so với
năm 2007 tương đương 198,6 nghìn ha. Sản lượng lúa tính chung ba vụ đạt 38,63
triệu tấn, tăng 7,7% so với năm 2007, đồng thời năng suất lúa tăng 2,4 tạ/ha, tăng
4,8%. Nhìn chung tình hình sản xuất lúa của cả nước tương đối ổn định, đáp ứng
đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Bảng 1:DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT VÀ SẢN LƯỢNG LÚA CẢ NƯỚC
(2006-2008)
Chỉ tiêu
Năm
Năm
Năm
2006
2007
2008
7201,0
Diện tích
7324,4
(nghìn ha)
Năng suất
48,9
(tạ/ha)
Sản lượng
35,83
(triệu tấn)
Chênh lệch
2007 so với 2006
2008 so với 2007
(%)
(%)
7399,6
98,3
102,8
49,8
52,2
101,8
104,8
35,88
38,63
100,1
107,7
Nguồn: Tổng cục thống kê và Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 5 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
1.3 TÌNH HÌNH TIÊU THỤ LÚA CỦA VIỆT NAM TRONG NĂM 2008
Trong năm 2008 vừa qua thì tình hình tiêu thụ lúa của nông dân Việt Nam
khá là bấp bênh, lúa gạo bị tồn đọng nhiều do không bán được với nhiều nguyên
nhân chủ quan cũng như khách quan.
1.3.1 Nguyên nhân chủ quan
Việc tồn đọng lúa cũng như giá cả biến động do nhiều yếu tố khác. Thứ
nhất, sản lượng của chúng ta đạt cao do được giá, thời tiết thuận lợi nên bà con
nỗ lực sản xuất dẫn đến lượng cung lớn trong khi cầu của thị trường thế giới hiện
đã suy giảm. Thứ hai, do những khó khăn về vốn nên việc thu mua để tạm trữ
hàng của các doanh nghiệp có phần hạn chế hơn so với năm trước. Họ phải chịu
lãi suất cao khi vay vốn để trữ hàng trong kho nên các doanh nghiệp có xu hướng
xuất đến đâu thì mua đến đó.
1.3.2 Nguyên nhân khách quan
Do giá lúa có nhiều biến động lớn. Vào năm 2008 giá lúa gạo tăng cao
nhưng đến giữa năm thì lại giảm mạnh do cung tăng mạnh mà cầu thì lại giảm
nhưng đến cuối năm khi nông dân đã bán tháo hết lua thì giá lại tăng do không đủ
xuất khẩu.
Do giá lúa không ổn định nên đầu tháng 3 năm 2008 bộ nông nghiệp và
phát triển nông thôn đã đưa ra dự báo chênh lệch thực tiễn về sản lượng lúa và có
lệnh ngừng ký hợp đồng xuất khẩu gạo trong khi giá tăng cao nên các công ty
lương thực lo ngại, hệ thống lưu thông bình thường bị xáo động, xảy ra đầu cơ
tích trữ, thành ra thiếu gạo trên thị trường. Giá gạo bị đẩy lên 20.000 – 30.000
đồng/kg. Bà con nông dân rất hoang mang, họ chưa thấy khi nào giá gạo lại lên
cao như thế nên đã cùng nhau trồng lúa. Nhưng cùng lúc đó, Philippines,
Indonesia, Malaysia, Thái Lan cũng dốc sức trồng như mình nên khối lượng thu
hoạch rất lớn, nhu cầu nhập khẩu giảm mạnh nên làm cho giá lúa gạo cũng giảm
theo.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 6 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
Do giá lúa giảm mạnh và tuy chính phủ có hỗ trợ thu mua nhưng nông dân
vẫn phải chịu lỗ. Bên cạnh đó có nhiều nông dân chấp nhận bán với giá thành có
khi lại thấp hơn mà vẫn không ai mua.
Tuy năm 2008 tình hình tiêu thụ lúa diễn biến phức tạp và gặp nhiều khó
khăn nhưng đến đầu năm 2009 thì tình hình tiệu thụ lúa diễn ra tốt hơn. Đầu năm
2009 giá lúa gạo tăng liên tục một phần là do nhiều doanh nghiệp kinh doanh
lương thực tư nhân đã ký hợp đồng xuất khẩu gạo nhưng chưa chuẩn bị đủ gạo
để giao cho khách hàng nên phải đẩy mạnh việc thu mua. Trong tháng 1-2009,
gạo với mức giá bình quân 396 USD/tấn, gấp 2,42 lần về khối lượng và 2,79 lần
về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Với mức giá này, tính ra giá lúa tương đương
với mức xấp xỉ 4.000 đồng/kg. Tuy nhiên đây là lượng gạo còn tồn kho từ năm
trước. Còn trong thực tế, hiện các doanh nghiệp đang thu mua lúa với giá 3.900
đến 4.000 đồng/kg đối với loại hạt ngắn và 4.100 - 4.200 đồng/kg với loại gạo
tốt. Và theo đà này giá lúa ở Việt Nam cũng như giá lúa trên thế giới đang có xu
hướng tiếp tục tăng nhẹ.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 7 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
2.1 THÔNG TIN CHUNG
2.1.1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
Đồng bằng sông Cửu Long gồm
13 tỉnh (Long An, Bến Tre, Tiền
Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng
Tháp, An Giang, Kiên Giang, Hậu
Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau
và Thành phố Cần Thơ) với 4 triệu ha
HÌNH 1: BẢN ĐỒ ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG
đất tự nhiên; trong đó có trên 3,8 triệu
ha đất nông nghiệp. Hàng năm, vào
mùa lũ Tây Nam bộ đón trên 500 tỷ m3
nước, cung cấp lựơng phù sa màu mỡ;
đồng thời giúp tháo chua, rửa phèn, làm
vệ sinh đồng ruộng. Đây là nguồn tài
HÌNH 1: BẢN ĐỒ ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
nguyên nước rất thuận lợi cho sản xuất và sinh sống của tòan vùng. Từ vị trí địa
lý này, cộng với sự ưu đãi của thiên nhiên, nên từ rất lâu Tây Nam bộ đã trở
thành vùng kinh tế nông nghiệp hàng hóa lớn cả nước, hướng mạnh vào xuất
khẩu và tiếp cận tham gia hội nhập quốc tế từ rất sớm.
Vùng châu thổ phì nhiêu với sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt
này là một vùng đất chứa đựng nhiều tiềm năng cho sự phát triển kinh tế cả về
nông nghiệp, công nghiệp, thủy sản và du lịch sinh thái không chỉ của cả nước
mà còn cả khu vực. Hàng năm, Đồng bằng sông Cửu Long đóng góp vào GDP cả
nước là 18% (đứng thứ 3 sau vùng Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Hồng).
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 8 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
Tuy nhiên, trên thực tế, thời gian qua, khu vực này chưa phát triển xứng
tầm, bởi chủ yếu chỉ dựa vào khai thác tiềm năng sẵn có trong khi việc nghiên
cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn rất chậm, kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập chưa đáp ứng đựơc yêu cầu phát triển (đặc biệt
là hạ tầng giao thông) nên gây khó khăn trong việc sản xuất cũng như tiêu thụ
lúa.
Đứng trước những khó khăn, tồn tại này, trong những năm gần đây, Đảng
và Nhà nước đã dành nhiều sự quan tâm đặc biệt cho khu vực này, như tiến hành
quy họach tổng thể; đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi, giao thông, chinh
phục vùng Đồng Tháp Mừơi, khai thác tứ giác Long Xuyên để mở rộng diện tích
canh tác, cải tạo chua phèn vùng ngập mặn. Từ đó, tuy diện tích lúa giảm, nhưng
nhờ thâm canh tăng năng suất nên tổng sản lựơng hàng năm đều tăng đạt trên
18,64 triệu tấn (2007). Và dù còn gặp rất nhiều khó khăn, song giai đoạn 2006 –
2007 qui mô nền kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế của vùng được nâng
lên rõ rệt: Thu nhập bình quân đầu người năm 2007 đạt trên 7,5 triệu đồng/năm
(tương đương 433 USD); GDP tăng bình quân 8,6%/ năm. Tỷ trọng về nông
nghiệp vẫn lớn nhất, chiếm hơn 44,34% ngành kinh tế của vùng (Theo Cục
thống kê 2007). Nhưng năm 2008 do có thời gian nền kinh tế Việt Nam quá
nóng, với lạm phát tăng mạnh và cán cân thương mại thâm thủng cao nên GDP
của Việt Nam nói chung cung như đồng bằng sông Cửu Long nói riêng giảm: tốc
độ tăng trưởng GDP của VN là 6.23% trong năm 2008.
2.1.2 Vị trí của cây lúa
Thế kỷ thứ 17, Đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu được khai thác với sự
có mặt của tổ tiên chúng ta từ đất Bắc đi vào, mang theo bộ giống lúa cổ truyền
từ nhiều nguồn khác nhau. Thực dân Pháp và các nhà truyền giáo mang đến đây
một ít giống lúa ở nơi nào đó trên thế giới mà họ đã đi qua. Cư dân địa phương
có thể đã trao đổi giống với các nước láng giềng Thái Lan, Cambodia, Mã Lai,
Indonesia. Ngần ấy tạo cho bộ giống lúa địa phương ở đây phong phú vô cùng
(khoảng 2000 giống lúa) với các loại hình canh tác lúa sạ, lúa cấy hai lần, cấy
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 9 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
một lần,.. trên đất đầm lầy. Bên cạnh đó, hàng trăm quần thể lúa hoang dại cũng
có thể đã được thuần hóa, với sự đa dạng di truyền hiếm có, tạo thành nguồn vật
liệu qúi giá mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta bây giờ. Trong thời Pháp thuộc,
Việt Nam đã là nước xuất khẩu gạo có tiếng ở khu vực và trên thế giới. Người
Pháp đã lập ra Sở Túc Mễ Đông Dương, là cơ quan nghiên cứu lúa gạo đầu tiên
phục vụ cho mục tiêu đó. Sau này, Sở Lúa Gạo của chính quyền Sài Gòn đảm
trách với hai Trung Tâm nghiên cứu lúa là Long Định (Mỹ Tho), và Bình Đức
(An Giang).
Cây lúa có vị trí quan trọng đặc biệt ở Đồng bằng sông Cửu Long, đóng
góp 50% sản lượng lúa cả nưóc và 80% gạo xuất khẩu; kế đến cây ăn trái, mía
đường, thủy hải sản, chăn nuôi,... Rừng ngập mặn ở đồng bằng là một minh
chứng về đa dạng sinh học của Châu Thổ, có vai trò rất lớn trong việc bảo tồn và
phát triển hệ sinh thái đặc sắc của đồng bằng.
Mục tiêu phát triển chiến lựơc của Việt Nam vào năm 2010 là 40 triệu tấn
lương thực và 38 triệu tấn lúa gạo trong điều kiện diện tích canh tác lúa cả nước
chỉ còn 4 triệu ha. Điều này đặt ra cho Đồng bằng sông Cửu Long một nhiệm vụ
mới, với sự phấn đấu cao hơn, làm sao vừa tiếp tục nâng cao năng suất, chất
lượng, an toàn thực phẩm và hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên vừa
tăng nhiều hơn thu nhập cho nông dân, vốn rất nghèo nếu họ chỉ canh tác lúa như
hiện nay.
2.2 TÌNH HÌNH SẢN XUẤT LÚA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
HIỆN NAY
2.2.1 Các vụ lúa chính ở đồng bằng sông Cửu Long
-
Vụ mùa: Bắt đầu vào mùa mưa (tháng 5-6) và kết thúc vào cuối mùa mưa
(tháng 11), gồm các giống lúa địa phương dài ngày và thích nghi với nước sâu.
-
Vụ đông xuân: Là vụ lúa mới, ngắn ngày, bắt đầu vào cuối mùa mưa
tháng 11 - 12 và thu hoạch đầu tháng 4.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 10 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
-
Vụ hè thu: Vụ hè thu là một vụ lúa mới, ngắn ngày, bắt đầu từ tháng 4 và
thu hoạch vào trung tuần tháng 8.
2.2.2 Thực trạng sản xuất lúa của vùng
2.2.2.1 Kinh nghiệm trồng lúa
Trồng lúa là nghề truyền thống của người dân Nam Bộ đã hình thành từ rất
lâu đời và nó cũng là nguồn thu nhập chủ yếu của người nông dân Đồng bằng
sông Cửu Long. Do vậy họ có nhiều kinh nghiệm trong việc trồng lúa từ khâu
làm đất, chọn giống đến khâu chăm sóc và thu hoạch, bảo quản:
Khâu làm đất: cày ải phơi đất để diệt các mầm bệnh của vụ lúa
trước, làm đất tơi xốp giúp hạt giống nảy mầm tốt…
Khâu chọn giống: thì người nông dân có thể chọn giống tốt bằng
cách quan sát hạt giống và cây lúa: cây to, bụi nhiều, mọc đều, số hạt chắc
trên bông...
Khâu chăm sóc: họ có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý nước,
giúp đất ít bị nhiễm phèn, có thể đón được thời tiết để bón phân thuận lợi…
Khâu thu hoạch, bảo quản: có thể biết được hạt lúa có đủ điều kiện
về độ ẩm để bảo quản, nơi bảo quản lúa có lót thêm lớp trấu để cách nhiệt,
không khí và độ ẩm từ bên ngoài…
Tuy nhiên nó cũng dẫn đến một số khó khăn. Do từ rất lâu việc trồng lúa
thủ công là chủ yếu nên năng suất thấp mà thời gian trồng lúa thì lại lâu (lúc
trước chi có 1 vụ/năm). Bên cạnh đó thì việc bón phân theo kinh nghiệm thấy có
sâu bệnh thì cứ đi mua thuốc sử dụng ngay mà không biết liều lượng hay sâu
bệnh là do đâu. Ngoài ra trước đây do kĩ thuật trồng lúa còn hạn chế, giống lúa
chưa nhiều nên việc chọn giống lúa để phù hợp với điều kiện trồng như: đất, thời
tiết...cũng không được chú trọng.
2.2.2.2 Kĩ thuật và ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất lúa
Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật nông dân đồng bằng sông
Cửu Long đã cơ giới hóa được một số khâu như bơm nước, làm đấ t, suố t lúa.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 11 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
Việc cơ giới hóa những khâu này có những điể m chung là số tiề n đầ u tư không
lớn (dưới 100 triê ̣u đồng), thu hồ i vố n nhanh, thiết bị đơn giản, ı́t hư hỏng, giúp
tiết kiệm thời gian, giảm chi phí do việc thuê mướn lao động… Đồng thời kĩ
thuật canh tác của người nông dân được nâng cao nhờ tiếp thu qua báo đài, các
chương trình khuyến nông, sự giúp đỡ nhiệt tình của các tiến sĩ, thạc sĩ viện
nghiên cứu bà con đã không ngừng nâng cao kĩ thuật kết hợp với kinh nghiệm
của bản thân như về thời tiết, sâu bệnh, đã năng cao năng suất và sản lượng. Điển
hình là áp dụng mô hình IPM, Ba giảm – Ba tăng, kĩ thuật bón phân theo thời kì
sinh trưởng, mô hình hai vụ lúa một vụ màu (đặc biệt là cây họ đậu)…
Bên cạnh những tiến bộ trong kỹ thuật thì vẫn còn những mặt hạn hết,
người nông dân do quá lạm dụng vào thuốc trừ sâu, phân bón làm cho đất ngày
càng trở nên xấu đi, chất lượng của hạt lúa cũng bị giảm, tăng chi phí của việc
chăm sóc lúa, lợi nhuận không được bao nhiêu. Đặc biệt trong khâu tính toán chi
phí của sản phẩm này, nông dân đã bỏ qua phần thiệt hại của độ màu mỡ đất sau
mỗi vụ gieo trồng, và lao động của hộ gia đình nên tính chi phí bị thiếu sót làm
cho lợi nhuận giảm theo.
2.2.2.3. Tiến bộ về giống
Đồng thời với sự chú trọng trong khâu chuẩn bị giống, ngày nay nhiều viện
nghiên cứu như: Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long, Viện khoa học nông
nghiệp miền Nam, Viện nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu LongTrường Đại học Cần Thơ…đã đưa ra nhiều loại giống mới có năng suất cao và
không ngừng cải tạo ra nhiều loại giống lúa có khả năng chống sâu bệnh:
ĐS2006 (Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long); Giống lúa MTL392 và Giống lúa
MTL384 (Viện nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long- Trường Đại
học Cần Thơ), các giống lúa khác cũng cho năng suất cao, phẩm chất gạo ngon,
kháng sâu bệnh mạnh đặc biệt là kháng rầy nâu như: AS996, OM 4498, OM
2395, OMCS 2000, OM 5930, OM 4900, OM 576…giúp người nông dân nâng
cao năng suất. (Theo Cục trồng trọt)
2.2.2.4. Tình hình sâu bệnh
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 12 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
Do việc trồng lúa gắn liền với thiên nhiên nên sâu bệnh cũng phát sinh theo
thời tiết, mùa vụ.
Vụ đông xuân:
- Rầy nâu: rầy hút chất dinh dưỡng của cây lúa làm cho cây lúa bị khô
héo. Rầy xuất hiện nhiều gây ra hiện tượng cháy rầy. Rầy nâu làm cây lúa không
phát triển, giảm năng suất. Rầy nâu lây lan bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá.
- Bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá: cây bị lùn hơn so với cây lúa bình thường,
lá bị ngã màu vàng, chóp lá bị vặn xoăn lá. Bệnh làm cây lúa không trổ đồng, hạt
lép. Năng suất giảm. Ông Công cho biết thêm nếu không phòng trừ bệnh kịp thời
có thể mất trắng.
- Bệnh đạo ôn: bệnh thường tấn công trên lá, đố thân, cổ lá và cổ gié.
Trên lá bệnh nặng có thể làm lá cháy rụi từng đám.Trên thân lúc đâu vết bệnh là
một chấm nhỏ màu đen về sau lớn dần bao quanh thân, làm thối cổ lá, gãy đốt.
Trên bông làm gãy cổ gié lúa, bông bạc, hạt lép, giảm năng suất.
- Sâu cuốn lá: Lá bị cuốn lại và bị cắn hết phần thịt lá. Phun thuốc khi
xuất hiện bướm đẻ trứng, sâu non mới nở.
Vụ hè thu:
- Bù lạch (bọ trĩ):Thời điểm xuất hiện: 5 – 20 ngày sau sạ, cấy. Toàn ruộng
ngã màu vàng, chóp lá cuốn lại.
- Sâu cuốn lá: Thời điểm xuất hiện: 20 ngày sau sạ, cấy. Lá bị cuốn lại và
bị cắn hết phần thịt lá.
- Sâu đục thân: Thời điểm xuất hiện: 25 ngày sau sạ đến trổ. Vài chồi trong
bụi bị vàng rồi khô, nắm chồi kéo lên được, bông khô trắng, lép hoàn toàn.
- Bọ xít hôi: Thời điểm xuất hiện: từ trổ đến lúa vào chắc. Chích vào hạt
lúa để lại vết nâu đen, chích hút vào giai đoạn ngậm sữa làm hạt lép.
- Bệnh khô vằn: Bệnh khô vằn do nấm gây ra và phát triển mạnh ở vụ Hè
Thu vào giai đoạn sau khi đẻ nhánh tối đa, hoặc khi tán lúa vừa phủ kín mặt
ruộng (35-40 NSS).
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 13 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
- Bệnh bạc lá (cháy bìa lá): Bệnh bạc lá do vi khuẩn gây ra, bệnh thường
phát triển và gây hại nặng vụ Hè Thu trong giai đoạn 40 ngày sau sạ trở đi.
Bệnh lây lan qua con đường hạt giống.
- Bệnh đạo ôn (cháy lá): Xuất hiện quanh năm ở các vùng khí hậu khác
nhau. Gây hại trên lá, thân, cổ bông và gié lúa từ giai đoạn mạ cho đến khi lúa
chín sáp. Trên lá: vết bệnh có hình thoi rộng ở giữa, nhọn ở 2 đầu như hình
mắt én, xung quanh viền màu nâu, giữa có tâm xám trắng, khi bệnh nặng các
vết bệnh nối liền nhau thành vết lớn và ruộng lúa bị bệnh nặng có thể làm lá
cháy rụi từng đám. Trên thân: bắt đầu vết bệnh là một chấm nhỏ màu đen về
sau lớn dần bao quanh thân, làm cho thân thắt lại, thường làm thối cổ lá và
đốt rất dễ gãy. Trên bông: xuất hiện ở cổ bông, thường xuất hiện muộn khi
lúa đã vào chắc sẽ gây tình trạng gãy cổ gié lúa và bông bạc.
2.2.2.5. Vốn
Ngoài những nỗi lo về đất, kĩ thuật trông lúa, giống… thì người nông dân
còn phải bận tâm rất nhiều về vốn. Do vậy, để giúp người nông dân nhà nước đã
đưa ra chính sách giúp người nông dân vay vốn để sản xuất lúa.
2.2.2.5. Tình hình sản xuất lúa nói chung ở Đồng bằng sông Cửu Long
Là vựa lúa lớn nhất nước hiện nay, mỗi năm Đồng bằng sông Cửu Long
cung cấp ra thị trường hơn 18 triệu tấn lúa cho cả nước. Như tình hình chung của
cả nước thì diện tích trồng lúa của Đồng bằng sông Cửu Long năm 2007 giảm
90,3 nghìn ha tương đương 2,4% so với năm 2006 nhưng sản lượng và năng suất
tăng: sản lượng đạt 18,64 triệu tấn tăng 2,2%; năng suất đạt 50,6 tạ/ha tăng 4,8%.
Tuy trong năm 2008 tình hình sản xuất lúa của cả nước nói chung và Đồng bằng
sông Cửu Long nói riêng gặp nhiều khó khăn về thời tiết, dịch bệnh … nhưng
vẫn đạt được những mục tiêu đề ra và cung cấp đủ nhu cầu trong nước cũng như
xuất khẩu. Năm 2008 diện tích trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long là 3809,6
ha tăng 3,4% so với năm 2007. Theo các chuyên gia nông nghiệp, sở dĩ năm
2008 diện tích và sản lượng lúa ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long tăng cao là
do trúng mùa và do vụ đông - xuân trước đó, lúa được giá đã kích thích bà con
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 14 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
nông dân tăng diện tích trồng lúa ở vụ tiếp theo. Còn sản lượng lúa theo đà trên
cũng tăng 7% so với sản lượng lúa năm 2007 tương đương 1,3 nghìn tấn với
năng suất lúa tăng 3,2% tương đương 1,7 tạ/ha đạt 52,3 tạ/ha.
Bảng 2:DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT VÀ SẢN LƯỢNG LÚA Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG (2006-2008)
Chỉ tiêu
Năm
Năm
Năm
2006
2007
2008
Chênh lệch
2007 so với 2006
2008 so với 2007
(%)
(%)
Diện tích
3773,9 3683,6 3809,6
97.6
103,4
(nghìn ha)
Năng suất
48,3
50,6
52,3
104,8
103,4
(tạ/ha)
Sản lượng
18,23
18,64
19,94
102,2
107,0
(triệu tấn)
Nguồn: Tổng cục thống kê và Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
2.2.2.6. Tình hình sản xuất ở một số địa phương chủ yếu
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất cả nước khoảng 90% tỉ lệ
xuất khẩu gạo. Để đạt được kết quả đó không thể phủ nhận sự đóng góp to lớn
của các tỉnh Đồng bằng Cửu Long, đặc biệt là các tỉnh đi đầu trong ngành trồng
lúa, tiêu biểu như là:
- Tỉnh An Giang: là tỉnh đi đầu trong việc canh tác lúa ở Đồng bằng sông
Cửu Long. Diện tích trồng lúa trong các năm đều tăng: năm 2007 với diện tích
lúa 520,6 nghìn ha tăng 3,3% so với năm 2006, và năm 2008 tăng 7,0% so với
năm 2007 với diện tích 557,4 nghìn ha. Do diện tích trồng lúa tăng cùng với kĩ
thuật canh tác lúa được nâng cao làm cho sản lượng và năng suất lúa của tỉnh
trong các năm qua đều tăng: năm 2007 sản lượng lúa đạt được là 3.099,4 nghìn
tấn tăng 6% , với năng suất lúa 59,5 tạ/ha tăng 2,4% so với 2006. Đến năm
2008 sản lượng đạt 3.439,4 nghìn tấn tăng 10.9% và năng suất lúa đạt được
61,7 tạ/ha tăng 3,6% so với năm 2007.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 15 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
Bảng 3: DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT VÀ SẢN LƯỢNG LÚA CÚA
TỈNH AN GIANG (2006-2008)
Chỉ tiêu
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
Chênh lệch
2007 so
2008 so
với 2006
với 2007
(%)
(%)
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
503,5
520,6
557,4
103,3
107,0
58,1
59,5
61,7
102,4
103,6
2.923,2
3.099,4
3.439,4
106,0
110,9
Nguồn: Cục thống kê tỉnh An Giang
- Tỉnh Kiên Giang: Như tình hình chung của cả vùng thì diện tích trồng lúa
của Kiên Giang năm 2007 giảm 12,1 nghìn ha tương đương 2,1% so với năm
2006 nhưng sản lượng và năng suất tăng: sản lượng đạt 2.977,4 nghìn tấn tăng
8,4% so với năm 2006; năng suất đạt 51,1 tạ/ha tăng 10,8%. Năm 2008 diện
tích trồng lúa ở Kiên Giang là 609,0 ha tăng 4,4% so với năm 2007. Còn sản
lượng lúa theo đà trên cũng tăng theo đạt 3.380,0 nghìn tấn tăng 8,4% so với
sản lượng lúa năm 2007 với năng suất lúa tăng 8,6% tương đương 4,4tạ/ha đạt
năng suất 55,5 tạ/ha.
Bảng 4: DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT VÀ SẢN LƯỢNG LÚA CÚA
Chỉ tiêu
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
Chênh lệch
2007 so
2008 so
với 2006
với 2007
(%)
(%)
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
595,1
583,0
609,0
97,9
104,4
46,1
51,1
55,5
110,8
108,6
2744,3
2977,4
3380,0
108,4
113,5
TỈNH KIÊN GIANG (2006-2008)
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Kiên Giang
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 16 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
- Tỉnh Đồng Tháp: tuy diện tích lúa có giảm trong các năm qua nhưng sản
lượng và năng lúa vẫn tăng theo tình hình chung của cả vùng. Năm 2007 diện
tích trồng lúa của tỉnh là 447,1 nghìn ha giảm 1,6% so với năm 2006, trong khi
năng suất lúa đạt 56,9 tạ/ha tăng và sản lượng lúa đạt 2.545,4 nghìn tấn tăng
5,8% so với năm 2006. Năm 2008 tuy diện tích lúa tiếp tục giảm 6,2% chỉ còn
419,7 nghìn ha nhưng sản lượng và năng suất lúa vẫn tăng: sản lượng lúa đạt
2.728,2 nghìn tấn tăng 7,1% so với năm 2007 và năng suất lúa của năm 2008 là
65,0 tạ/ha tăng 14,2% so với năm 2007.
Bảng 5: DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT VÀ SẢN LƯỢNG LÚA CÚA
TỈNH ĐỒNG THÁP (2006-2008)
Chỉ tiêu
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
Chênh lệch
2007 so
2008 so
với 2006
với 2007
(%)
(%)
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
454,0
447,1
419,7
98,4
93,8
53,0
56,9
65,0
107,3
114,2
2.404,9
2.545,4
2.728,2
105,8
107,1
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Đồng tháp
2.3 TÌNH HÌNH TIÊU THỤ LÚA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tình hình tiêu thụ lúa 2008 có nhiều biến động.
a) Những tháng đầu năm:
Tình hình tiêu thụ gặp nhiều thuận lợi như trúng mùa, vụ đông - xuân lúa
được giá đã kích thích nông dân tăng diện tích trồng lúa ở vụ tiếp theo. Lý do
của được giá là thời điểm đó, thị trường thế giới đang khan hiếm lương thực nên
giá gạo liên tục được đẩy lên cao mà đỉnh điểm là vào các tháng 4 và 5-2008, giá
gạo trên thị trường thế giới lên cao chưa từng có với mức 1.100 USD - 1.200
USD/tấn. Theo đó, giá lúa tại Đồng bằng sông Cửu Long đã tăng lên 5.000 đồng
– 5.500 đồng/kg. Trước tình hình thương lái tranh nhau tìm mua lúa gạo, người
trồng lúa đồng bằng sông Cửu Long khấp khởi vui mừng vì chưa có năm nào vừa
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 17 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
trúng mùa lại vừa được giá như vậy. Trong niềm hân hoan đó, nông dân vùng
đồng bằng sông Cửu Long đã thi nhau phá bỏ vườn cây ăn trái, ruộng mía... để
chuyển sang trồng lúa.
Bảng 6: THỊ TRƯỜNG GIÁ LÚA CỦA MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG VÀO THÁNG 4/2008 VÀ 5/2008
ĐVT: ĐỒNG
Tỉnh
Tuần
11.4.2008
18.04.2008
09.05.2008
16.05.2008
23.05.2008
31.05.2008
Long An
Đồng Tháp
Kiên Giang
4600
4.700
5.500
5.200 – 5.300
5.300
5.300
4.550
4.600
5.400
5.100 – 5.250
5.200
5.250
4.550
4.650
5.550
5.200 – 5.250
5.300
5.250
Tiền Giang
4.600
4.700
5.350
5.200
5.250
5.300
Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam
b) Tình hình tiêu thụ lúa từ tháng 6/2008 đến tháng 9/2008:
Nhu cầu gạo trên thế giới sụt giảm giá gạo chỉ còn 600 USD - 700
USD/tấn; gạo 5% tấm chỉ còn 650 USD - 670 USD/tấn (giảm 300 USD so với
thời điểm tháng 4/2008) và để giải quyết cơn sốt giá lúa nhà nước tạm ngưng
xuất khẩu gạo dẫn đến giá lúa gạo đột ngột giảm mạnh. Trong “cơn bão” đó, giá
lúa đồng bằng sông Cửu Long cũng sụt giảm chỉ còn 4.600 đồng - 4.700 đồng/kg
(giảm từ 400 đồng đến 800 đồng/kg so với vụ đông - xuân).
Mặc dù giá lúa và gạo đều sụt giảm mạnh như vậy nhưng nông dân muốn
bán được lúa không phải dễ. Trong khi lượng lúa hàng hóa của đồng bằng sông
Cửu Long còn tồn đọng rất nhiều, lãi suất ngân hàng tăng cao, các doanh nghiệp
xuất khẩu gạo không dám vay ngân hàng để trữ gạo xuất khẩu vì lo ngại sẽ lỗ do
giá gạo trên thị trường tiếp tục sụt giảm mạnh.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 18 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
Bảng 7: THỊ TRƯỜNG GIÁ LÚA MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG VÀO THÁNG 7/2008 VÀ 8/2008
ĐVT: ĐỒNG
Tỉnh
Tuần
04.07.2008
13.07.2008
18.07.2008
01.08.2008
09.08.2008
17.08.2008
24.08.2008
31.08.2008
Long An
Đồng Tháp
Kiên Giang
Tiền Giang
5.000
4.800
4.500 – 4.800
4.500 – 4.700
4.200 – 4.500
4.800 – 4900
4.700 – 5.100
4.500 – 5.000
4.950
4.700
4.500 – 4.750
4.400 – 4.650
4.150 – 4.500
4.750 – 4.850
4.600 – 5.000
4.500 – 5.000
4.950
4.700
4.500 – 4.750
4.400 – 4.650
4.150 – 4.500
4.750 – 4.850
4.600 – 5.000
4.500 – 5.000
5.000
4.800
4.500 – 4.800
4.500 – 4.700
4.200 – 4.500
4.800 – 4.850
4.650 – 5.550
4.400 – 4.500
Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam
Trước tình hình đó, Chính phủ phải vào cuộc bằng hai giải pháp “nóng” là
chỉ đạo ngành ngân hàng hỗ trợ hàng ngàn tỉ đồng cho doanh nghiệp thu mua
lượng lúa hàng hóa còn tồn đọng trong dân, đồng thời có quyết định hoãn thu
thuế xuất khẩu gạo. Các giải pháp rất kịp thời đó của Chính phủ đã làm cho “cơn
bão” trên có phần lắng dịu, nhưng trong xu thế giá gạo thế giới vẫn tiếp tục sụt
giảm, cả nông dân và doanh nghiệp vẫn chưa hết lao đao.
c) Những tháng cuối năm: Trung tuần tháng 10 năm 2008, Bộ Công
Thương tổ chức cuộc họp khẩn cấp với Hiệp hội Lương thực Việt Nam và sở
Công thương các tỉnh, thành phía Nam để bàn biện pháp xuất khẩu gạo cho
những tháng cuối năm với mong muốn đạt mục tiêu xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo
trong năm 2008. Nhưng đến trung tuần tháng 12 năm 2008, giá xuất khẩu gạo
5% tấm chỉ còn 500 USD/tấn, 10% tấm còn 460 USD/tấn, 15% tấm còn 440
USD/tấn và 25% tấm là 420 USD/tấn nên đã không thể nào ngăn được “cơn bão”
giảm giá.
Thời điểm này, giá lúa tại đồng bằng sông Cửu Long chỉ còn 2.800
đồng/kg (lúa thường), 3.400 đồng - 3.600 đồng/kg (lúa hạt dài) cùng với lúa hàng
hóa vẫn tồn đọng cả triệu tấn. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam cũng đã “vào cuộc” bằng giải pháp tiếp tục “mở hầu bao” xuất ra 3.500
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 19 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
tỉ đồng để doanh nghiệp thu mua một triệu tấn lúa tại đồng bằng sông Cửu Long;
cộng với các giải pháp tích cực trên, trật tự thị trường và sự căng thẳng đang
được từng bước vãn hồi.
Bảng 5: THỊ TRƯƠNG GIÁ LÚA CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG VÀO THÁNG 10/2008 VÀ 12/2008
ĐVT: ĐỒNG
Tỉnh
Tháng
05.10.2008
10.10.2008
17.10.2008
26.10.2008
31.10.2008
05.12.2008
12.12.2008
19.12.2008
26.12.2008
Long An
Đồng Tháp
Kiên Giang
Tiền Giang
5.000 – 5.400
5.000 – 5.200
3.800 – 4.000
3.500 – 4.000
3.800 – 3.900
2.900 – 3.600
2.800 – 3.600
2.800 – 3.600
3.600
4.900 – 5.300
4.900 – 5.100
3.700 – 3.900
3.500 – 3.900
3.750 – 3.850
2.850 – 3.550
2.700 – 3.500
2.750 – 3.600
3.550
5.000 – 5.400
5.000 – 5.200
3.800 – 4.000
3.500 – 4.000
3.800 – 3.900
2.900 – 3.550
2.750 – 3.600
2.800 – 3.550
3.500
5.000 – 5.400
4.950 – 5.150
3.800 – 4.000
3.450 – 4.000
3.800 – 3.900
2.900 – 3.600
2.750 – 3.600
2.800 – 3.600
3.600
Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam
Mặc dù năm 2008 là một năm thị trường lúa gạo Việt Nam, nhất là vùng
đồng bằng sông Cửu Long đầy sóng gió, nhưng cái được lớn nhất trong cơn khó
khăn này là xuất khẩu gạo vẫn tăng hơn 1 tỉ USD so với năm trước. Có thể coi
đây là một kỳ tích mới cho hạt gạo ở vùng đất “Chín Rồng”, vì nó đã góp phần
đáng kể trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu của các tỉnh, thành đồng bằng sông
Cửu Long cũng như của cả nước trong năm 2008.
Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế (IRRI) dự báo năm 2009, mức tiêu thụ
gạo thế giới sẽ vào khoảng 426 triệu tấn, tăng hơn năm 2008 khoảng 18 triệu tấn.
Cuối năm 2008, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng đã ký thỏa thuận
với Tổng công ty Lương thực miền Nam tài trợ 4.000 tỉ - 5.500 tỉ đồng để thu
mua và xuất khẩu 3,5 triệu tấn gạo... Đây là những tín hiệu tốt lành, trở thành
nhân tố thúc đẩy sự tăng giá gạo trong thời gian tới.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 20 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH ĐIỂM MẠNH, ĐIỂM YẾU, CƠ HỘI VÀ ĐE DỌA ĐỐI VỚI
MẶT HÀNG NÀY
3.1 ĐIỂM MẠNH
Do được thiên nhiên ưu đãi về chất đất, nguồn nước, khí hậu nên đồng
bằng sông Cửu Long có điều kiện khá thuận lợi để phát triễn mặt hàng lúa, sản
lượng hàng năm cao so với các vùng khác.
3.1.1 Đất đai:
Nếu chưa kể hải đảo, thì tổng diện tích đất đai của cả vùng đã xấp xỉ 4 triệu
ha, chiếm khoảng 12% diện tích cả nước, trong đó loại đất tốt nhất là đất phù sa
chiếm gần 30%. Sông Mê Kông chảy qua vùng ĐBSCL hàng năm đem lại lượng
nước bình quân khoảng 460 tỷ m3 và vận chuyển khoảng 150-200 triệu tấn phù
sa. Nhưng Vùng có đất phù sa do những con sông bồi lắng hằng năm là vùng đất
mới. Nó mang lại sự phì nhiêu, màu mỡ cho đất, rất tốt cho cây trồng đặt biệt là
trồng lúa nước. Ngoài sự màu mỡ nó còn góp sức bồi lắng cho đồng bằng sông
Cửu Long thêm bằng phẳng, dể canh tác; nó góp sức lấn biển, cho rừng ngập
mặn của chúng ta rộng và trù phú thêm lên.Theo các cuộc nghiên cứu thì đất phù
sa về cơ học thì hạt mịn, tơi xốp, có pha trộn ít hoặc (nhiều)cát tùy lưu tốc dòng
chảy và tốc độ bồi lắng từng vùng, dẽ hút nước, làm đất tơi xốp, chứa nhiều chất
dinh dưỡng.
Bên cạnh phù sa màu mở còn có 1,60 triệu ha đất phèn ha đất phèn (chiếm
44% diện tích chung), tập trung ở Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và
0,74 triệu ha đất mặn, chiếm 19% tiềm năng cho việc phát triển nông nghiệp của
vùng. Qua quá trình cải tạo tốt thì đây là những vùng đất màu mỡ chứa nhiều
chất dinh dưỡng cho cây.
3.1.2 Thời tiết khí hậu:
Nhiệt độ bình quân hàng năm cao nhiệt độ trung bình 28oC, chế độ nắng
cao, số giờ nắng trung bình cả năm từ 2.226-2.790 giờ,năng lượng bức xạ mặt
trời 450 calo / cm2 / ngày ít xảy ra thiên tai do khí hậu gây ra.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 21 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
Không có mùa đông giá lạnh và đầy ánh sáng. Mùa khô thường khô hơn
vì không có mưa phùn ẩm ướt vào tháng 2 -3 như ở phía Bắc.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 7, lượng mưa hàng năm 1500 - 2000 mm.
Độ ẩm không khí bình quân 82%.
Khí hậu ổn định, ít bị bão
3.1.3 Nguồn nước:
Nguồn nước được lấy từ 2 nguồn chính là từ sông Mê Kông và nước mưa.
Bên cạnh đó hệ thống sông ngòi, kênh rạch khá dày, phân bố đều, kết hợp với tác
động của thủy triều cho khả năng tải lượng nước lớn, trữ lượng nước nhiều tạo
điều kiện cho việc tưới tiêu chủ động trong sản xuất, có thể khai thác thích ứng
cho thâm canh tăng vụ cải tạo đất và ngọt hóa môi trường nông nghiệp.
Bên cạnh đó nguồn nhân lực dồi dào có kinh nghiệm sản xuất sớm hòa nhập
với những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến nên rất thuận lợi cho việc phát triễn
nông nghiệp mà chủ lực là cây lúa.
3.1.4. Nông dân Việt Nam có kinh nghiệm trồng lúa từ lâu đời.
Nghề trồng lúa ở Việt Nam có lịch sử lâu đời nhất so với nghề trồng lúa ở
các nước châu Á. Theo các tài liệu khảo cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam...
Cây lúa đã có mặt từ 3000 - 2000 năm trước công nguyên. Tổ tiên chúng ta đã
thuần hóa cây lúa dại thành cây lúa trồng và đã phát triển nghề trồng lúa đạt được
những tiến bộ như ngày nay. Thêm vào đó, người nông dân còn không ngừng
tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ nông nghiệp vào khâu
sản xuất và tiêu thụ lúa. Nhờ vậy mà nghề trồng lúa mới được phát triển mạnh
cho đến ngày hôm nay.
3.1.5. Hệ thống cơ chế, chính sách của nhà nước khuyến khích và tạo điều
kiện phát triển sản xuất lúa.
Thực hiện chủ trương của Đại hội VI về đổi mới kinh tế, trong đó quan tâm
hàng đầu tới đổi mới lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, Bộ chính trị, Ban bí thư
đã ra nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm điều chỉnh cơ chế quản lý vĩ mô, tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, như: chính sách
một giá; đảm bảo tự do lưu thông, tiêu thụ trên thị trường cả nước; thương mại
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 22 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
hóa vật tư; từng bước xác lập vai trò tự chủ của kinh tế hộ; giải quyết những vấn
đề cấp bách về ruộng đất…(Vấn đề này được thể hiện rõ trong Nghị quyết 10 của
Bộ chính trị Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, tháng 4/1998 và Nghị quyết
HNTƯ 6 (khóa VI, 3/1989).
Sau đại hội VIII, Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra chủ trương, chính sách
khuyến khích phát triển hợp tác xã, đẩy mạnh hoàn thành việc giao đất, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Trong những năm qua, nhờ có một số chính sách lớn mang tính đột phá tạo
động lực ở thời kỳ đầu: khoán 100, khoán 10, giao ruộng đất cho nông dân sử
dụng lâu dài, xóa đói, giảm nghèo nên đã làm thay đổi căn bản nông nghiệp,
nông thôn, nông dân. Đây là khu vực đổi mới đạt được nhiều kết quả nhất. Sản
lượng lương thực tăng gấp đôi, xuất khẩu tăng, đời sống nông dân được cải thiện,
bộ mặt nông thôn thay đổi.
3.1.6. Đầu tư cho khoa học công nghệ nông nghiệp ngày càng tăng
Trong khâu sản xuất người nông dân đã sử dụng thêm máy móc như máy
gặt đập liên hợp, máy tuốt lúa, máy cày, máy sạ hàng, các kĩ thuật bón phân trên
lúa cho đất phèn, kĩ thuật bón phân theo các giai đoạn sinh trưỡng của cây… Bên
cạnh đó người nông dân còn tiếp thu ứng dụng những thành tựu khoa học công
nghệ về lúa của các nước trong khu vực và thế giới qua các chuyên gia trong
nước như công nghệ sản xuất hạt nguyên chủng giống bố mẹ lúa lai 3 dòng…
3.2 ĐIỂM YẾU
3.2.1 Tình trạng sản xuất manh mún, phân tán theo quy mô hộ gia đình:
Hầu như diện tích trồng lúa của các hộ nông dân ở đồng bằng sông Cửu
Long ở diện vừa và nhỏ. Nhưng dù diện tích vùa hay nhỏ thì đều phải đầu tư tốn
chi phí cho khâu làm đất,chuẩn bị giống ,… làm cho chí phí sản xuất lúa tăng
lên. Việc gắn kết giữa doanh nghiệp với hộ gia đình chưa được thực hiện trên
quy mô lớn, người nông dân phần lớn bán cho thương lái từ 95% - 97% nên dễ bị
ép giá. Bên cạnh đó do đầu ra không ổn định mà người nông dân không mặn mà
trong công việc trồng lúa. Nhiều lúc giá lúa giảm mạnh người nông dân chuyển
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 23 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
sang trồng cây khác: cây ăn quả,… và ngược lại lúc giá lúa lên cao thì người dân
lại chuyển sang trồng lúa.
3.2.2 Yếu về kỹ thuật sử dụng hạt giống:
Nhiều hộ nông dân tuy mua các giống của nhà nước nhưng do không biết
đặc tính của giống này là thế hệ lai F1 có ưu thế lai, qua đời sao bị thoái hóa
giống, nên bà con vẫn giữ lại làm giống dẫn đến bị thiệt hại nghiêm trọng về
năng suất, phẩm chất hạt lúa làm cho sản lượng lúa giảm đáng kể.
3.2.3 Yếu về bảo quản, chế biến sau thu hoạch:
Việc thu hoạch chưa đúng cách, số lượng hạt bị thất thoát trong quá trình thu
hoạch rất đáng kể, bảo quản sau thu hoạch còn theo phương pháp truyền thống,
phơi trên nền đất phủ một lớp nilon, đói với hộ khá giả thì phơi trên nền xi
măng… Làm hạt lúa lẫn nhiều hạt cỏ, bụi bậm,… Bảo quản trong các bồ lúa làm
thủ công, dễ hư hỏng, nhiễm các nấm bệnh.Khu bảo quản hạt lúa chỉ là những
căn nhà cấp 4 mái tôn, được lót nền gạch hoa Trung Quốc để giữ nhiệt độ vừa
phải, chống ẩm, sạch sẽ “đảm bảo cho lúa không bị ẩm mốc, sáng màu và ít bị
nhót lúa” gần như nhà nào cũng có vựa lúa lớn hoặc nhỏ, nhưng phần lớn là nhà
ọp ẹp, ẩm thấp hơn nhiều. Nếu nhà nông để giống cho vụ sao thì năng xuất lúa bị
ảnh hưởng nếu xử lý không đúng cách. Theo các nhà nghiên cứu, hiện nay
khoảng 90% lúa đang được lưu trữ trong dân. Những kho lớn, đủ chuẩn, có thể
lưu trữ hàng chục ngàn tấn lúa mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu. Do
chúng ta thiếu hệ thống lưu trữ đủ tiêu chuẩn, chưa có những kho chứa lớn hàng
trăm ngàn tấn gạo để phục vụ mục đích điều tiết lương thực và chiến lược xuất
khẩu gạo, nên cũng không thể bình ổn giá, giúp nông dân thoát khỏi tình trạng bị
thương lái ép giá khi mùa bội thu hoặc tranh mua khi có hợp đồng xuất khẩu gạo.
3.2.4 Hệ thống thông tin thị trường chưa phát triển
Hiện nay, hệ thống dự báo này chỉ đến tầng lớp cán bộ chứ không đến tay
nông dân, trong khi đó, nông dân chính là đối tượng cần thông tin này nhất. Nông
dân là người quyết định nên trồng cây gì, nuôi con gì? Chính vì dự báo về thị
trường không đến với nông dân là một trong những nguyên nhân khiến cho
những chuyện vừa trồng xong thì chặt rất thường xuyên xảy ra trong nông dân.
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 24 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy
Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ Lúa trên đồng bằng sông Cửu Long
Riêng Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam chỉ đầu tư có 350 triệu/năm. Viện
Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam 150 triệu/năm, Viện Rau quả miền
Bắc 243 triệu/năm, kinh phí dùng cho công tác khuyến nông chưa quá 3 tỉ cho cả
nước, một con số quả thật rất khiêm tốn.
Điều này cho thấy tầm nhìn và những đầu tư của Nhà nước về công tác
khuyến nông cho cây ăn quả chưa xứng tầm. Nông dân ngày nay muốn họ làm
được điều gì cần phải có mô hình sản xuất để chứng minh cho bà con hiểu. Mặc
dù bà con rất năng động nhưng có những cái Nhà nước phải dẫn đường trước
nhất là trong giai đoạn tiền hội nhập.
3.3 CƠ HỘI
- Khi gia nhập WTO thì hàng rào thuế quan được tháo dỡ, hàng hoá nước
ngoài tràn vào Việt Nam với giá rẻ trong đó có nhiều hàng hóa phục vụ cho sản
xuất lúa: máy móc thiết bị, phân bón, thuốc trừ sâu…sẽ làm giảm chi phí sản
xuất cho người nông dân.
- Tiếp cận tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại khi Việt Nam trở thành thành
viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO)Là thành viên thứ 158 của tổ chức
thương mại thế giới (WTO), môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh sẽ thuận
lợi hơn, thông thoáng hơn, ổn định hơn, minh bạch hơn. Nhờ đó, nông dân có
nhiều khả năng tiếp cận được với những tiến bộ rất lớn lao về Công nghệ sinh
học của các nước phát triển, từ đó có thể nâng cao nhanh chóng sản lượng và
năng suất cây trồng.
3.4 ĐE DỌA
-
Khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, Chính phủ sẽ không được phép
trợ giá đối với các hàng nông sản. Để các mặt hàng nông sản của Việt Nam có
thể cạnh tranh trên một thị trường có lẽ quá khó khăn đối với nông dân trong
nước. Đồng thời khi gia nhập thì hàng rào thuế quan được tháo dỡ, hàng hoá
nước ngoài tràn vào Việt Nam, mà hàng hoá nước ngoài thường chất lượng
cao hơn, giá cả cũng rẻ hơn nên gây bất lợi cho thị trường lúa gạo trong nước.
-
Chi phí sản xuất có xu hướng tăng lên do biến động của thị trường thế giới
và quyền sở hữu trí tuệ. Thách thức lớn nhất khi Nông nghiệp Việt Nam đã hội
GVHD: Mai Lê Trúc Liên
Trang - 25 -
SVTH:Lâm Đỗ Thuý Duy