Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tổng quan dân tộc X Tiêng (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.38 KB, 12 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG
MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Xtiêng ................................................................................................... 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 3

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 3

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 4

2.5.



Trao đổi mua bán.............................................................................................................. 5

Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 5
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 5

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 6

3.3.

Y phục, trang sức ............................................................................................................. 7

3.4.

Ẩm thực ............................................................................................................................ 7

3.5.

Phương tiện vận chuyển ................................................................................................... 8

3.6.

Ngôn ngữ .......................................................................................................................... 8

3.7.


Tín ngưỡng tôn giáo ......................................................................................................... 8

3.8.

Lễ hội................................................................................................................................ 9

3.9.

Gia đình ............................................................................................................................ 9

3.10.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 10

3.11.

Tập quán sinh đẻ, nuôi dạy con nhỏ ........................................................................... 10

3.12.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 10

3.13.

Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 11

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 12


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần


1. Vài Nét Về Dân Tộc Xtiêng
Dân số : 85.436 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn Khơ me, ngữ hệ Nam Á
Tên gọi khác:Xa Điêng hay Xa Chiêng
Nhóm địa phương: Bù Lơ, Bù Đêk, Bù
Biêk
Địa bàn cư trú:Bình Phước,Tây Ninh,
Đồng Nai,Lâm Đồng, Bình Dương

Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Xtiêng ở Việt Nam có dân
số 85.436 người, có mặt tại 34 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Xtiêng cư
trú tập trung tại tỉnh Bình Phước (81.708 người, chiếm 95,6% tổng số người
Xtiêng tại Việt Nam), Tây Ninh (1.654 người), Đồng Nai (1.269 người), Lâm
Đồng (380 người), Bình Dương (153 người)

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Trồng trọt trên rẫy là nghề làm ăn chính của dân tộc Xtiêng.
Đồng bào gieo trồng cây lúa nương. Do điều kiện tự nhiên
thuận lợi: đất đai phì nhiêu, khí hậu ổn định, không bị bão lụt,
cho nên nghề làm rẫy của đồng bào được coi là tương đối ổn
định. Trên rẫy, ngoài cây lúa, đồng bào còn trồng xen canh
nhiều loại cây lương thực, rau, quả khác. Cây xen canh được
đồng bào trồng nhiều là: ngô, đậu, đu đủ, ớt, bầu, bí, rau,
thuốc. Nơi núi rừng bạt ngàn, có nhiều muông thú hay phá hại
mùa màng, nhất là khi mùa màng được thu hoạch.
Đẻ bảo vệ mùa màng, đồng bào còn làm nhà trên rẫy để
trông nom, bảo vệ hoa màu khỏi bị thú rừng phá hại. Đến

mùa, công việc thu hoạch vẫn tiến hành theo từng gia đình,

Trang phục lên nương
(Ảnh sưu tầm)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 12


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần

cho nên, một mặt thu hoạch không thể nhanh, bị chim chóc ăn nhiều, mặt khác lúa quá
chín bị rơi vãi nhiều. Theo quan niệm của đồng bào, việc chim ăn rơi vãi cũng là hiện
tượng phải chấp nhận. Người no, chim thú cũng phải no; người vui thì mọi vật cũng được
dự phần, được chia sẻ, đền bù. Đồng bào Xtiêng làm rẫy chỉ trồng lúa năm đầu, năm sau
thường chuyển sang trồng sắn không đòi hỏi đất màu mỡ như cây lúa. sắn trồng nhiều,
không thu hoạch hết, thường để lưu niên, lẫn với rừng tái sinh.
Người Xtiêng có nghề làm vườn. Hầu như từng gia đình đều có vườn ở phía sau nhà ở.
Trong vườn của từng gia đình thường trông: bâu, chuối, trầu không, ớt. Một số gia đình
còn trồng ở trong vườn các loại cây thuốc thông thường, cây đu đủ. Vùng Bù Đốp người
dân trồng nhiều cây vú sữa. Nhìn chung, nghề làm vườn chỉ được thị dân chú ý, còn ở
nông thôn thì chưa được người dân quan tâm.
2.2. Chăn nuôi
Chăn nuôi mang tính phổ biến trong từng
gia đình. Đồng bào thường nuôi trâu, lợn,
gà, vịt, chó. Nuôi lợn, gà, vịt nhằm phục vụ
cho các lễ nghi tôn giáo, lễ tết, hội hè kết
hợp với ăn thịt. Con trâu ở đồng bào Xtiêng
không phải là sức kéo nông nghiệp, mà là
vật ngang giá trong trao đổi, làm vật hiến
sinh trong các dịp cúng thần linh- cúng

Jàng, hoặc làm thức ăn trong những dịp lễ
hội lớn của làng. Xưa kia, các súc vật nuôi
trong nhà, nếu đẻ số lẻ: 3, 5, 7 con,
Chăn nuôi trâu của đồng bào (Ảnh sưu tầm)
thường bị đập chết cả, không nuôi, vì bị
coi là xui xẻo.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sống sát biên giới với Căm-pu-chia, nơi núi rừng còn nhiều lâm thổ sản, người Xtiêng đã
tận dụng những của cải thiên nhiên ban cho. Đồng bào ở đây thường hái lượm, săn bắn và
đánh cá. Công việc hái lượm các rau rừng, măng rừng, mộc nhĩ, nấm hương... thường do
chị em phụ nữ đảm nhiệm. Vào mùa vụ, chị em suốt ngày đi làm trên rẫy. Họ thường
tranh thủ hái lượm sau buổi đi làm, trên đường về nhà. Còn mùa nông nhàn thì họ dành
nhiều thì giờ hơn cho việc đi kiếm lâm thổ sản. Ngoủi việc cung cấp nguồn thực phẩm,
rừng còn cung cấp gỗ làm nhà, làm công cụ sản xuất, làm củi đun và nhiều dược liệu
khác nhau. Nẹuồn lâm thổ sản thực sự góp phần quan trọng trong đời sống vật chất của
đong bào.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 12


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần

Cá là nguồn thực phẩm quan trọng của người Xtiêng. Trên các dòng chảy qua vùng người
Xtiêng đều được đồng bào khai thác cá, tôm, cua, ốc, sò, hến... Những phương thức đánh
bắt cá thường gặp là dùng đơm, đó đế đánh bẫy; ngăn các dòng chảy của suối, rồi tát bắt
cá; dùng thuốc độc lá cây đánh bả, duốc cá. Mọi nệười dân trong làng: trẻ em, nam, nữ
đều có thể tham gia đánh bắt cá, nhất là trong những tháng thuộc mùa khô. Còn hội băt cá
thì thường tô chức đánh băt cá vào đâu mùa mưa. Cá đánh bắt từ các dòng sông, suối
thực sự là nguồn thức ăn nguồn gốc động vật chủ yếu của người Xtiêng.
Săn bắn là công việc của người đàn ông. Với họ vừa là bảo vệ mùa màng, vừa là thú vui
giải trí, rèn luyện sự dũng cảm, kiên trì của các chàng trai, nhất là khi phải đối mặt với

những con thú dữ như bò rừng, voi. Với chiếc nỏ trên vai, người con trai Xtiêng có thể đi
rình con thú suốt đêm. Người đi rình con mồi say sưa như một thú vui hơn là tỉm kiếm
nguồn thức ăn thêm. Khi vào cuộc săn, người Xtiêng có thể giả tiếng kêu của hươu, nai,
gọi chúng lại nơi người đã nấp sẵn, để hạ thù chúng. Vũ khí dùng để săn bắn chủ yếu là
chiếc nỏ do đồng bào tự sản xuất và mũi tên cũng do đồng bào tự làm. Đồng bào biết
cách tẩm thuốc độc vào mũi tên nhưng ít khi dùng mang hay dùng mũi tên không tâm
thuốc độc để đi săn.
2.4. Ngành nghề thủ công
Với nền kinh tế tự túc, tự cấp, người Xtiêng bắt buộc phải
làm nghề thủ công. Trong dân tộc Xtiêng có một số nghề thủ
công khá phát triển. Dó là các nghề đan lát, nghề dệt, nghề
rèn, nghề làm gốm.
Nghề đan lát là việc của đàn ông. Con trai từ lúc còn bé đă
được bố, anh hướng dẫn dan lát mây, tre. Do vậy, có thể nói,
là nam giới ai cũng biết đan lát. Đan đẹp hay không còn là
do “khéo tay” của từng người. Những sản phẩm đan phổ
biến là: gùi, đồ đựng thóc, đựng dụng cụ, quần áo, để mang
củi, mang nước; đan các đồ gia dụng khác như: Ihúng, mủng,
nong, nia, cót, phên. Nhìn chung, đồng bào tự túc tất cả hững
đồ dùng được đan bằng mây, tre.

Nghề dệt của người
Xtiêng (Ảnh sưu tầm)

Nghề dệt: Nghề dệt là công việc của đàn bà. Cũng như con trai, tất cả con gái khi lớn lên
đều được mẹ và chị chỉ bảo cho việc dệt, khâu may quần áo, khâu mền,... Tuy nhiên,
nghề dệt ở người Xtiêng, về sau lại không mấy phát triển, đồng bào thường dùng những
vật phẩm do mình làm ra để trao đổi lấy quần áo may sẵn.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 12



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần

Nghề rèn: Trước đây, nghề rèn ở người Xtiêng khá phát triển. Họ mua sắt ở chợ, mang về
tự rèn lấy công cụ sản xuất để dùng và rèn cả vũ khí. Thực dân Pháp cai trị nước ta, sợ
đồng bào rèn vũ khí chống lại, cho nên đã tìm cách làm mai một nghề rèn của người
Xtiêng, bằng cách bán công cụ sản xuất với giá rẻ mạt, thậm chí cấp không cho đồng bào.
Vì vậy, nghề rèn về sau đã không phát triển được.
Nghề gốm: Ở người Xtiêng, nghề gốm chỉ làm được những chiếc nồi đất thông thường,
với kỳ thuật bàn dập hòn kê và nung không lò, xếp đồ gốm trên mặt đất nung sơ sài.
Nghề gốm của người Xtiêng với kỹ thuật đơn giản như nêu trên đã bị gổm các nơi khác
được sản xuất với kỹ thuật cao hơn tràn đến, làm cho gốm của đồng bào không còn cơ
hội phát triển.
2.5. Trao đổi mua bán
Sinh sống ở miền Đông Nam Bộ, người Xtiêng có tham gia vào một sô hoạt động trao
đôi hàng và mua bán theo hai cách: cách thứ nhất, thương lái mang hàng đến làng người
Xtiêng để đổi hàng; cách thứ hai, người Xtiêng mang hàng ra chợ bán lấy tiền mua hàng
mà đồng bào cần. Những thứ hàng mà đồng bào đem đổi lấy hàng thường là trâu, nồi
gốm, lâm thổ sản, mật ong, ngà voi, sừng tê giác. Một nồi gốm, đồng bào đôi lấy một số
lượng thóc vừa chứa đầy trong nồi đó; nậà voi, sừng tê giác có thể đổi lấy chiêng, ché, vũ
khí; mật ong có thể đổi lấy quần áo. Con trâu có vị trí quan trọng trong môi giới trao đổi
và mua bán.
Phạm vi quan hệ buôn bán của người Xtiêng cũng khá rộng, phía Đông đến mạn biển
Bình Định, phía Tây Bắc đến tận biên giới Thái Lan - Miên Điện. Voi được sử dụng vào
việc chuyên chở hàng các nơi xa, gần.

3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Người Xtiêng cư trú thành từng làng. Mỗi làng có

phạm vi cư trú, có ranh giới riêng. Ranh giới các
làng không được văn bản hóa mà chi truyền miệng.
Trong phạm vi một làng, đất được chia thành đất tư
và đất chung. Đất tư là đất của từng gia đình sử
dụng để làm nhà ở, làm đất sản xuất: nương rẫy,
vườn. Đất chung là đất rừng thuộc phạm vi bản,
chưa được khai phá thành rẫy, khúc sông chảy qua
bản, dùng để thả rông trâu, để hái lượm lâm thổ sản,
săn bắn muông thú, đánh bắt cá, tôm. Một số làng

Một gốc làng của người Xtiêng

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 12


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần

được dựng lên ở nơi hiểm trở, có hàng rào bao quanh.
Mỗi làng (sóc) là một đơn vị xã hội. Trong làng thường cư trú từ vài hộ đến vài chục hộ.
Người dân trong làng thường có quan hệ họ hàng với nhau. Tuy nhiên, trong một số làng
có cả dân tộc khác cùng cư trú. Các chủ hộ trong làng họp thành một tổ chức có tác dụng
như một Hội đồng quản lý công việc thực tế trong làng. Hội đồng cử ra người đứng đàu,
thường là người già có nhiều uy tín, kinh nghiệm trong sản xuất, trong ứng xử cộng đồng
và xã hội. “Hội đồng” làng có quyền hành lớn xử lý các việc chiến tranh, hoà bình, làm
ăn. Trong làng có những kiêng kỵ: khi dựng làng mới, trong vòng 7 ngày đầu tiên, cấm
người làng khác đến, cấm đem vào làng các thứ: thóc, cối, chày, ché rượu; không nấu
nướng trong nhà, không ăn rau, thịt lợn, thịt gà,... Chiếc thừng cuốn ít lá treo ở cổng làng
(sóc), chính là dấu hiệu cấm vào làng. Trong những ngày dựng cột đâm trâu mừng làng
mới, tất cả đàn ông phải ra làng ngủ đêm.
3.2. Nhà ở

Nhà của người Xtiêng thường có: nhà
ở, nhà coi rẫy và nhà kho. Nhà ở của
đồng bào là nhà sàn, độ cao cách mặt
đất không quy định cụ thể, khoảng từ
80 cm đến hơn100m Nhà được làm
bằng nguyên liệu: gỗ, tranh, tre, nứa, lá,
lấy từ trong rừng, không mất tiền mua,
chỉ mất công đi tìm và lấy về. Nhà có 4
mái: hai mái chính và hai mái ở hai đầu
hồi. Mái hai đầu hồi có hình tròn và đó
cũng là nơi mở cửa ra vào nhà. Nhìn từ hình thức bên ngoài vào ngôi nhà, một đặc điểm
nổi bật là mái nhà rất thấp, sà sát đất. Cho nên, chỗ mở cửa đi lại phải cắt mái nhà cao lên
để lấy lối đi lại. Bên trong nhà về cơ bản được chia thành hai nửa theo chiều dọc mái nhà:
một nửa dành để ngủ cho từng đôi vợ chồng, có ngăn riêng; nửa kia sử dụng cho sinh
hoạt chung của toàn gia đình: ăn uống, tiếp khách, đánh chiêng, vui chơi. Trong làng có
nhà rông - nơi hội họp, vui chơi công cộng, con trai chưa vợ ra ngủ. Có nhà nghiên cứu
cho rằng, nhà rông có lỗ không phải sản phẩm chính của đông bào, vì thuật ngữ nhà rông
được người Xtiêng sử dụng để gọi cả nhà thờ Công giáo, Hội quán Tin Lành, chùa, miếu
của người Kinh. Phải chăng, nhà rông đã tồn tại trước khi có nhà thờ Công giáo, Hội
quán Tin Lành, chùa, miếu. Và khi có nhà thờ, hội quán thì người Xtiêng mới gọi chúng
là nhà rông. Bởi lẽ, xét cho cùng về cơ bản, bản chất của nhà thờ và hội quán cũng có
chức năng là nơi sinh hoạt công cộng của cả làng như nhà rông.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 12


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần

Công cụ làm nhà chính là chiếc chà gạc và chiếc rìu. Với công cụ đơn sơ như vậy, kỹ
thuật làm nhà cũng rất đơn giản: dùng cây có ngoãm, chôn cột xuống đất, dùng dây rừng,
lạt tre để buộc, kết giữ các điểm gỗ, tre giao nhau.

Nhà nào cũng có một bộ cộng cụ chế biến thóc lúa, gồm: cối giá, chày tay, thúng, mủng,
nong, nia, giần, sàng; một bộ đồ nấu nướng: nồi đất, ống tre làm cơm lam, vỏ bầu khô.
3.3. Y phục, trang sức
Tài liệu xưa cho biết, vào cuối thế kỷ XIX,
trang phục của người Xtiêng ở dạng: nam
giới đóng khố, ở trần; phụ nữ mặc váy, ở trần
hoặc mặc áo. Mùa lạnh họ có áo chui đầu và
những người già thường khoác thêm tấm
mền. Họ ưa đeo nhiều đồ trang sức. Đồ trang
sức có thể bằng kim loại, cũng có thể là
những chuỗi hạt cườm, thậm chí một cánh
tay đeo tới 20 chiếc vòng nhôm hay bạc. Có
cả vòng ống cuốn từ sợi dây đồng dài, ôm
lấy ổng chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà voi rất được chị em ưa chuộng.
3.4. Ẩm thực
Trong cuộc sống hàng ngày,
người Xtiêng ăn cơm tẻ, cơm nếp
với thực phẩm chủ yếu là rau xanh
kiếm được ở trong rừng, rau trồng
trong vườn nhà và cá, tôm ở sông
suối. Thức ăn nguồn gốc động vật
săn bắn được có ý nghĩa góp phần
nâng cao chất lượng bữa ăn,
nhưng không ổn định, lúc nhiều,
lúc ít, không chủ động được thời
hạn. Nguồn thức ăn là gia súc, gia
cầm thường sừ dụng kết hợp với việc
Người Xtiêng rất thích ăn đọt mây
cúng tế thông qua các lễ hội cúng
(Ảnh sưu tầm)

Jàng. Đồng bào Xtiêng ăn thịt voi rừng, nhưng không ăn thịt voi nhà. Khi voi nhà chết,
đồng bào thường đem chôn. Việc không ăn thịt voi nhà, một số nhà nghiên cứu cho rằng,
có thể liên quan đến những điều cấm kỵ; nhưng cũng có người cho rằng đây chỉ là tình
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 12


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần

cảm của nguời với con vật mình nuôi trong nhà. Người Xtiêng có cách chế biến thịt độc
đáo là bọc trong bẹ chuối hay lá chuối tươi, rồi đem nướng hoặc vùi dưới tro than hồng.
Đồ đựng cơm, rau, thịt chủ yếu là vỏ bầu khô. Đồng bào Xtiêng thích ăn trầu và hút
thuốc lá. Hầu như cả già, trẻ, trai gái đều biết hút thuốc lá. Thuốc lá do họ tự trồng, rất
“nặng”. Thuốc lá thu hoạch xong, phơi khô, để bảo quản thuốc hút quanh năm, đồng bào
xát thuốc lá bằng dao cật nứa, cho vào ống tre, nén lại chặt, để được lâu ngày.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Cũng như các dân tộc khác, người Sán
Chay sử dụng gùi như công cụ vận
chuyển hàng hóa thông dụng.
Chiếc gùi (Ảnh minh họa)

3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói của người Xtiêng thuộc hệ
ngôn ngữ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
Tiếng nói của người Xtiêng tương đối gần với tiếng
nói của người Mạ, người Mnông, người Cờ Ho.
Chữ viết: Trong lịch sử, người Xtiêng chưa có chữ
viết riêng của dân tộc mình. Trước năm 1975, đồng
bào có sử dụng chữ viết theo hộ chữ cái Latinh.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Đồng bào Xtiêng tin vào tôn giáo đa thần, vạn vật

hữu linh, mọi vật đều có hồn. Không chỉ sinh vật,
Chữ Khmer được người Xtiêng
mà vật vô tri, vô giác: hòn đá, vật dụng trong gia
dùng (Ảnh minh họa)
đình cũng có linh hồn. Các linh hồn đó là những lực
lượng siêu nhiên, có thể khống chế sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, có thể làm hại
người. Vì vậy, đồng bào phải tôn thờ chúng. Đồng bào thờ thần sấm sét, trời, đất, thờ mặt
trăng, mặt trời, thờ núi, sông. Theo quan niệm cùa đồng bào, trời có liên quan đến các lễ
nghi nông nghiệp; còn thần mặt trời là thần phồn thực, mang đến cho con người sự sinh
sôi, vui tươi, no đủ. Hệ thống tín ngưỡng đa thần xuất hiện trên cơ sở kinh tế tự túc, bén
rễ sâu nặng trong dân gian và đã đẩy lùi sự xâm lăng của Thiên chúa giáo.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 12


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần

3.8. Lễ hội
Một số lễ hội thường diễn ra trong đồng
bào Xtiêng: lễ chuẩn bị làm rẫy, lễ cầu
mưa, lễ cơm mới, lễ đâm trâu cúng
Jàng.
Lễ chuẩn bị làm rẫy - pêl-nong được
thực hiện vào tháng Giêng hàng năm, để
khẳng định quyền tiếp tục sử dụng rẫy
của chủ nó. Lễ cơm mới được tổ chức
ngay sau khi gặt được gùi lúa đầu tiên
của vụ mùa.
Tục đâm trâu cúng Jàng, thường kết hợp Lễ đâm trâu của người Xtiêng (Ảnh sưu tầm)
với những sự kiện mang tính quan trọng
ở trong làng. Theo quan niệm của đồng bào, mỗi sự kiện quan trọng đều có sự quan tâm

giúp đỡ của thần linh, vì vậy, mỗi lần trong làng có sự kiện quan trọng đều phải cúng
thần bằng trâu thì mới thể hiện sự trân trọng cao đối với thần linh - làng. Sự trân trọng
cao nhất đối với quyền lực thiêng liêng của Jàng được quy định bằng những vật hiến sinh
màu trắng: gà trắng, lợn trắng, trâu trắng1. Lễ đâm trâu cúng Jàng thường được tổ chức
trong 3 ngày. Nghi lễ được tổ chức như sau: Trên bãi đất rộng trước nhà rông, đồng bào
dựng cột đâm trâu. Cột đâm trâu được dựng bằng cây mứt - loại cây gỗ mềm, dễ đẽo, cây
thẳng, thớ gỗ trắng, tiện vẽ hoa. Trên cột đâm trâu treo nhiều hoa lá đẹp. Một con trâu
được buộc vào cột đâm trâu, nam, nữ múa đi vòng tròn quanh cột đâm trâu và con trâu
theo chiều ngược kim đồng hồ. Nhịp điệu nhảy này đồng bào gọi là nhịp giã cối. Hai đôi
nam nữ chưa vợ, chưa chồng đứng giữ nhịp và thay phiên nhau. Những người già uống
rượu, thổi khèn đệm cho dàn nhạc chiêng.
3.9. Gia đình
Gia đình của người Xtiêng là gia đình nhỏ phụ hệ. Trước đây có một số gia đình lớn,
nhưng không mang tính phổ biến và có xu hướng bị đẩy lùi về quá khứ. Trong gia đình
có bố mẹ và các con cái của họ được tính theo dòng họ bố. Tuy nhiên con trai hay con gái
đều được đối xử bình đẳng trong gia đình, cùng lao động cùng hưởng thụ.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 12


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần

3.10.
Tục lệ cưới xin
Dân tộc Xtiêng theo chế độ hôn nhân ngoại hôn dòng tộc. Nội hôn bị cấm ngặt. Tuy
nhiên, những người cùng huyết thống sau 5 đời có thể lấy nhau. Nếu vi phạm quy định
này coi như phạm tội loạn luân và bị phạt nặng, bị dư luận cộng đồng coi khinh.
Người Xtiêng thực hiện hôn nhân một vợ, một chồng bền vững. Hầu như không có ly dị.
Tuy nhiên khi có ly dị, luật tục cũng có những quy định cụ thể như: Nếu chông có tội
ngoại tình, thông dâm thì bị phạt rất nặng, có khi phạt đến 7, 8 con trâu và người vợ của

ông ta không được đòi ly dị. Nếu vợ chủ động đặt vấn đề ly dị, mà người chồng đồng ý
thì con theo bố. Trường hợp người chồng đi vắng lâu ngày, hoặc bị bắt làm nô lệ, người
vợ có thể lấy chồng khác, nhưng phải trả lại lễ vật thách cưới. Đàn bà góa có thể tái giá,
tuy nhà chồng cũng muốn giữ lại để gán cho người khác trong anh em, họ hàng, cho nên
muốn tái giá lấy người khác không trong họ hàng, thì họ nhà chồng cũ đòi lại của thách
cưới.
Sau cưới, theo tục lệ thông thường thì cô dâu về ở nhà chồng, nhưng nếu nhà chú rể chưa
lo đủ đồ dẫn cưới: ché quý, chiêng, cồng, trâu, theo yêu cầu của nhà gái thì phải ở rể vài
năm, sau đó, chú rể mới được đưa vợ về nhà mình ở lâu dài. Riêng ở vùng Bình Long
(tỉnh Bình Phước) chàng rể luôn phải về ở nhà vợ. Trong tập quán cưới xin cũng có sự
khác nhau đôi chút giữa nhóm Bù Lơ và nhóm Bù Đek. Nhóm Bù chỉ cho phép con trai
cô lấy con gái cậu với điều kiện cậu là anh của cô và chỉ chấp nhận một lần trong mỗi gia
đình; còn ở nhóm Bù Đok lại mở rộng hơn, con trai cô được lấy con gái cậu và con trai
cậu được lấy con gái cô.
3.11.
Tập quán sinh đẻ, nuôi dạy con nhỏ
Phụ nữ Xtiêng kiêng cữ cẩn thận ngay từ khi mang thai, nhưng đến khi sinh con thì hầu
như trước đây chị em tự xoay xở ở trong rừng. Đồng bào quan niệm rằng, nếu đẻ trong
nhà sẽ xúc phạm đến thần lúa. Về sau, một số nhà dựng kho thóc trong nhà ở, người phụ
nữ đẻ trong ngôi nhà nhỏ được dựng lên gần nhà ở để cho đẻ. Sau khi đẻ xong phải cúng
một con heo cho thần lúa.
3.12.
Tập quán tang ma
Người Xtiêng chia ra hành hai loại chết: chết bình thường và chết bất đắc kỳ tử. Chết
thường là chết già, chết bệnh, chết tại hà; chết bất đắc kỳ tử - chết thiêng là chết vì bom
đạn, chết ngã cây, chết đuối trôi sông, chết bị hổ vồ, v.v. Tương ứng với hai loại chết là
hai loại làm tang ma khác nhau.
Trường hợp chết bình thường, đồng bào hạ cây to, bổ đôi, khoét nửa làm hòm, nửa kia
làm nắp. Người chết được rửa ráy sạch sẽ, đặt vào áo quan ngay ngắn, không khâm liệm.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 12



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần

Bỏ một ít gạo, một ít thuốc lá vào phần đầu của thi thể, rồi đậy nắp lại, khiêng đi chôn.
Nơi chôn người chết thường xa nhà. Một nguyên tắc là kiêng kỵ không khiêng quan tài
người chết qua làng khác. Người Xtiêng có tục chia của cho người chết. Những chum,
ché chia cho người chết thường mang ra để trên mộ nhưng phải đập vỡ hoặc chọc thủng.
Sau khi chôn xong, đồng bào không tiếp tục thăm mộ nữa. Người Xtiêng không có tục
làm lễ bỏ mả như nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên.
Trường hợp chết không bình thường - chết thiêng, thường gia đình phải làm lễ cúng to,
tốn kém, kiêng cữ nhiều hơn. Do chết không bình thường là chết ngoài nhà, ngoài làng,
cho nên, mọi nghi lễ tang ma đều thực hiện ở ngoài làng và chôn ngay tại địa điểm chết,
không được mang về chôn ở nghĩa địa của làng.
Khi trong làng có người chết, cả làng không được gõ cồng, chiêng, trống vui nhộn trong
khoảng 10 ngày, để tỏ lòng thương tiếc người ra đi mãi mãi.
3.13.
Văn nghệ dân gian
Người Xtiêng rất ưa thích âm
nhạc. Hầu như mỗi nhà đều có
một bộ cồng, chiêng. Nhóm Bù
Lơ chủ yếu dùng chiêng mỗi bộ
6 chiếc; còn nhóm Bù Đok chủ
yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc.
Riêng trong đám ma chỉ dùng 3
cồng hoặc 3 chiêng. Với người
Xtiêng, cồng, chiêng chỉ được
đánh ở trong nhà, cấm đánh
cồng, chiêng ờ ngoài nhà vì lý
do kiêng kỵ. Trường hợp duy

Cồng chiêng được người Xtiêng sử dụng trong các
nhất được đánh cồng, chiêng
lễ hội
ở ngoài nhà, đó là khi đâm
trâu. Đồng bào Xtiêng mua cồng, chiêng ở nhiều nơi khác nhau, nhưng sau khi mua về,
đồng bào hiệu chỉnh lại âm thanh phù hợp với âm nhạc dân tộc, với âm giải ngũ cung.
Khi hoà tấu, mỗi người sử dụng một chiếc. Sau ngày mùa, đồng bào có thể tấu thâu đêm
suốt sáng, vừa tấu vừa uổng rượu cần. Người Xtiêng không chỉ sử dụng cồng chiêng khi
vui lễ hội, khi giao tiếp với thần linh, mà còn sử dụng cồng, chiêng để bộc lộ nỗi lòng, để
hoà giải xích mích giữa các gia đình. Người trong cuộc thổ lộ nỗi bức xúc qua tiếng cồng,
chiêng và người đứng ra hòa giải cũng dùng tiếng cồng, chiêng để bày tỏ chứng kiến của
mình, nhằm hoà giải xích mích giữa hai bên gia đình.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 12


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC XTIÊNG | Hoàng Trần

Ngoài các nhạc cụ cồng, chiêng, người Xtiêng còn ưa thích khèn bầu, tù và, trống và các
loại đàn.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 12



×