KHÁI QUÁT VỀ SUY LUẬN
Đến nay chúng ta đã nghiên cứu các hình thức biểu thị tư tưởng cơ bản như
khái niệm và phán đoán. Ngoài những hình thức biểu thị tư tưởng, tư duy còn có
các hình thức sản sinh ra tư tưởng mới từ các tư tưởng đã có, rút ra các tri thức
mới từ tri thức đã biết. Hình thức đó gọi là suy luận.
Suy luận có một vai trò vô cùng to lớn trong nhận thức và trong đời sống. Trong
cả hai lĩnh vực này con người chỉ có được một cách trực tiếp (nhờ quan sát, làm
thí nghiệm, trải nghiệm,… ) một lượng nhỏ thông tin mà thôi. Lượng thông tin đó
hoàn toàn không đủ cho hoạt động của con người. Để có thể hoạt động hiệu
quả, con người phải rút ra nhiều thông tin khác từ các thông tin đã có, tức là phải
suy luận.
Nghiên cứu suy luận là vấn đề trọng tâm của logic học.
I. ĐỊNH NGHĨA VÀ CẤU TRÚC
1. Định nghĩa
Suy luận (còn gọi là suy diễn logic) là hình thức của tư duy, trong đó từ một số tri
thức đã có rút ra tri thức mới.
2. Cấu trúc
Suy luận gồm có hai thành phần là tiền đề và kết luận. Tiền đề là những tri
thức đã biết, hoặc được thừa nhận, làm cơ sở cho suy luận, còn kết luận là tri
thức được rút ra. Tiền đề có thể được tạo thành từ nhiều tri thức, sự kiện khác
nhau. Mỗi sự kiện hay tri thức trong phần tiền đề cũng được gọi là các tiền đề.
Cũng tương tự như vậy, kết luận có thể bao gồm nhiều tư tưởng, tri thức khác
nhau. Mỗi tri thức hay tư tưởng trong phần kết luận cũng được gọi là các kết
luận. Trong suy luận thường có các từ chỉ thị tiền đề, cho biết phần nào đó của
nó là phần tiền đề; hoặc là từ chỉ thị kết luận, cho biết phần nhất định nào đó của
suy luận là kết luận. Các từ chỉ thị tiền đề trong tiếng Việt rất đa dạng. Một số từ
trong đó là : vì, bởi, do, …. Các từ chỉ thị kết luận cũng rất đa dạng, một số từ
thường gặp là : do đó, vậy, bởi vậy, vì vậy, từ đó, suy ra, …
3. Ví dụ
Toàn cầu hóa là kết quả phát triển của lực lượng sản xuất, là
một quá trình tất yếu. Tuy vậy, toàn cầu hoá hiện nay có ảnh
hưởng hai mặt đối với các nước đang phát triển. Vì vậy, nước
Ví dụ 1:
ta không thể quay lưng lại với tiến trình toàn cầu hoá, nhưng
phải biết khai thác những thuận lợi mà quá trình này đem lại
và đồng thời phải hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nó.
Phần in nghiêng trên đây là một suy luận. Phần từ đầu đến từ "vì vậy" là tri thức
đã biết, đã được thừa nhận, hoặc được giả định, là phần tiền đề. Phần còn lại là
phần kết luận, được rút ra từ phần tiền đề. Trong suy luận này từ "vì vậy" ngăn
cách hai phần tiền đề và kết luận. Có thể coi hai câu trong phần tiền đề là hai
tiền đề. Các phần "nước ta không thể quay lưng lại với tiến trình toàn cầu hoá",
"phải biết khai thác những thuận lợi mà quá trình này đem lại" và "phải hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực của nó (toàn cầu hoá)" là các kết luận của suy luận
đang xét.
“Thưa các đồng sự,
Chúng tôi kêu gọi các bạn hãy xem xét tới một triển vọng khác về tình
hình ở VN. Đã gần 10 năm kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ.
Trong suốt thời gian đó, đất nước chúng ta đã thúc đẩy mối quan hệ mới
này dựa trên sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau. Một số những tiến triển
tích cực bao gồm:
- Tháng 5-2004, Mỹ và VN đã hoàn thành chuyến công tác thứ 93 về tìm
kiếm người Mỹ mất tích với kết quả đến nay là khai quật 822 hài cốt,
trong đó nhận dạng và trao trả hơn 500 hài cốt lính Mỹ về gia đình.
- Sau gần năm năm kể từ khi ký Hiệp định thương mại song phương
(BTA), Mỹ hiện trở thành đối tác thương mại lớn nhất của VN.
- Cập cảng TP HCM tháng 11-2003, tàu Vandergrift trở thành tàu hải
quân đầu tiên của Mỹ thăm VN sau gần 30 năm. Con tàu hải quân thứ
hai của Mỹ dự kiến thăm Đà Nẵng, thành phố của huyền thoại “biển
Trung Hoa” - vào cuối năm nay. Những chuyến thăm này đang thúc đẩy
quan hệ quân sự vốn đã được cải thiện giữa hai nước.
Ví dụ 2:
- Vào ngày 23-6-2004, Tổng thống Bush thông báo VN được đưa vào
danh sách 15 nước tiêu điểm trong kế hoạch khẩn cấp phòng chống
HIV/AIDS. Tổng thống tuyên bố: “Giờ đây, sau những phân
tích kỹ lưỡng từ các nhân viên, chúng tôi tin rằng VN xứng đáng được
nhận sự trợ giúp đặc biệt này. Chúng ta đang để lại sau lưng lịch sử cay
đắng”. Tổng thống tiếp tục: “Cùng nhau, chúng ta sẽ chiến đấu chống lại
dịch bệnh. Các bạn đã có thêm một người bạn mới ở châu Mỹ”.
- Jerry Jennings, phó trợ lý bộ trưởng ngoại giao về POW/MIA, thăm VN
đầu tháng 6-2004 và trở về Mỹ với một tin nổi bật liên quan tới việc VN
cho phép phía Mỹ tiếp cận với các hồ sơ lưu trữ quốc gia. Ông tuyên bố:
“Tôi rất hài lòng với kết quả các cuộc thảo luận tại VN. Cam kết từ các
quan chức chính phủ cấp cao nhất mang tới cho chúng ta cơ hội đạt
được những kết quả quan trọng”.
Những ví dụ này minh họa cho tiến triển thật sự trong phát triển quan hệ
với VN. Với tư cách là những đồng chủ tịch của nhóm nghị sĩ Mỹ - Việt
được thành lập để thúc đẩy mối quan hệ đang thăng tiến này, chúng tôi
đề nghị quí vị hãy cùng chúng tôi bỏ phiếu “Chống” cho nghị quyết HR
1587"[1].
Đoạn văn trên đây là một suy luận, trong đó, từ những tiền đề là các ví dụ về sự
phát triển trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Mỹ, các tác giả rút ra kết
luận rằng mối quan hệ đó đang có tiến triển tích cực (và vì thế không nên phá
hoại nó, hãy bỏ phiếu “Chống” cho nghị quyết HR 1587). Ở đây đoạn văn nhỏ
cuối cùng là kết luận của suy luận, toàn bộ phần trên đó là các tiền đề, cụm từ
“những ví dụ này minh họa cho” là phần chỉ thị cả tiền đề và kết luận của suy
luận.
II. SUY LUẬN HỢP LOGIC (ĐÚNG LOGIC) VÀ SUY LUẬN ĐÚNG
Không phải suy luận nào cũng được chấp nhận. Chỉ có những suy luận thỏa
mãn những yêu cầu nhất định mới được chấp nhận mà thôi. Những yêu cầu như
vậy phụ thuộc vào các loại suy luận cụ thể và sẽ được nghiên cứu trong các
chương tiếp theo của sách này. Ở đây chúng tôi chỉ nêu các khái niệm suy luận
hợp logic (còn gọi là suy luận đúng về logic) và suy luận đúng mà thôi.
Suy luận hợp logic (valid) là suy luận tuân thủ các quy tắc logic. Ngay cả khi suy
luận có các tiền đề và kết luận sai thì nó vẫn hợp logic, nếu nó tuân thủ các quy
tắc logic. Chẳng hạn, suy luận:
Mọi loài chim đều biết bay,
Đà điểu là loài chim,
Vậy đà điểu biết bay ;
có tiền đề đầu tiên sai, kết luận cũng sai, nhưng vì tuân thủ tất cả các quy tắc
logic nên nó là suy luận hợp logic.
Ngược lại, dù suy luận có tất cả các tiền đề và kết luận đều đúng, nhưng vi
phạm các quy tắc logic thì suy luận đó không hợp logic. Chẳng hạn, suy luận:
Trong thời đại toàn cầu hóa, các nước đang phát triển cần phải tham gia
tích cực vào các diễn đàn đa phương để bảo vệ quyền lợi của mình,
Việt Nam đang tham gia tích cực vào các diễn đàn đa phương,
Như vậy Việt Nam là một nước đang phát triển ;
có các tiền đề và kết luận đều đúng, nhưng không thỏa mãn các quy tắc logic,
nên là suy luận không hợp logic.
Suy luận hợp logic, tức là suy luận tuân thủ các quy tắc logic, chính là loại suy
luận trong đó các tiền đề tạo thành cơ sở đầy đủ cho kết luận. Những suy luận
không hợp logic là những suy luận mà tiền đề hoặc không liên quan đến kết luận
(xét về mặt logic) ; hoặc có liên quan đến, nhưng chưa đủ cơ sở để rút ra kết
luận; hoặc là tổng hợp của cả hai trường hợp đó.
Suy luận “Mọi sự vật và hiện tượng xảy ra và tồn tại trong thế giới của chúng ta
đều tuân theo những quy luật nhất định và tạo nên một sự hài hòa tuyệt diệu.
Như vậy chắc chắn có Chúa Trời" rõ ràng có tiền đề đúng, tuy nhiên tiền đó
chưa phải là cơ sở đầy đủ để có thể rút ra được kết luận. Vì thế đây là suy luận
không hợp logic.
Suy luận đúng (sound) là suy luận hợp logic và có các tiền đề và kết luận đều
đúng. Suy luận về đà điểu trên đây là suy luận không đúng, vì nó có một tiền đề
và kết luận sai. Khái niệm suy luận đúng có mức độ trừu tượng hóa thấp hơn
khái niệm suy luận hợp lý. Nếu để xác định xem một suy luận là hợp logic hay
không ta chỉ cần có tri thức logic thôi thì để xác định một suy luận có đúng hay
không ngoài tri thức logic ra, ta cần phải có tri thức về lĩnh vực mà suy luận đó
nói tới. Chẳng hạn, phải có tri thức vật lý nguyên tử và hạt nhân mới có thể xác
định tính đúng sai của suy luận: “Tất cả các trường vật lý đều có hạt truyền
tương tác. Trường hấp dẫn cũng là một trường vật lý. Như vậy trường hấp dẫn
cũng có hạt truyền tương tác". Chính điều này làm cho khái niệm suy luận đúng
có giới hạn ứng dụng hẹp hơn nhiều so với giới hạn ứng dụng của khái
niệm suy luận hợp logic.
Logic hình thức không quan tâm đến nội dung cụ thể của các hạn từ, khái niệm,
phán đoán, … nên, đối với nó, khái niệm hợp logic (đúng logic) có vai trò quan
trọng hơn khái niệm đúng của suy luận. Trong sách này chúng tôi dùng từ
suy luận đúng để nói đến suy luận hợp logic, tức suy luận đúng logic.
III. CÁC LOẠI SUY LUẬN
1. Phân loại căn cứ vào số lượng tiền đề
Căn cứ vào số lượng tiền đề của suy luận, người ta chia chúng ra thành suy
luận trực tiếp - suy luận có một tiền đề, và suy luận gián tiếp - suy luận có từ hai
tiền đề trở lên.
(a) Vì có một số người ủng hộ việc áp dụng kỹ thuật sinh sản vô tính với
con người, nên không thể nói rằng mọi người đều phản đối điều này.
(b) Khi hiệp định thương mại với Mỹ được ký kết, cơ hội xuất khẩu hàng
hoá của các công ty nước ta trở nên lớn hơn nhiều nhờ có được một thị
trường rộng lớn. Ngày 14/7/2000 Hiệp định Thương mại Việt Nam - Mỹ
đã được ký kết. Như vậy các công ty nước ta có được cơ hội lớn hơn
nhiều để xuất khẩu hàng hoá.
Trong ví dụ 3, (a) là suy luận trực tiếp, còn (b) là suy luận có hai tiền đề, là suy
luận gián tiếp.
Ví dụ 3:
2. Phân loại căn cứ vào việc sử dụng thông tin chứa trong cấu trúc chủ từthuộc từ của các phán đoán thuộc tính đơn.
Suy luận trong đó không tính đến thông tin chứa trong cấu trúc chủ từ - thuộc từ
có mặt trong các tiền đề được gọi là suy luận với tiền đề phức, hay là suy luận
trong logic mệnh đề. Suy luận trong đó có tính đến loại thông tin nêu trên gọi là
suy luận trong logic vị từ. Một dạng của loại suy luận này mà chúng ta sẽ xét đến
gọi là tam đoạn luận đơn.
Ví dụ 4:
(a) Nếu thị trường vốn ngắn hạn của nước X hoàn toàn bị thả lỏng, không
kiểm soát, thì nền kinh tế của nước X có thể gặp phải những chao đảo dữ
dội. Thị trường vốn ngắn hạn của nước X bị thả lỏng, không kiểm soát. Vì
thế nền kinh tế của nước X có thể gặp phải những chao đảo dữ dội.
(b) Mọi sinh viên hiện nay đều phải biết sử dụng thành thạo máy vi tính.
Minh là một sinh viên. Vậy Minh phải biết sử dụng thành thạo máy vi tính.
Ở ví dụ 4 này (a) là suy luận với tiền đề phức, còn (b) là một suy luận trong logic
vị từ.
3. Phân loại theo độ tin cậy của kết luận
Nếu suy luận đảm bảo từ các tiền đề đúng kết luận sẽ chắc chắn đúng thì loại
suy luận đó là suy luận diễn dịch. Còn nếu các tiền đề đúng, nhưng suy luận
không đảm bảo kết luận là chắc chắn đúng thì loại suy luận đó là suy luận quy
nạp. Đây là cách hiểu hiện đại của các thuật ngữ suy luận diễn dịch và suy luận
quy nạp. Còn trong logic truyền thống người ta cho rằng suy luận, trong đó từ
tiền đề là tri thức khái quát rút ra kết luận là tri thức riêng lẻ, thì gọi là suy luận
diễn dịch. Suy luận trong đó từ các tiền đề là các tri thức riêng lẻ ta khái quát hoá
lên thành kết luận là tri thức chung, khái quát, thì gọi là suy luận quy nạp. Ngoài
hai loại này còn có dạng suy luận thứ ba là tương tự, hay còn gọi là loại suy, là
loại suy luận, trong đó từ tri thức về một đối tượng hay một mối quan hệ nào đó,
dựa trên sự tương đồng của đối tượng hay quan hệ này với một đối tượng hay
quan hệ khác nhận được tri thức về đối tượng hay quan hệ thứ hai này.
Các tam đoạn luận đơn đã dẫn trên đây là các ví dụ suy luận diễn dịch. Nếu
trong ví dụ 4(b) ta thấy có tiền đề là quy luật chung, khái quát “Mọi sinh viên hiện
nay đều phải biết sử dụng thành thạo máy vi tính”, từ đó người ta rút ra kết luận
là tri thức về một đối tượng sinh viên riêng lẻ “Minh phải biết sử dụng thành thạo
máy vi tính” theo đúng như quan điểm truyền thống về diễn dịch, thì ở ví dụ
4(b) khó nói rằng tri thức trong các tiền đề khái quát hơn so với tri thức có trong
kết luận, vì cũng đều nói về cùng một đối tượng (nước X). Rõ ràng là ở đây quan
điểm hiện đại vềdiễn dịch hợp lý hơn.
Sau đây là một suy luận quy nạp (theo cả hai quan điểm truyền thống và hiện
đại”.
Aristote, Descartes, Newton, Leibniz, Poincaré, Einstein, Bohr,
Ví dụ 5:
Heizenberg đều là các nhà khoa học tự nhiên vĩ đại và đều là các nhà triết
học lớn. Vậy các nhà khoa học tự nhiên vĩ đại đều là các nhà triết học lớn.
Trong ví dụ này ta thấy từ các trường hợp riêng Aristote, Descartes, Newton,
Leibniz, Poincaré, Einstein, Bohr, Heizenberg nêu trong tiền đề, người ta đã khái
quát hóa thành quy luật chung về tất cả các nhà khoa học tự nhiên vĩ đại trong
kết luận.
Ví dụ 6 sau đây là suy luận tương tự.
Ví dụ 6:
Những giọt nước lớn không bền, chúng bị phân rã thành các giọt nước
nhỏ hơn. Các nguyên tử lớn cũng giống như giọt nước. Vậy các nguyên
tử có nguyên tử lượng lớn, tức là có kích thước lớn, cũng không bền, sẽ bị
phân rã thành các nguyên tử nhẹ hơn.
Trong ví dụ trên đây căn cứ vào sự giống nhau của giọt nước và nguyên tử mà
từ sự phân rã của những giọt nước lớn người ta đi đến kết luận về sự phân rã
của các nguyên tử có nguyên tử lượng lớn.
Trong sách này chúng ta sử dụng quan niệm hiện đại về diễn dịch và quan niệm
truyền thống về quy nạp và loại suy. Ta sẽ xét một số dạng suy luận diễn dịch và
suy luận quy nạp, suy luận tương tự.